Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học -Giáo dục pháp luật cho ngư dân trên địa bàn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.44 KB, 111 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian qua, việc xây dựng hệ thống pháp luật của nhà nước ta ngày
càng được chú trọng và hoàn thiện, hệ thống pháp luật tương đối hồn thiện
đã trở thành cơng cụ hữu hiệu trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Tuy nhiên hệ thống pháp luật dù có hồn thiện đến đâu, mà người dân
khơng hiểu biết và khơng tự giác thực hiện, thì luật pháp vẫn chỉ nằm trên
giấy mà không phát huy được hiệu lực, không những làm cho xã hội khơng
phát triển mà cịn kìm hãm sự phát triển của xã hội, gây khó khăn cho nhà
nước trong việc quản lý xã hội, gây khó khăn cho chính người dân trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Vì vậy pháp luật phải đi
vào cuộc sống, nhân dân phải được biết, được hiểu pháp luật để sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật, để nhân dân có thể bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho chính mình, cho nhà nước và cho cộng đồng xã hội. Cho nên,
công tác giáo dục pháp luật giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, đặc
biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Giáo dục pháp luật (GDPL) có vai trị, vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì
nó chính là khâu đầu tiên trong tổ chức thực thi pháp luật, nên công tác giáo
dục pháp luật đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, xem đây là nhiệm
vụ quan trọng, góp phần nâng cao hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của
cán bộ, nhân dân. Quan điểm coi trọng hoạt động GDPL được thể hiện nhất
quán và ngày càng rõ nét qua các kì Đại hội đại biểu tồn quốc của Đảng, đặc
biệt từ khi đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới. Từ đại hội VI đến nay,
Đảng ta đã liên tục khẳng định vị trí, vai trị và tầm quan trọng của hoạt động
GDPL. Cụ thể, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định
việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải đi đơi với cơng tác tun
truyền và GDPL đó là: "Đổi mới và hồn thiện quy trình xây dựng luật, ban
hành và thực thi pháp luật, trong đó chú trọng việc tuyên truyền, GDPL và tổ
chức thi hành pháp luật một cách nghiêm minh" [18, tr.239].



2
Ngày 09/12/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số
32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Chỉ
thị khẳng định phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên, liên
tục của các cơ quan Đảng, chính quyền, Nhà nước và cả hệ thống chính trị,
coi cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của cơng tác giáo
dục chính trị, tư tưởng.
Thể chế công tác GDPL theo quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg
ngày 17/01/2003, phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ
năm 2003 đến năm 2007, Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004
phê duyệt Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn
từ năm 2005 đến năm 2010 (Chương trình 212). Ngày 26/11/2010 Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 2160/QĐ-TTg phê duyệt đề án tăng cường
công tác phổ biến, GDPL nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân
dân giai đoạn 2011-2015. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thơng qua Luật Phổ biến giáo dục pháp luật ngày 20
tháng 6 năm 2012, có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2013.
Trong các đối tượng của giáo dục pháp luật, ngư dân là đối tượng
không thể không đề cập đến, vì Việt Nam là quốc gia có diện tích biển rộng lớn,
với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số
165 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Trong 63 tỉnh,
thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số
sống tại các tỉnh, thành ven biển và sinh sống bằng nghề biển, là nhân lực phát
triển kinh tế của đất nước nói chung phát triển kinh tế biển nói riêng.
Quan điểm của Đảng và nhà nước ta trong việc phát triển kinh tế đất
nước, trong đó chú trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển,
phát triển kinh tế - xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển gắn kết với yêu cầu bảo


3
vệ đất nước, đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương
tác với các vùng và trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Trên cơ sở đó, trong thời gian qua hoạt động GDPL cho nhân dân nói
chung trong đó có ngư dân đã đạt được những kết quả đáng kể, góp phần
nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lý trong nhân
dân, bước đầu tạo dựng sự ổn định trong lối sống, làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật ở các đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, so với nhu cầu thực
tiễn, hoạt động GDPL vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế, nhất là GDPL cho
đối tượng là ngư dân. Do vậy cần tăng cường các biện pháp giáo dục pháp luật
nhưng bằng phương thức phù hợp để ngư dân dễ tiếp cận. Mặt khác, phát huy
vai trò của cộng đồng trong việc giáo dục pháp luật cho ngư dân, để họ có ý thức
tốt hơn trong việc thực hiện pháp luật. Làm tốt việc này sẽ giúp cho ngư dân có
lối sống lành mạnh, phát triển kinh tế gia đình có hiểu biết pháp luật, sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ chủ quyền biển đảo, cùng hướng
đến mục tiêu đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về
biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc
gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh.
Quảng Ngãi là một tỉnh nằm ở duyên hải miền trung, có bờ biển dài
130 km với vùng lãnh hải rộng lớn 11.000 km 2, có 6 cửa biển, với 6 huyện,
đảo trên tổng 14 huyện. Nhân dân 6 huyện chủ yếu sinh sống bằng nghề chài
lưới hoặc liên quan đến ngư nghiệp, nên ngư dân Quảng Ngãi chiếm lỉ lệ
không nhỏ trên tổng dân số của địa bàn tỉnh có vai trị quan trọng trong việc
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà.
Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước

thời gian qua, công tác giáo dục pháp luật cho nhân dân trong đó có ngư dân
ở tỉnh Quảng Ngãi mặc dù đã được quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Ý thức pháp luật và tình hình thực hiện pháp
luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ và ngư dân ở những vùng ven biển
còn rất hạn chế, làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh


4
Quảng Ngãi nói riêng, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ chủ
quyền biển đảo của nước ta nói chung.
Xuất phát từ thực tiễn đời sống, từ yêu cầu tăng cường, đổi mới hoạt
động giáo dục pháp luật, qua đó nâng cao hơn nữa tầm nhận thức và hiểu biết
pháp luật cho ngư dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc bảo vệ, xây dựng và đổi mới đất nước. Đặc biệt, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đẩy
mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước và hội nhập quốc tế. Với
những lý do như trên, việc chọn đề tài: “Giáo dục pháp luật cho ngư dân
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp là rất cần
thiết, nó vừa có ý nghĩa lý luận và vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách trên địa
bản tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giáo dục pháp luật là một trong những vấn đề luôn thú hút được sự
quan tâm của nhà nước, giới khoa học, và những nhà nghiên cứu, bởi giáo
dục pháp luật tốt sẽ tạo sự chuyển biến căn bản về ý thức tôn trọng và nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, góp phần nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và mọi công dân về vị trí, vai trị
của pháp luật và cơng tác giáo dục pháp luật trong đời sống xã hội, từ đó nâng
cao ý thức trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, nhân dân nói chung
ngư dân nói riêng trong thi hành và chấp hành pháp luật. Đồng thời giữ vững
ổn định tình hình chính trị, an ninh trật tự an toàn xã hội đáp ứng các yêu cầu

phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế. Tuy đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về lý luận một cách bài bản của các các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, của luật gia, các nhà khoa học về GDPL nhưng cho đến nay chưa
có cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về GDPL cho
ngư dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Do vậy, luận văn này là cơng trình
nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về nội dung và hình thức giáo dục
pháp luật đối với ngư dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Các cơng trình đã nghiên cứu về GDPL và có giá trị như là nguồn tài
liệu để tác giả tham khảo thực hiện đề tài này gồm:


