Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học ở tỉnh phú thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.01 KB, 110 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc “đổi mới” do Đảng ta đề xướng và
lãnh đạo, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, đưa đất nước
vượt qua được thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cấp bách về kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường mở cửa hội nhập kinh tế
quốc tế, tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm có những diễn biễn hết sức
phức tạp. Trong đó, một số lượng không nhỏ các vụ vi phạm pháp luật do học
sinh, sinh viên gây ra. Hiện nay, số lượng người chưa thành niên nói chung và
học sinh, sinh viên nói riêng phạm pháp đang tăng theo xu hướng trẻ hóa và
mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng. Toàn quốc hiện có trên 20.000
người chưa thành niên vi phạm pháp luật, trên 21.000 người chưa thành niên có
nguy cơ thực hiện hành vi trái pháp luật. Hiện tượng thanh thiếu niên tụ tập, tổ
chức sử dụng ma túy tổng hợp trong các nhà hàng, vũ trường, quán bar,
karaoke tiếp tục diễn ra ở nhiều địa phương, trong đó đối tượng sinh viên tham
gia khá nhiều. Đối tượng phạm tội ngày càng trẻ hóa và hành vi phạm tội cũng
như tính chất mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng hơn.
Theo thống kê của Cục Thống kê tội phạm - Viện kiểm sát nhân dân
Tối cao, người chưa thành niên dễ mắc phải những tội như: Cướp tài sản, giết
người, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy... Tình trạng đạo
đức, lối sống của một bộ phận giới trẻ hiện nay có nhiều biểu hiện suy thối
biểu hiện từ thái độ học tập, ý thức chấp hành nội quy, kỷ luật của nhà trường,
chấp hành pháp luật đến những hành vi tiêu cực trong học tập, thi cử của học
sinh, sinh viên và sự “xâm nhập” của các tệ nạn xã hội vào học đường. Một số
hành vi lệch chuẩn khác về đạo đức như bất kính với thầy cơ, cha mẹ và người
thân, đua địi, vị kỷ... ngày càng đáng báo động.
Thực tế trên đã đặt ra câu hỏi: Phải chăng, đang xuất hiện tỷ lệ nghịch
giữa kiến thức cơ bản của pháp luật với ý thức pháp luật trong một bộ phận
học sinh, sinh viên?




2
Thực trạng trên đây dù được lý giải như thế nào đi nữa, chúng ta cũng
cần phải nhấn mạnh rằng, đã có một thời gian dài, cơng tác tun truyền, giáo
dục pháp luật chưa được chú trọng đúng mức, thậm chí nhiều nơi, nhiều lúc
cịn bng lỏng. Sự coi nhẹ và thiếu năng động trong công tác tuyên truyền
giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng số lượng học sinh, sinh viên vi phạm pháp luật ngày
càng gia tăng cả về số lượng, quy mơ và tính chất. Điều đó đặt ra cho thấy sự
cần thiết phải nhận thức được ý nghĩa quan trọng mang tầm chiến lược là phải
nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên.
Vì vậy, trong tình hình hiện nay, việc nâng cao ý thức pháp luật cho
mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt là đối với học sinh, sinh viên các trường
cao đẳng,đại học được đặt ra như là một tất yếu khách quan. Thực tế công tác
giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng, đại học không chuyên về luật
trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, nội dung, chương trình,
hình thức giáo dục pháp luật đã được các nhà trường quan tâm và cũng đã đạt
được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, những kết quả đã đạt được vẫn
còn hạn chế, chưa thực sự ngang tầm với nhiệm vụ đào tạo, chưa đáp ứng
được mục tiêu đào tạo của giáo dục đại học trong thời kỳ mới.
Là một tỉnh trung du miền núi, cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đơ Hà
Nội, cách thủ đơ Hà Nội 80 km về Phía Bắc, Phú Thọ hiện nay với hơn
30.000 sinh viên của các trường đại học, cao đẳng đóng trên địa bàn như Đại
học Hùng Vương, Đại học Cơng nghiệp Việt Trì, Cao đẳng Dược Phú Thọ,
Cao đẳng Y Phú Thọ, Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm, Cao đẳng nghề Phú
Thọ, Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Phú Thọ, … nhưng chủ yếu lượng sinh viên
và các trường này đều tập trung trên địa bàn Thành phố Việt Trì của Tỉnh. Do
vậy, việc quản lý cũng như các vấn đề xã hội liên quan là tương đối phức tạp,
gây khó khăn cho cơ quan quản lý của Tỉnh.