5
- Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở
nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nhà nước và Pháp luật,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- Xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật do TSKH Đào
Trí Úc chủ biên, năm 2002.
- Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã phường thị
trấn từ năm 2005 đến năm 2010 ( Đề án 212).
- Xây dựng và phổ biến hệ thống kiến thức pháp lý cơ bản về quản lý,
bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên và môi trường biển, hải đảo Việt
Nam, đề án 373 của Bộ Tài nguyên môi trường năm 2010.
- Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường cao đẳng và đại học trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng, Luận văn thạc sĩ Luật học của Lê Thị Thắm, năm 2011.
- Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Cà Mau, Luận văn thạc sĩ Luật
học Lê Quốc Thịnh, năm 2011.
- Giáo dục pháp luật cho thanh niên trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi,
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Ánh Lan, năm 2013.
- Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Nam

hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học Ngô Tuấn Vinh, năm 2013.
- Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Kim Thái, năm 2013.
* Một số bài viết và bài tham luận của các tác giả
trong thời gian gần đây:
- Xã hội hóa cơng tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới,
của Hồ Viết Hiệp (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000).
- Công tác xây dựng và phổ biến hệ thống kiến thức pháp lý cơ bản về quản
lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển, hải đảo ở Việt Nam - thực trạng và giải
pháp, tham luận của Trần Thị Tơ - PGĐ trung tâm Đào tạo và truyền thông Biển
và Hải đảo, năm 2012.
- Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về biển, hải đảo phục vụ
phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước, tham luận của Tô Thị Thu Hà -


6
Bộ Tư pháp, năm 2012.
- Luật biển Việt Nam bước phát triển mới nhằm hồn thiện khn khổ
pháp lý về biển, tham luận của Vũ Ngọc Minh, Vụ trưởng Vụ Trung tâm thông tin
và tư liệu Ủy ban biên giới quốc gia, Bộ ngoại giao, năm 2012.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận GDPL cho ngư dân và đánh giá thực
trạng GDPL cho ngư dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, luận văn đề xuất
những giải pháp nhằm tăng cường GDPL cho ngư dân trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật cho
ngư dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

- Phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật cho ngư dân trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi, rút ra những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho ngư dân trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn này tập trung vào nghiên cứu trên cơ sở thực trạng hoạt
động giáo dục pháp luật cho ngư dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 2009 đến năm 2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đề cao nhân tố con người, đào tạo con người
phát triển tồn diện phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử cụ thể, phân tích, tổng hợp, kết hợp
với các phương pháp nghiên cứu khác: như phương pháp khảo sát thực tế,


7
phương pháp thống kê...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương đối
tồn diện về giáo dục pháp luật cho ngư dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Luận văn phân tích, đánh giá một cách khá toàn diện về thực trạng
hoạt động giáo dục pháp luật tại địa phương. Trên cơ sở đó phát hiện những
điểm chưa hợp lý, những tồn tại vướng mắc để đề xuất phương hướng và
những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục
pháp luật cho ngư dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

7.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn góp phần vào việc bổ sung những lý luận về giáo dục pháp
luật cho một đối tượng cụ thể trong khoa học pháp lý hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn làm rõ tính chất đặc thù của giáo dục pháp luật trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi, đồng thời đối chiếu với một số địa phương trong cả nước có
những điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa…qua
đó rút ra những kinh nghiệm để góp phần nâng cao cơng tác giáo dục pháp
luật cho ngư dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và
các cơ quan chức năng trong việc tham mưu, xây dựng, tổ chức thực hiện
công tác giáo dục pháp luật cho ngư dân nói chung, ngư dân trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi nói riêng.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho ngư dân và cho
những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO NGƯ DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, HÌNH THỨC, VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO NGƯ DÂN

1.1.1. Khái niệm, vai trị, mục đích giáo dục pháp luật cho ngư dân
1.1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho ngư dân
- Khái niệm ngư dân

Việt Nam là một quốc gia ven biển. Trong quá trình hình thành và phát
triển đất nước, con người Việt Nam từ xa xưa đã có sự gắn kết chặt chẽ với biển,
bởi địa lý Việt Nam có đường bờ biển chạy dài từ Bắc vào Nam. Với chiều dài
bờ biển 3260 km dọc biển Đông, trên 3000 hòn đảo lớn nhỏ, Việt Nam được xếp
là quốc gia có đường bờ biển dài thứ 27 trong 165 quốc gia trên thế giới. Nước
ta có 28 tỉnh thành phố với 91 huyện, thị xã nằm ven biển trong đó có nhiều
huyện đảo lớn. Bởi vậy, đời sống kinh tế - xã hội của cư dân ven biển, hải đảo
nói chung ngư dân nói riêng chịu sự tác động lớn bởi yếu tố biển.
Thực tế cho thấy, lịch sử của dân tộc Việt Nam cũng là lịch sử của mối
quan hệ tương tác giữa con người Việt Nam với núi rừng, đồng ruộng và biển
cả. Truyền thuyết về Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển nói lên
rằng: từ xa xưa tổ tiên ta khơng chỉ gắn bó với đất liền khơng chỉ trồng lúa,
dệt vải mà cịn gắn bó với biển khơi, đã biết khai thác các nguồn tài nguyên
biển phục vụ cho cuộc sống. Phát huy vai trị và sức mạnh của một quốc gia
có nguồn tài nguyên biển dồi dào, nhân dân ta không chỉ ngăn chặn được các
cuộc xâm lăng từ bên ngoài, giữ gìn độc lập dân tộc, bảo vệ tổ quốc mà cịn
xây dựng phát triển kinh tế đất nước, duy trì một cuộc sống xã hội ổn định.
Ngày nay, con người vùng biển và hải đảo Việt Nam nói chung, ngư dân nói
riêng đã góp phần vào việc phát triển kinh tế biển trong phát triển tổng thể
kinh tế đất nước, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo, quyền chủ quyền của
lãnh thổ Việt Nam.
Có nhiều khái niệm ngư dân được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học
công bố trong các cơng trình khoa học, trong các sách, báo, tạp chí, tuy nhiên
tác giả có quan điểm thống nhất với hai khái niệm về ngư dân sau:


9
Thứ nhất, theo Từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Từ điển Bách khoa,
năm 2012 thì: "Ngư dân là người dân sống về nghề đánh cá" [59,tr.639].
Thứ hai, theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Ngư dân hay dân

chài hay dân đánh cá là người dùng lưới, cần câu cá, bẫy hoặc các dụng cụ khác để
bắt và thu gom cá hoặc các loại sinh vật thuỷ sinh từ sông, hồ hoặc đại dương để
làm thức ăn cho con người hoặc cho những mục đích khác” [60].
Với khái niệm thứ nhất có thể hiểu một cách đơn giản nhất về ngư dân.
Với khái niệm thứ hai, ngư dân lại có thể hiểu một cách chi tiết, cụ thể và đầy
đủ, cả trên các vùng khai thác như sông, hồ, hay đại dương.
Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ nghiên
cứu đối tượng ngư dân là những người chuyên khai thác thủy hải sản từ biển.
Bởi vì, ngồi biển, Việt Nam cịn là đất nước có nhiều sơng ngịi và ao, hồ
mương, lạch và rất nhiều dân cư sinh sống bằng nghề khai thác, ni trồng
các lồi thủy sản ở vùng nước ngọt. Những người dân tham gia vào hoạt động
khai thác diễn ra trên bề mặt rộng ở nông thôn, tại các vùng đồng bằng thì họ
khai thác ở các vùng nước ngọt như sông, hồ, ao, mương, lạch, ở miền núi người
ta khai thác cá ở ruộng, ở suối, ở hồ. Các chủ thể này tham gia khai thác thủy
sản có thể thường xuyên nhưng cũng có bộ phận dân cư hoạt động khai thác,
nuôi trồng không thường xuyên, họ chủ yếu tham gia vào những thời điểm rãnh
rỗi của mùa vụ nông nghiệp và vào những lúc vào mùa của thủy sản. Bên cạnh
đó hiện nay ngồi khai thác trên biển cịn có một bộ phận người dân đã thực
hiện việc ni trồng các lồi thủy sản trên biển và nước lợ. Cho nên thật khó để
xác định được số lượng lao động tham gia trong lĩnh vực ngư nghiệp.
Từ đó, trong luận văn, tác giả chỉ đề cập đến cộng đồng ngư dân là
những người lấy hoạt động khai thác thủy hải sản từ biển, có tính chất chun
nghiệp, bằng các phương tiện, ngư cụ để làm nghề, làm nguồn sống cho bản
thân và gia đình.
- Khái niệm giáo dục pháp luật
Giáo dục pháp luật là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong khoa học giáo dục cũng như trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta.


10

Với tư cách là một dạng giáo dục thì giáo dục pháp luật ở nước ta hình thành
và thực hiện muộn hơn so với giáo dục chính trị và giáo dục đạo đức. Với tư
cách là một khái niệm pháp lý, giáo dục pháp luật được hình thành trong khoa
học pháp lý cũng như được tiến hành trong thực tế ở nước ta cũng muộn hơn
so với nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy, trong lĩnh vực khoa học quan
niệm về giáo dục pháp luật ở nước ta vẫn cịn có nhiều ý kiến khác nhau.
- Quan niệm thứ nhất: Xem hoạt động GDPL đồng nhất với việc tuyên
truyền, giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật như các đợt tuyên truyền,
cổ động khi có văn bản pháp luật quan trọng mới ban hành như: Hiến pháp,
Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự hoặc trước các kỳ bầu cử Quốc hội, bầu cử
HĐND các cấp. Quan niệm này coi việc GDPL chỉ cịn là một cơng việc của
cơ quan chuyên trách hay các phương tiện thông tin đại chúng, từ đó làm mất
tính tổ chức, tính hệ thống của hoạt động GDPL.
- Quan niệm thứ hai: Cho rằng khơng có khái niệm GDPL vì pháp luật
là các quy tắc có tính bắt buộc chung, mọi người phải có nghĩa vụ tuân thủ.
Theo quan niệm này, tự bản thân pháp luật đã có tính giáo dục bởi những quy
tắc của nó. Pháp luật khơng thể là cái thuộc tính tuyên truyền vận động,
ngược lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức năng của mình bằng các
quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua các chế tài đối với những người
tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh.
- Quan niệm thứ ba: Đồng nhất GDPL là một bộ phận của giáo dục
chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức. Chỉ cần thực hiện tốt q trình giáo dục
chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi người đã có ý thức pháp luật, có
sự tơn trọng và tn thủ pháp luật. Nếu hiểu theo quan niệm này thì đồng
nghĩa với việc trong xã hội khơng có GDPL và do vậy cũng khơng có cơ
quan, đơn vị, tổ chức hay cá nhân nào có chức năng GDPL.
Các quan niệm nói trên đều mang tính một chiều, phiến diện chưa thấy
hết đặc thù, sự tác động của GDPL. Bởi vì, bản thân pháp luật mới chỉ là văn
bản qui phạm pháp luật, chỉ là những câu chữ trên giấy. Pháp luật chỉ thực sự
đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: ban

hành, tuyên truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát. Trong cơ


11
chế đó yếu tố con người là cơ bản. Khi tham gia các quan hệ pháp luật, con
người phải suy nghĩ, lựa chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là một
quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan. Việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa
đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở
đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải được hình
thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách quan
và nhân tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân. Vấn đề đặt ra là
làm thế nào để hiểu rõ và có quan điểm đúng đắn về GDPL.
Từ thực tiễn nghiên cứu khoa học, để hiểu rõ về khái niệm GDPL,
nhiều nhà khoa học thường xuất phát từ khái niệm giáo dục trong khoa học sư
phạm. Khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm vừa được hiểu theo nghĩa
rộng, vừa được hiểu theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình ảnh hưởng của nhiều điều kiện
khách quan như: môi trường sống, chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, phong tục tập quán... và sự tác động của nhân tố chủ quan như: sự tác
động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hướng của con người lên việc
hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch, có định hướng của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục,
nhằm đạt được các mục tiêu nhất định như: truyền đạt những kinh nghiệm
trong sản xuất, trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy
để khách thể (hay đối tượng) có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội.
Như vậy theo nghĩa hẹp thì những ảnh hưởng hay tác động của các yếu tố
khách quan không nằm trong nội hàm của giáo dục.
Tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan là to lớn đối

với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà khoa học sư phạm vẫn
nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu, cực kỳ quan trọng, thậm chí mang
yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì thế, khái niệm
GDPL thường xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục.
Để có một khái niệm đúng đắn về giáo dục pháp luật cần tiếp cận khái