Hơn nữa, sự hiểu biết về pháp luật của học sinh, sinh viên trong mỗi
một trường và ở các trường khác nhau còn hạn chế và khơng đồng đều, vì lý


3
do sinh viên của các trường thuộc nhiều địa phương khác nhau, nhiều dân tộc
khác nhau trong tỉnh Phú Thọ và các tỉnh lân cận như Tuyên Quang, Yên Bái,
Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Sơn La… Khi về học tập tại các trường sinh viên lại
sống chủ yếu rải rác trong các khu dân cư nên gây khó khăn cho cơng tác
quản lý và nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên mỗi trường.
Do vậy, học viên lựa chọn vấn đề: “Nâng cao ý thức pháp luật cho
sinh viên các trường cao đẳng, đại học ở tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm luận
văn thạc sĩ Luật học. Trên cơ sở phân tích khái quát thực trạng về ý thức pháp
luật của sinh viên trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên để đáp ứng yêu cầu đào tạo người học
có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ Nhân dân, có kiến thức và
năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề về phổ biến, giáo dục pháp luật đã được đề cập và nghiên cứu
trong khá nhiều các cơng trình nghiên cứu khoa học, một số bài viết của tập
thể, cá nhân đã được công bố như:
- Đề án "Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong
nhà trường"; Đề án “tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm
nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên” năm 2011, Bộ Tư pháp.
- Lê Ngọc Lan, Vấn đề giáo dục pháp luật trong các trường trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề, Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp và
dạy nghề số 6/1994;
- Nguyễn Đình Lộc, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (1994) của Bộ tư pháp,
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới;

- Viện Nhà nước và Pháp luật, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân
văn, 2007, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX.07-17, Cơ sở của việc
xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật;
Các đề tài, cơng trình khoa học trên đã đề cập và giải quyết nội dung lý
luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật, ý thức pháp luật. Tuy nhiên ở phạm vi


4
nghiên cứu khoa học hiện nay chưa có cơng trình nào đề cập, luận giải một
cách có hệ thống, tồn diện về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng
cao ý thức pháp luật cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao ý thức
pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Phú Thọ. Từ đó đề
xuất các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học,
cao đẳng ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích một số vấn đề lý luận về nâng cao ý thức pháp luật: Khái
niệm, đặc điểm, vai trị, các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến ý
thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở nước ta.
- Phân tích và đánh giá thực trạng ý thức pháp luật của sinh viên các
trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Phú Thọ qua các tiêu chí: Mức độ nhận thức
pháp luật, trạng thái tâm lý pháp luật, mức độ tôn trọng và thực hiện pháp luật
và mức độ tham gia vào các hoạt động pháp luật của sinh viên. Qua đó chỉ rõ
những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong ý thức pháp luật của
sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các
trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu ý thức pháp luật và việc nâng cao ý thức pháp
luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Phú Thọ, từ đó đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trên địa bàn của Tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Học viên nghiên cứu ý thức pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật của sinh
viên các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Phú Thọ từ năm 2009 đến năm 2013.


5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; Chính sách của Nhà
nước Việt Nam về công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật nhằm
nâng cao ý thức pháp luật của cơng dân nói chung, cơng dân học sinh - sinh
viên nói riêng. Trong đó đề cao vai trị của pháp luật trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền; đề cao nhân tố con người, đào tạo con người phát triển toàn
diện phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp có tính kế thừa chn
lc, với phơng pháp điều tra xà hội học pháp luËt, phương pháp
phản ánh thực chứng đồng thời so sánh, đối chiếu các qui định thực định về
nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề về ý thức pháp luật của sinh
viên các trường đại học, cao đẳng; đặc biệt là các tiêu chí đánh giá ý thức pháp
luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng.
- Luận văn đã làm rõ thực trạng ý thức pháp luật của sinh viên các

trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Phú Thọ qua kết quả điều tra, đánh giá ý thức
pháp luật bằng những câu hỏi về bốn tiêu chí đánh giá ý thức pháp luật. Từ đó
đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên các
trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về ý thức pháp luật, làm sáng tỏ
các đặc điểm ý thức pháp luật của sinh viên hiện nay.