12
niệm theo hai nghĩa sau:
Nghĩa thứ nhất: giáo dục pháp luật là quá trình truyền đạt tinh thần, nội
dung pháp luật giúp cho đối tượng được tác động hiểu và hình thành ở họ tri
thức pháp luật, tình cảm, niềm tin, hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các
quy định pháp luật hiện hành.
Nghĩa thứ hai: giáo dục pháp luật là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao
gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực hiện phổ biến, giáo dục pháp
luật (xây dựng chương trình, kế hoạch giáo dục pháp luật; triển khai chương
trình, kế hoạch giáo dục pháp luật thông qua việc áp dụng các hình thức, biện
pháp giáo dục pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc
thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục pháp luật).
- Luận văn tiếp cận khái niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa thứ hai vì
những lý do sau:
Một là, sự hình thành và phát triển ý thức con người là sản phẩm của
một quá trình ảnh hưởng, tác động đồng thời của các điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan. Các điều kiện khách quan có ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý
thức của con người, đến việc hình thành nhân cách con người. Đó là những
hoạt động chủ động, có tính định hướng, có tổ chức, có mục đích do con
người thực hiện, khi con người được cung cấp những tri thức khoa học, tri
thức về cuộc sống thì trong họ sẽ dần hình thành lịng tin, tình cảm. Từ đó, họ
sẽ nhận thức đúng đắn và điều chỉnh hành vi của con người một cách phù hợp
với đòi hỏi của xã hội. Vì thế, quá trình giáo dục phải được tiến hành một

cách thường xuyên, liên tục, có định hướng, có tổ chức. Điều này càng thấy
rõ hơn trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế đã có những biến đổi to lớn và
thu được nhiều những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, văn hố... Tuy nhiên, bên cạnh các mặt tích cực nó cũng bộ lộ những mặt
trái của nền kinh tế thị trường như lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa cơ hội, tham ơ, tham nhũng, lãng phí...tất cả các yếu tố trên đã tác động
đến ý thức của con người theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực, góp
phần là những tác động khơng định hướng. Nếu như con người được giáo
dục, tức là được tác động có chủ định, có mục đích rõ ràng và có định hướng


13
cụ thể thì sẽ vượt qua những tác động của điều kiện khách quan, từ đó ở họ
hình thành niềm tin và hành vi đúng đắn, phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Hai là, khái niệm giáo dục pháp luật cịn có ý nghĩa trong việc phân
biệt phạm trù giáo dục với phạm trù ý thức pháp luật, hai phạm trù này có
quan hệ mật thiết với nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Hoạt động giáo
dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ quan, là hoạt động có tính định
hướng, có chủ định, có tính tổ chức, trong khi sự hình thành ý thức pháp luật
là hình ảnh sản phẩm của điều kiện khách quan.
Ba là, Xuất phát từ khái niệm giáo dục pháp luật theo khoa học sư
phạm cho ta thấy rõ hơn mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Giáo dục
pháp luật là cái riêng, còn giáo dục là cái chung, cái phổ biến. Từ đó cho thấy
mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng của giáo dục pháp luật.
Như vậy, giáo dục pháp luật vừa mang những đặc điểm chung, vừa thể hiện
nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên hệ với các loại hình giáo dục
khác như giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức.
- Tính đặc thù của giáo dục pháp luật thể hiện ở cả mục đích, nội dung,
hình thức và phương pháp, nó khác với các dạng giáo dục khác ở một số đặc
điểm sau:

+ Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình. Đó là hoạt động
nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định
của pháp luật.
+ Giáo dục pháp luật có nội dung riêng của mình. Đó là sự tác động có
định hướng với nội dung cơ bản là truyền tải tri thức của nhân loại nói chung
và của một Nhà nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật.
Trong đó, pháp luật thực định hiện hành của nhà nước là một bộ phận cực kỳ
quan trọng.
+ Xét về chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp giáo
dục, cũng có thể chỉ ra các nét đặc thù riêng có của giáo dục pháp luật. Nhân tố
con người với hành vi và hành động hợp pháp đóng vai trị chủ đạo trong q
trình tác động qua lại giữa người giáo dục và người được giáo dục. Người được


14
giáo dục tức là người chịu sự tác động có tổ chức định hướng các thơng tin pháp
luật. Vì thế, hiểu biết trình độ, đặc biệt là đặc điểm nhân thân của người được
giáo dục pháp luật là đòi hỏi hàng đầu đối với người giáo dục. Đồng thời, người
giáo dục không những cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải
mà hơn thế nữa phải là hành mẫu trong việc tuân theo pháp luật.
Từ các nhận thức trên có thể đưa ra khái niệm giáo dục pháp luật
như sau:
Giáo dục pháp luật là một dạng hoạt động có tổ chức, có mục đích, có
tính định hướng tác động lên các đối tượng giáo dục nhằm làm hình thành ở
họ những tri thức pháp luật, tình cảm đối với pháp luật và hành vi xử sự phù
hợp với pháp luật hiện hành.
- Khái niệm giáo dục pháp luật cho ngư dân
Từ sự phân tích trên có thể hiểu giáo dục pháp luật cho ngư dân là :
Giáo dục pháp luật cho ngư dân là một dạng hoạt động có tổ chức, có
mục đích, có tính định hướng tác động lên ngư dân nhằm làm hình thành ở

họ những tri thức pháp luật, tình cảm đối với pháp luật và có hành vi xử sự
phù hợp với pháp luật.
1.1.1.2. Mục đích giáo dục pháp luật cho ngư dân
Việc xác định đúng đắn giáo dục pháp luật cho ngư dân có ý nghĩa to
lớn về lý luận và thực tiễn. Về phương diện lý luận, việc xác định mục đích
của giáo dục pháp luật sẽ là cơ sở khách quan cho việc xác định hình thức,
phương tiện, nội dung, phương pháp giáo dục. Về thực tiễn, xác định đúng
mục đích của giáo dục sẽ phát huy được vai trị của nó trong tồn bộ hoạt
động giáo dục và đối với xã hội nói chung cộng đồng ngư dân nói riêng:
- Giáo dục pháp luật là nâng cao hiểu biết pháp luật nhằm cung cấp
những tri thức pháp luật cơ bản và từng bước nâng cao tri thức pháp luật cho
ngư dân. Tri thức pháp luật là tiền đề hình thành nhận thức đúng đắn và khả
năng lựa chọn hành vi hợp pháp, tích cực để hành động. Nhờ có tri thức pháp
luật ngư dân có thể điều khiển hành vi của mình cho phù hợp với các chuẩn
mực pháp lý. Đây là mục đích hàng đầu bởi vì pháp luật của Nhà nước không


15
phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình
ủng hộ và nghiêm chỉnh thực hiện. Chính vì vậy, cần phải giáo dục pháp luật
để giúp ngư dân hiểu biết, nắm bắt kịp thời những quy định của pháp luật.
- Mục đích của cảm xúc, nhằm hình thành lịng tin, thái độ, tình cảm
đúng đắn đối với pháp luật. Ngư dân có tri thức pháp luật nhưng nếu khơng
có lịng tin và tình cảm đúng đắn đối với pháp luật thì hành vi của ngư dân dễ
bị sai lệch khỏi các chuẩn mực của pháp luật. Như vậy, lòng tin của ngư dân
vào pháp luật là cơ sở vững chắc để hành vi càng hợp pháp và họ tự giác
tiếp thu những tri thức pháp luật, thực hiện pháp luật có hiệu quả. Khơng
những thế, lòng tin vào pháp luật còn tạo cho ngư dân quan tâm tới việc
thực hiện pháp luật của người khác và đấu tranh không khoan nhượng với
vi phạm pháp luật trong đời sống xã hội.

- Mục đích của động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật. Về
động cơ và hành vi hợp pháp, tích cực của ngư dân được hình thành bởi nhiều
yếu tố tác động trong đó giáo dục pháp luật là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Thơng qua giáo dục pháp luật ngư dân mới có tri thức pháp luật, có
lịng tin và tình cảm vào pháp luật tức là hình thành thói quen xử sự hợp pháp
một cách tích cực, bởi hành vi xử sự theo pháp luật của ngư dân là kết quả
của quá trình nhận thức pháp luật.
1.1.1.3. Vai trò giáo dục pháp luật cho ngư dân
Pháp luật là một trong những phương tiện hàng đầu để Nhà nước quản
lý xã hội, là công cụ để công dân thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp
cũng như nghĩa vụ của mình. Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong hoạt
động thực thi pháp luật, là cầu nối chuyển tải pháp luật vào cuộc sống để tất
cả các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội và cơng dân biết để sử dụng một
cách có hiệu quả cơng cụ, phương tiện đó. Đây là một q trình tác động
thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể lên đối tượng giáo dục.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, chú trọng
đến công tác giáo dục pháp luật, nhiều Nghị quyết quan trọng của Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đề cao vai trò giáo dục pháp luật


16
từ Nghị quyết đại hội V đến đại hội X của Đảng đều xác định vị trí, vai trị
của cơng tác giáo dục pháp luật và trách nhiệm của các cơ quan Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể, tổ chức xã hội trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003
của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân khẳng
định:
Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân, cơng tác giáo dục pháp luật cần được tăng
cường thường xuyên liên tục ở tầm cao hơn, nhằm làm cho cán bộ và
nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật...[1, tr.1].
Vai trò của giáo dục pháp luật bắt nguồn từ chính vai trị và giá trị xã
hội của pháp luật. Nếu như pháp luật là phương tiện hàng đầu để Nhà nước
quản lý xã hội và là phương tiện để công dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình thì giáo dục pháp luật giúp cho các cơ quan, nhân viên Nhà nước và
cơng dân biết sử dụng phương tiện đó vào cơng việc hàng ngày.
Với nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, giáo dục pháp luật cho
ngư dân có vai trị rất to lớn:
Một là, giáo dục pháp luật cho ngư dân góp phần hình thành và nâng
cao ý thức chấp hành đúng pháp luật.
Ý thức pháp luật của một cá nhân thể hiện trong mối quan hệ của con
người đối với pháp luật, thể hiện tính đánh giá về tính hợp pháp hay không
hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức và hoạt
động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội. Giáo dục pháp luật là một
trong những biện pháp có vai trò quan trọng tác động lên đối tượng giáo dục
pháp luật góp phần hình thành và nâng cao ý thức pháp luật của cá nhân nói
riêng và của xã hội nói chung.
Giáo dục pháp luật chỉ có thể trở thành công cụ tác động điều chỉnh
những hành vi đúng đắn khi sự cần thiết của nó đối với xã hội được ghi nhận,


17
chấp nhận, khi mà nghĩa vụ chấp hành các quy định của pháp luật thực sự trở
thành nhu cầu chấp hành một cách tự nguyện và có ý thức của mỗi bản thân
con người. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào việc chấp hành pháp luật
cũng trở thành ý thức tự nguyện, vì vậy trong điều kiện hiện nay vai trị của
giáo dục pháp luật là sự hình thành ý thức pháp luật, giúp ngư dân nhận ra
tính cơng bằng của pháp luật, chấp hành pháp luật trên cơ sở tự nguyện, xuất

phát từ nhu cầu của bản thân mà không phải do sự sợ hãi trước sự trừng phạt.
Hai là, giáo dục pháp luật tác động đến hình thành niềm tin cho ngư
dân đối với pháp luật.
Bằng việc ban hành pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện
trong thực tế, Nhà nước mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan
hệ xã hội phục vụ lợi ích của Nhà nước và lợi ích của xã hội. Sự khẳng định
vai trò pháp luật trong đời sống xã hội, gắn liền với q trình khơng ngừng
nâng cao ý thức và tích cực tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Trong thực tế, việc chấp hành pháp luật không phải lúc nào cũng trở
thành tự nguyện bởi lẽ bản thân mỗi con người luôn có xu hướng làm những
gì mà họ thích hơn là làm những gì mà họ phải làm bởi các quy định của pháp
luật. Vì vậy, giáo dục pháp luật là mang đến cho ngư dân biết được những
quy định của pháp luật, hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình về những việc
mà pháp luật quy định được phép làm và không được phép làm hoặc ngăn
cấm. Thông qua giáo dục pháp luật ngư dân nhận thức được về vai trò và sự
cần thiết của pháp luật đối với đời sống, từ đó hình thành niềm tin vào pháp
luật như là một lẽ phải, là sự công bằng trong cuộc sống, đó chính là lúc ngư
dân khơng chỉ quan tâm đến pháp luật, làm theo những quy định của pháp
luật mà cịn tin tưởng vào pháp luật. Đó là sự tin tưởng vào một phương tiện,
công cụ để bảo vệ lợi ích của mình cũng như lợi ích của cơng đồng, điều đó
giúp họ nhận thức đúng và có động cơ đúng, hành vi đúng trong việc thực
hiện pháp luật và tích cực đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật.
Ba là, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực
hiện pháp luật đối với ngư dân.