6
7.2. Về mặt thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ bổ sung, gợi mở và góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục pháp luật của các trường trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
- Luận văn bước đầu hệ thống hóa thực trạng ý thức pháp luật của sinh
viên trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ, từ đó đề xuất kiến nghị và các giải pháp nhằm
nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Làm tài liệu tham khảo cho công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật và hoạt động nghiên cứu, giảng dạy của các trường trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài chia làm 3 chương, 7 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT
CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA VIỆC NÂNG CAO Ý THỨC

PHÁP LUẬT CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG

1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học,
cao đẳng
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin ý thức xã hội là mặt tinh
thần của đời sống xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn phát triển nhất định. Ý thức xã hội tồn tại trong những
hình thái khác nhau như ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức tơn giáo, ý
thức pháp luật… Các hình thái ý thức xã hội này có tính độc lập tương đối và
có tác động qua lại lẫn nhau. Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội
cụ thể tồn tại trong xã hội có giai cấp và phản ánh đời sống pháp luật xã hội.
Tuy cùng tồn tại trong xã hội có giai cấp, song do điều kiện sinh hoạt
về vật chất và đời sống tinh thần của mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp xã hội có
những điểm khác nhau nên nhận thức về pháp luật và thái độ đối với pháp luật
của các giai cấp trong xã hội cũng có sự khác biệt. Trong Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động chi phối
và thể hiện rõ nét nhất trong hệ thống pháp luật cũng như trong việc thực hiện
pháp luật.
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm tổng hợp
tất cả những học thuyết, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con
người, thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính cơng bằng hay không
công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện hành,
pháp luật trong quá khứ, pháp luật cần có, về tính hợp pháp hay
khơng hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, trong hoạt
động của các cơ quan Nhà nước hay tổ chức xã hội và của các chủ
thể khác [29, tr.259-260].


8
Sinh viên học tập trong các trường cao đẳng, đại học không chuyên luật

sau khi tốt nghiệp ra trường là những Kỹ sư, Cử nhân. Trong vốn học vấn chung,
đặc biệt trong vốn học vấn nghề nghiệp của họ không thể thiếu được một bộ
phận quan trọng là hiểu biết về pháp luật. Ý thức pháp luật của học sinh viên
hôm nay sẽ là một bộ phận quan trọng của nhân cách người cán bộ khoa học,
cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý mai sau. Từ đó, họ khơng những biết sống và
làm việc theo pháp luật với tư cách là người cơng dân mà cịn biết sống và làm
việc theo pháp luật với tư cách là những người đã có những cương vị xã hội
quan trọng, những vị trí chủ chốt ở các tầng bậc trong hệ thống nghề nghiệp ở
mỗi người. Như vậy, có thể nói rằng việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh
viên trong các trường đại học, cao đẳng là một yêu cầu khách quan nhằm chuẩn
bị có hệ thống cho thế hệ trẻ vào đời biết sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật, góp phần xây dựng dần dần một xã hội có kỷ cương, một Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một nền dân chủ thực sự.
Ý thức pháp luật của sinh viên chưa đầy đủ toàn diện, sâu sắc như một
nhóm xã hội khác, bởi đa số sinh viên là tầng lớp xã hội trẻ tuổi đang trong
quá trình học tập và rèn luyện, họ chưa có điều kiện và khả năng để có những
tư tưởng, quan niệm, quan điểm về các hiện tượng pháp luật trong đời sống xã
hội một cách đầy đủ, hệ thống, sâu sắc như là đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức trong bộ máy nhà nước, đội ngũ nghiên cứu khoa học pháp lý. Sự hiểu
biết pháp luật của sinh viên mới đang từng bước được hình thành, bồi đắp và
làm sâu sắc thêm qua quá trình học tập và sinh hoạt dưới tác động ảnh hưởng
của gia đình, nhà trường và xã hội. Hiện nay, trong các trường cao đẳng, đại
học, sinh viên chưa được giáo dục đào tạo về pháp luật một cách chuyên sâu,
ngoài xã hội họ chưa được tham gia vào nhiều hoạt động pháp luật thực tiễn,
chưa có kinh nghiệm thực tiễn…. Vì thế, những hiểu biết, những quan niệm
về giá trị pháp luật ở học sinh, sinh viên còn nhiều hạn chế.
Ý thức của học sinh, sinh viên dễ biến động, dễ chịu tác động ảnh
hưởng trực tiếp của môi trường và ý thức của những người xung quanh. Vì