18
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế, hợp
pháp của chủ thể. Thực hiện pháp luật gồm nhiều cấp độ khác nhau, từ việc tuân

thủ pháp luật, chấp hành pháp luật đến thực hiện pháp luật, dù ở cấp độ nào
cũng đòi hỏi mỗi ngư dân phải thực hiện đúng theo những quy định của pháp
luật.
Đối với ngư dân việc giáo dục pháp luật càng có vai trị quan trọng. Vì
đây là một bộ phận nhân dân có trình độ dân trí thấp, sống thường xun ở trên
biển, đời sống kinh tế cịn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, đối tượng này là những
công dân chịu nhiều thiệt thịi, khó có điều kiện tiếp xúc, tìm hiểu pháp luật và
sử dụng phương tiện công cụ pháp luật để tự bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính
đáng của mình. Bởi vậy, việc giáo dục pháp luật chính là phương tiện để truyền
tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định của pháp luật đến
với ngư dân, giúp cho ngư dân hiểu biết, nắm bắt kịp thời mà không mất quá
nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Giáo dục pháp luật đó
chính là sự hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật cho ngư dân, giúp họ
nhận thức được những giá trị cao đẹp của pháp luật và biết sử dụng hữu hiệu
cơng cụ đó vào trong cuộc sống.
Bốn là, giáo dục pháp luật cho ngư dân giúp họ yên tâm bám biển duy
trì sinh kế và góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Giáo dục pháp luật cho ngư dân giúp cho ngư dân hiểu rõ về chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước trong phát triển kinh tế nói chung,
phát triển kinh tế biển nói riêng, qua đó ngư dân hiểu được những chính sách,
cơ chế khuyến khích, hỗ trợ ngư dân bám biển. Đồng thời, ngư dân cũng sẽ
nâng cao nhận thức và ý thức về bảo vệ môi trường sinh thái biển, không vi
phạm các quy định của pháp luật về khai thác, đánh bắt hải sản, tránh sử dụng
chất nổ, chất độc, xung điện và các loại ngư cụ, phương thức khai thác bị cấm
sử dụng, bảo vệ tốt nguồn tài nguyên quý báu của đất nước, đảm bảo những
lợi ích trước mắt và lâu dài.
Giáo dục pháp luật cịn giúp ngư dân hiểu rõ khơng chỉ các quy định pháp
luật biển của Việt Nam mà còn các quy định quốc tế, các quy định về hàng hải,



19
về cứu hộ, cứu nạn... giúp ngư dân khi khai thác, khơng chỉ có hiệu quả về
kinh tế mà cịn đảm bảo an tồn về tính mạng và tài sản, biết cách xử lý khi
xảy ra sự cố, tai nạn hoặc tình huống nguy hiểm cần sự cứu giúp, biết phát tín
hiệu cấp cứu và liên hệ kịp thời với nhà chức trách của quốc gia có biển gần
nhất, thơng báo cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt
Nam và các cơ quan chức năng để được giúp đỡ.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, các thế lực thù địch có nhiều âm
mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề biển đông nhằm xâm phạm chủ quyền biển
đảo, phá hoại các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, thì việc giáo
dục pháp luật về chủ quyền biển đảo, về lãnh thổ trên biển, về vùng được khai
thác, vùng không được khai thác, với nhiều nội dung và hình thức sâu rộng, có
hiệu quả sẽ giúp cho ngư dân hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ công dân, nắm vững
hệ thống pháp luật về biển đảo, xác định đúng tọa độ các vùng biển thuộc chủ
quyền của nước ta, thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định về khai thác hải
sản trên vùng biển Việt Nam cũng như các vùng biển quốc tế, vừa bảo vệ chủ
quyền của quốc gia đồng thời tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của quốc gia khác,
từ đó, có những cơ sở pháp lý vững chắc để đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển
đảo của đất nước, chống lại những âm mưu lấn chiếm biển đảo, các luận điệu
xuyên tạc về biển đảo, khơi dậy truyền thống yêu nước, góp phần bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ chủ quyền biển đảo, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã
hội.
Vì vậy, khi được giáo dục pháp luật, ngư dân sẽ có sự hiểu biết đầy đủ
và kịp thời các chủ trương, đường lối của đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước về biển đảo, giúp ngư dân yên tâm bám biển duy trì sinh kế và góp phần
bảo vệ chủ quyền biển đảo.
1.1.2. Chủ thể, nội dung, hình thức giáo dục pháp luật cho ngư dân
1.1.2.1. Chủ thể giáo dục pháp luật cho ngư dân
Chủ thể GDPL là những tổ chức hay cá nhân có chức năng hoặc trách
nhiệm truyền tải kiến thức pháp luật cho ngư dân. GDPL cho ngư dân được

coi là công việc không chỉ của nhà nước mà là của tồn xã hội, vì vậy có rất


20
nhiều chủ thể tham gia vào giáo dục pháp luật. Các chủ thể này tùy theo chức
năng, nhiệm vụ được pháp luật qui định mà thực hiện tác động tới ngư dân
nhằm GDPL cho ngư dân đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ
của các chủ thể GDPL cho ngư dân mà có thể chia ra làm hai loại, đó là: Chủ
thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp.
Chủ thể chuyên nghiệp là các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội,
các cá nhân có nhiệm vụ quản lý công tác GDPL hoặc trực tiếp thực hiện hoạt
động giáo dục pháp luật cho ngư dân. Các chủ thể này với chức năng chủ yếu
là GDPL tới ngư dân với các phương pháp, kỹ năng, trình độ cao. Đây là lực
lượng nịng cốt trong cơng tác GDPL, gồm: Các giáo viên giảng dạy trong các
trường của hệ thống giáo dục quốc dân, các báo cáo viên, tuyên truyền viên
pháp luật, các biên tập viên, phát thanh viên, ban biên tập các tạp chí, sách
báo có liên quan đến GDPL, các cá nhân, tổ chức quản lý về công tác GDPL,
các cá nhân, tổ chức thực hiện công tác bảo vệ pháp luật, tổ chức trợ giúp
pháp lý, cán bộ làm công tác nghiên cứu, chỉ đạo hoạt động GDPL…
Chủ thể không chuyên nghiệp là các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt
động GDPL cho ngư dân một cách tự nguyện, góp phần truyền tải tri thức
pháp luật tới ngư dân. Chủ thể này tuy không phải là cơ quan hay tổ chức, cá
nhân có chức năng GDPL, nhưng thông qua hoạt động chuyên môn của họ
cũng có tác động nhất định đến ngư dân, thực hiện được những mục đích nhất
định của GDPL. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay ở
nước ta, trình độ dân trí đã có điều kiện nâng lên và với quan điểm xã hội hóa
GDPL thì các chủ thể ở nhóm này cũng chiếm bộ phận khơng nhỏ, bất cứ tổ
chức hay cá nhân nào cũng đều có thể thực hiện tác động GDPL đến ngư dân
ở những mức độ khác nhau. Hệ thống các chủ thể GDPL hiện nay ở nước ta
bao gồm các tổ chức Đảng, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã

hội, các tổ chức tư vấn, hòa giải, các luật sư, luật gia, các cán bộ nhà nước
trong các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp…Chủ thể khơng chun
nghiệp tuy khơng giữ vị trí nịng cốt nhưng có vai trị rất quan trọng. Nhờ


21
những chủ thể không chuyên nghiệp mà công tác GDPL được triển khai rộng
rãi đến ngư dân, tạo nên một sức mạnh tổng hợp và đồng bộ.
1.1.2.2. Nội dung giáo dục pháp luật cho ngư dân
Một trong những yếu tố quan trọng của q trình giáo dục pháp luật
chính là nội dung giáo dục pháp luật. Nội dung giáo dục pháp luật rất đa
dạng, có thể có nội dung cơ bản, có thể có nội dung chuyên sâu, tuỳ thuộc
vào mục đích, tính chất và nhu cầu pháp luật. Xác định đúng nội dung giáo
dục pháp luật là đảm bảo cần thiết để giáo dục pháp luật có hiệu quả. Điều
quan trọng trong giáo dục pháp luật là phải đảm bảo phù hợp với từng đối
tượng cụ thể, đặc biệt là nội dung giáo dục phải xác định trên cơ sở mục đích
của giáo dục pháp luật hình thành ở đối tượng giáo dục hệ thống tri thức pháp
luật, tình cảm, lịng tin và thói quen hành động phù hợp với yêu cầu của pháp
luật. Từ đó nội dung giáo dục pháp luật phải tính đến 3 yếu tố sau:
Một là, những hiểu biết cơ bản về pháp luật nói chung, nói cách khác,
đó là những tri thức lý luận về pháp luật, như lý luận khoa học về pháp luật,
các ngành luật, các văn bản pháp luật thực định. Tuỳ thuộc vào đặc điểm của
đối tượng mà xác định khối lượng các tri thức này cho phù hợp.
Hai là, những nội dung cụ thể của pháp luật cần được giáo dục. Đây là nội
dung quan trọng nhất trong giáo dục pháp luật, phải tuỳ thuộc vào từng nhóm
đối tượng cụ thể, nhu cầu cụ thể của đối tượng để xác định nội dung giáo dục
pháp luật. Trong xã hội có nhiều đối tượng cụ thể khác nhau với đặc điểm riêng
như đồng bào thiểu số, phụ nữ, thanh niên, cán bộ công chức, ngư dân, nông
dân, người lao động, doanh nhân...cho nên xác định đúng về nội dung GDPL
cho từng nhóm đối tượng cụ thể thì mới có hiệu quả thiết thực trong việc GDPL.

Ba là, những kỹ năng cần thiết để giúp đối tượng thực hiện hành vi hợp
pháp, phù hợp với lĩnh vực pháp luật được giáo dục.
Trên phương diện lý luận nói chung, nội dung GDPL phát sinh từ nhu
cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, từ yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ,
mục tiêu chính trị, kinh tế - xã hội, chính sách của đảng và pháp luật của nhà
nước. Tuy nhiên, nội dung GDPL có phù hợp hay khơng cịn phải căn cứ vào


22
trạng thái ý thức pháp luật của công dân, vào điều kiện khả năng tiếp thu và
nhu cầu của họ. Cơ bản phải xác định được họ đang thiếu cái gì và cần cái gì.
Đối với ngư dân nếu so với một số đối tượng khác thì họ được ở vùng đồng
bằng có trình độ văn hóa cao hơn nhưng so với mặt bằng chung thì trình độ
học vấn vẫn cịn thấp, các điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội cịn nhiều khó
khăn, lạc hậu, phong tục tín ngưỡng còn ảnh hưởng nặng nề, bởi vậy nội dung
GDPL cho họ phải thiết thực, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ phù hợp với trình độ
nhận thức của họ. Cụ thể:
Thứ nhất : Nội dung cơ bản về nhà nước về quyền nghĩa vụ của công dân
Nội dung này gồm những kiến thức cơ bản về Nhà nước và pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của công dân, giúp ngư dân ý thức được vị trí của mình
trong quan hệ với Nhà nước trong quan hệ với công dân và tổ chức khác để
ngư dân biết được quyền và nghĩa vụ của mình để thực hiện và bảo vệ những
lợi ích hợp pháp cho mình cho nhà nước và cho xã hội. Cụ thể :
- Một số kiến thức cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước.
- Các quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và một số đạo luật
khác quy định.
- Một số thủ tục trình tự pháp lý để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
và thực hiện nghĩa vụ công dân.
- Luật khiếu nại, luật tố cáo.
Thứ hai: Hệ thống kiến thức pháp lý cơ bản chung

Nội dung này gồm những quy định cụ thể của pháp luật thiết thực liên
quan đến cuộc sống hàng ngày của ngư dân và gia đình họ, giúp cho ngư
dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình góp phần xây dựng phát
triển gia đình xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ gìn an ninh trật tự an tồn xã
hội. Cụ thể :
- Luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009: một số quy định ở
các chế định cụ thể như tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, tính mạng, danh
dự nhân phẩm, xâm phạm chế độ hơn nhân và gia đình, tội phạm về môi
trường, tội phạm về ma túy, xâm phạm an tồn cơng cộng và trật tự cơng