9
thế, việc phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật cho học
sinh, sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học không chuyên luật không
chỉ quan tâm tập trung cho mỗi đối tượng này mà phải đồng thời tác động đến
những người thường xuyên giao tiếp với học sinh, sinh viên bằng các chương
trình với nhiều nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện thích hợp và
đồng bộ.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu khái niệm ý thức pháp luật của sinh
viên các trường đại học, cao đẳng như sau:
Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đaị học, cao đẳng là một
hình thái của ý thức xã hội phản ánh trực tiếp đời sống pháp luật thông qua
những quan điểm, tư tưởng, tình cảm của sinh viên đối với pháp luật, thể hiện
sự hiểu biết, thái độ và sự đánh giá về pháp luật, về quyền lợi và nghĩa vụ của
con người trong xã hội, về hành vi hợp pháp hay không hợp pháp của cá
nhân, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức trong xã hội.
1.1.2. Đặc điểm ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học,
cao đẳng
Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng cũng mang
những đặc điểm chung của ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật nói chung là một trong những hiện tượng pháp lý
phức tạp và đa dạng trong cuộc sống. Có nhiều cách tiếp cận về đặc điểm của
ý thức pháp luật xét từ góc độ của các mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và
các hiện tượng xã hội khác như kinh tế, văn hóa – xã hội, chính trị … Tuy
nhiên, xét dưới góc độ là một hình thái của ý thức xã hội, ý thức pháp luật có
những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh
tồn tại xã hội, chịu sự quy định của tồn tại xã hội, nhưng vẫn có tính độc lập
tương đối, biểu hiện như sau:
- Ý thức pháp luật thường lạc hậu so với tồn tại xã hội. Ý thức pháp luật
phản ánh tồn tại xã hội nên nó ln là cái có sau tồn tại xã hội. Thực tế cho



10
thấy tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức nói chung trong đó có ý thức pháp
luật cũ vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một thời gian khá dài. Nhiều quan điểm,
quan niệm, tư tưởng và những thói quen pháp luật của quá khứ vẫn tồn tại
trong suy nghĩ và hành động của nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội.
- Mặc dù ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
nhưng trong những điều kiện nhất định những tư tưởng pháp luật tiến bộ,
mang tính khoa học có thể vượt trội so với tồn tại xã hội, có tính chất định
hướng cho sự phát triển của xã hội. Đây là những tư tưởng, quan điểm pháp
luật có tính tiên phong, chúng là mầm mống, định hướng cho sự hình thành ý
thức pháp luật mới trong tương lai.
- Ý thức pháp luật luôn phản ánh tồn tại xã hội của thời đại sinh ra nó,
nên có kế thừa một số yếu tố nhất định của ý thức pháp luật của các thời đại
trước nó. Do vậy, trong ý thức pháp luật ln giữ lại những tư tưởng, quan
điểm pháp luật của các thế hệ trước, các thời đại trước của nhân loại.
- Ý thức pháp luật một mặt chịu sự quy định của tồn tại xã hội nhưng
mặt khác nó lại tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, chính trị, đạo đức và các
yếu tố khác của thượng tầng kiến trúc như Nhà nước và pháp luật. Tuỳ thuộc
vào ý thức pháp luật tiến bộ hay lạc hậu, đúng đắn hay sai lầm mà sự tác động
của nó có thể là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Thứ hai: Ý thức pháp luật ln mang tính giai cấp.
Trong xã hội có các giai cấp khác nhau thì ý thức pháp luật của các giai
cấp cũng khác nhau, thậm chí ý thức pháp luật của một giai cấp cũng khơng
hồn tồn thuần nhất. Trong một quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật
nhưng có thể tồn tại một số hệ thống ý thức pháp luật: ý thức pháp luật của
giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị trị, ý thức pháp luật của các
tầng lớp khác trong xã hội…Tuy nhiên, chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp
thống trị là tiền đề tư tưởng để xây dựng các giá trị, chuẩn mực pháp luật của

quốc gia, và chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới có điều kiện
được thể hiện đầy đủ trong pháp luật.


11
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, ý thức pháp luật thống trị là ý thức pháp
luật của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động. Ý thức pháp luật của giai
cấp công nhân với tư cách là giai cấp tiến bộ nhất ngày càng có ảnh hưởng
sâu rộng đến ý thức pháp luật của các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội.
Trong ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa ngoài tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng
pháp luật của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, cịn bao gồm cả tâm lý,
tình cảm, thói quen, tập quán, ước muốn… của dân tộc, phản ánh những điều
kiện sinh hoạt chung thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần của dân
tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Bên cạnh tính giai cấp thì ý thức pháp luật cịn mang tính xã hội, trong
ý thức pháp luật cịn có cả những tư tưởng, quan điểm liên quan đến sự tồn
tại, phát triển, sự thịnh vượng của đất nước và của nhân loại nói chung. Trong
những thời điểm lịch sử - xã hội nhất định, ý thức pháp luật ở khía cạnh nào
đó cịn bao hàm cả tính chất, đặc điểm chung của trí tuệ quốc gia mà trong đó
có nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau chung sống vì những lợi ích chính đáng,
cơ bản và lâu dài của toàn xã hội.
Bên cạnh những đặc điểm của ý thức pháp luật nói chung, ý thức pháp
luật của sinh viên cịn có những đặc điểm riêng thể hiện đúng với đặc điểm tâm
sinh lý lứa tuổi, bắt nguồn từ vị trí, vai trị của họ với xã hội, trong việc học tập,
lao động và cuộc sống hàng ngày. Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại
học, cao đẳng có những đặc điểm riêng cơ bản sau:
Thứ nhất: Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng
là một bộ phận quan trọng trong ý thức chung của xã hội. Ý thức pháp luật
của sinh viên là sự hoà quyện, đan xen gắn bó khăng khít giữa ý thức pháp
luật cá nhân và ý thức pháp luật của nhóm xã hội trong nhà trường.

Thứ hai: Sinh viên là một trong những bộ phận có ý thức pháp luật khá
năng động, sáng tạo. Họ là tầng lớp trí thức tiến bộ, được tiếp thu có hệ thống
những tri thức tinh tuý của nhân loại nói chung và của dân tộc, đất nước nói
riêng. Họ là những người có khả năng sáng tạo, tích cực, nhạy bén, ham hiểu


12
biết, chịu khó học hỏi cái mới, năng động trong học tập nghiên cứu, ứng dụng
những tri thức đã học vào cuộc sống phục vụ bản thân, gia đình và xã hội, góp
phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Với đặc điểm tâm sinh lý này của sinh
viên ta thấy, so với nhiều nhóm đối tượng khác, sinh viên là nhóm đối tượng
có khả năng tiếp thu nhanh kiến thức pháp luật và vận dụng khá linh hoạt vào
thực tiễn cuộc sống.
Thứ ba: Về sự hiểu biết pháp luật của sinh viên. Ở đa số sinh viên có
tình trạng thiếu hiểu biết pháp luật hoặc có hiểu biết nhưng chưa đầy đủ, chưa
toàn diện, sâu sắc. Sinh viên thường ở độ tuổi từ 17 đến 22 – đây là độ tuổi
đầu tiên của thanh niên. Ở độ tuổi này, nhân cách con người phát triển chưa thật
sự hoàn chỉnh. Nhiều người ở tuổi “mười tám, đơi mươi” này cịn nơng nổi,
bồng bột, dễ bị kích động, khó kiềm chế, đơi khi tự cao tự đại, thích tự do phóng
khống, thể hiện trước đám đơng, hay đua địi… Sinh viên là tầng lớp thanh niên
trẻ đang trong quá trình học tập và rèn luyện, họ chưa có điều kiện và khả năng
để có những tư tưởng, quan điểm, quan niệm về các hiện tượng pháp luật trong
đời sống xã hội một cách hệ thống và chính xác như đội ngũ cán bộ, công chức
trong bộ máy nhà nước hay đội ngũ nghiên cứu khoa học pháp lý.
Thứ tư: Sự hiểu biết pháp luật của sinh viên đang trong giai đoạn từng
bước được hình thành, bồi đắp và ngày càng sâu sắc thêm qua quá trình học
tập, sinh hoạt, lao động dưới sự tác động của các yếu tố gia đình, nhà trường
và xã hội.
1.1.3. Vai trò của việc nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên các
trường đại học, cao đẳng

Ý thức pháp luật được xem là điều kiện quan trọng, là tiền đề tư
tưởng trực tiếp cho việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp
luật; là cơ sở hình thành văn hố pháp lý của các chủ thể pháp luật, tạo cho
chủ thể có khả năng và kỹ năng sử dụng có hiệu quả cơ chế điều chỉnh
pháp luật để bảo vệ lợi ích cho bản thân mình, cho nhà nước và cho xã hội,
xử sự đúng đắn, phù hợp trong các mối quan hệ xã hội.