23
cộng, xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
- Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000.
- Luật Bình đẳng giới năm 2006.
- Luật Phịng chống bạo lực gia đình năm 2007.
- Luật Giao thông đường bộ.
- Pháp lệnh Dân số
- Luật Giáo dục
Thứ ba: Hệ thống kiến thức pháp lý cơ bản liên quan trực tiếp đến nghề
nghiệp của ngư dân.
Ngư dân là đối tượng lao động trực tiếp trên biển là người gắn bó với
biển đảo, vừa là người khai thác đánh bắt nguồn lợi thủy sản phát triển kinh tế
vừa là những cơng dân góp phần bảo vệ tổ quốc, khẳng định chủ quyền biển,
đảo của đất nước, vì vậy một số những văn bản pháp luật trực tiếp liên quan
đến biển đảo và thủy sản cần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho
ngư dân để ngư dân chủ động thực hiện, cụ thể :
- Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
- Các công ước của Tổ chức hàng hải thế giới.
- Luật Biển năm 2012.

- Luật Hàng hải năm 2005.
- Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.
- Luật Thủy sản năm 2003.
- Luật Biên giới quốc gia năm 2003.
1.1.2.3. Hình thức giáo dục pháp luật cho ngư dân
Hình thức giáo dục pháp luật là cách thức tổ chức thực hiện hoạt động
giáo dục pháp luật .
Hiệu qủa của công tác GDPL khơng chỉ phụ thuộc vào nội dung mà
cịn phụ thuộc vào hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật. Bởi vì để
chuyển tải được nội dung GDPL đến với ngư dân địi hỏi phải có cách thức
biện pháp tác động phù hợp. Trên thực tế các chủ thể giáo dục pháp luật sử
dụng nhiều hình thức khác nhau để thực hiện việc GDPL nhưng cơ bản hình


24
thức GDPL có thể chia làm hai loại :
Thứ nhất: hình thức giáo dục pháp luật đặc thù
Thứ hai : hình thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến truyền thống
- Hình thức giáo dục pháp luật đặc thù là việc định hướng mục đích
giáo dục pháp luật thơng qua các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp của
các cơ quan Nhà nước hoặc qua thực thi công vụ của công chức và qua các hoạt
động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ hoà giải, qua các dịch vụ pháp lý.
- Hình thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến, truyền thống được
thể hiện trong nhiều loại hình như: giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo
dục của hệ thống giáo dục quốc dân được lồng ghép trong chương trình giáo
dục của các cấp học và trình độ đào tạo, tuyên truyền miệng, qua phương tiện
thông tin đại chúng, qua các tủ sách pháp luật, câu lạc bộ pháp luật, nói
chuyện pháp luật, qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, thơng qua hoạt động
trợ giúp pháp lý và qua các hình thức văn hóa, văn nghệ, đặc biệt là các loại
hình sinh hoạt văn hóa truyền thống.

Sự hiểu biết và nhận thức của các tầng lớp nhân dân về văn hóa và
pháp luật trong xã hội là hết sức đa dạng và khác nhau. Cho nên phải căn cứ
vào đối tượng giáo dục pháp luật, họ là ai, trình độ nhận thức đến đâu, điều
kiện, hoàn cảnh sống của họ như thế nào, mức độ quan tâm đến pháp luật, các
vấn đề quan tâm và ưu tiên quan tâm của họ như thế nào để việc lựa chọn nội
dung và hình thức phổ biến giáo dục pháp luật phù hợp. Phải xuất phát từ
điều kiện kinh tế, địa lý và hoàn cảnh để quyết định một hình thức giáo dục
cụ thể hay kết hợp các hình thức với nhau. Điều đó, một mặt phát huy tác
dụng của giáo dục pháp luật, mặt khác cũng làm tăng hiệu quả của công tác
giáo dục pháp luật.
Hiện nay có nhiều hình thức giáo dục pháp luật cụ thể cho ngư dân
như: tuyên truyền miệng, giáo dục pháp luật qua báo chí, mạng lưới truyền
thanh cơ sở và mạng internet, tổ chức thi tìm hiểu pháp luật, xây dựng tài liệu
tuyên truyền giáo dục pháp luật, giáo dục pháp luật thông qua sinh hoạt câu lạc
bộ pháp luật, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, giáo dục


25
pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, giáo dục pháp luật thơng qua
hoạt động hịa giải ở cơ sở, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, giáo
dục pháp luật thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo.
Mỗi hình thức có những ưu nhược điểm nhất định và phù hợp với
những điều kiện, hoàn cảnh, thời điểm nhất định, cho nên việc vận dụng các
hình thức GDPL cho ngư dân cần được thực hiện một cách linh hoạt và phù
hợp để đem lại kết quả cao nhất.
1.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO ĐỐI VỚI
VIỆC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO NGƯ DÂN

1.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đối với việc giáo dục pháp luật cho
ngư dân

Trong quá trình thực hiện giáo dục pháp luật cho ngư dân sẽ có những
tác động của nhiều yếu tố khác nhau làm cho việc giáo dục pháp luật có thể đạt
hiệu quả cao nhưng cũng có những yếu tố làm cho giáo dục pháp luật có thể bị
hạn chế, phát hiện ra các yếu tố tích cực và có biện pháp duy trì để phát huy hiệu
quả đồng thời ngăn chặn, làm hạn chế các yếu tố tiêu cực trở thành phương thức
quan trọng đảm bảo công tác giáo dục pháp luật cho ngư dân hiện nay.
Có nhiều yếu tố tác động đến q trình giáo dục pháp luật nhưng có thể
chia ra làm hai loại yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực.
1.2.1.1. Các yếu tố tích cực tác động đối với việc giáo dục pháp luật
cho ngư dân
Công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước và q trình thực hiện
cơng nghiệp hố, hiện đại hố trong giai đoạn vừa qua do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, Nhà nước ta thực hiện đã thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát
triển. Nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế trong khu vực
và quốc tế. Chính từ điều đó là cho xã hội phát sinh nhiều quan hệ xã hội mới và
các quan hệ này ngày càng phát triển với chiều hướng phức tạp đòi hỏi nhà nước
phải xây dựng và ban hành nhiều quy định pháp luật để đảm bảo an ninh trật tự
an tồn xã hội, bên cạnh đó để đảm bảo thuận lợi cho cuộc sống của mình địi
hỏi cơng dân nói chung ngư dân nói riêng cũng có nhu cầu hiểu biết phát luật


×