13
Hiện nay, sinh viên chiếm một số lượng đông đảo trong xã hội (cả nước
với khoảng 419 trường đại học, cao đẳng với tổng số 2 208 000 sinh viên). Số
lượng sinh viên đông sẽ kéo theo nhiều hiện tượng xã hội phức tạp. Chúng ta
có thể thấy được tình trạng đạo đức, lối sống của một bộ phận sinh viên đang
có nhiều bất ổn, hành vi lệch chuẩn về đạo đức ngày càng gia tăng như: thái
độ học tập, ý thức chấp hành nội quy, kỷ luật của nhà trường, đến những hành
vi tiêu cực trong học tập, thi cử, bạo lực học đường, tụ tập băng nhóm, cờ bạc,
ma túy, mại dâm, vi phạm giao thông, đua xe trái phép, tội phạm công nghệ
cao… Một số hành vi lệch chuẩn khác về đạo đức như: bất kính với thầy cơ,
cha mẹ và người thân, đua địi, vị kỷ… Đó là hậu quả của sự giáo dục khơng
đồng bộ giữa gia đình, nhà trường, xã hội và sự thiếu nỗ lực tự vươn lên của
mỗi sinh viên.
Nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên hiện nay giúp cho các em có
những tư tưởng, quan điểm đúng đắn đi đúng với những chuẩn mực, những
đòi hỏi của xã hội, từ đó có tri thức, tình cảm, thói quen xử sự theo pháp luật,
để tự các em đánh giá được tính đúng đắn hay khơng đúng đắn trong hành vi
xử sự của bản thân và của những người khác.
Việc nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao
đẳng có vai trị trị quan trọng trong đời sống xã hội, thể hiện như sau:
Một là: Nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao
đẳng góp phần vào việc tơn trọng và tuân thủ pháp luật. Ý thức pháp luật của

sinh viên thể hiện kiến thức và thái độ của họ đối với các quy định của pháp
luật, từ đó xác định mục đích, động cơ, lựa chọn phương án xử sự phù hợp,
thực hiện hành vi pháp luật. Do vậy, thông thường ý thức pháp luật càng cao
thì thái độ tơn trọng pháp luật càng cao, từ đó thực hiện pháp luật càng được
bảo đảm và chính xác. Cần phải nhìn nhận một thực tế rằng, không phải tất cả
sinh viên hiện nay đều có thái độ, tình cảm đúng đắn đối với pháp luật. Thái
độ, tình cảm với pháp luật chỉ có thể được hình thành, phát triển trên cơ sở có
kiến thức về pháp luật. Chỉ khi sinh viên nắm được các kiến thức pháp luật thì


14
ở họ sẽ tôn trọng, tuân thủ, biết vận dụng các quy phạm pháp luật để giải
quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống.
Hai là: Ý thức pháp luật của sinh viên được nâng cao sẽ góp phần xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh chống lại các hành vi vi
phạm pháp luật. Chúng ta chỉ có thể xây dựng được một hệ thống pháp luật
hồn chỉnh khi ý thức được đầy đủ hiện thực khách quan của đời sống chính
trị xã hội, đời sống pháp luật. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật cao
hay thấp, tính ổn định nhiều hay ít phụ thuộc vào các hoạt động nhận thức,
đánh giá, tổng kết, hệ thống hoá và sáng tạo pháp luật trong từng thời điểm cụ
thể. Mỗi sinh viên hiện nay muốn đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm
pháp luật cũng cần phải có sự nhận thức pháp luật đầy đủ, chính xác. Một khi
sinh viên có ý thức pháp luật đúng đắn họ sẽ là những người mực thước trong
cuộc sống, đi đầu trong xã hội, trong tương lai có thể là những người lãnh
đạo, người quản lý cuốn hút người khác trong học tập và lao động… Ngược lại
nếu sinh viên có ý thức pháp luật thấp thì trong xã hội họ có thể là những người
nơng cạn, bất cần, ở họ có nhiều nguy cơ dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật.
Do đó, ý thức pháp luật tốt là một trong những nhân tố giúp mỗi sinh viên tự
điều chỉnh hành vi của mình một cách hợp lý, hợp pháp, để từ đó hình thành
nên một cộng đồng xã hội luôn sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Ba là: Việc nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên là nhân tố quan
trọng để góp phần hình thành những thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước.
Thơng qua đó tạo dựng một lực lượng lao động mới có đủ năng lực, trình độ,
phẩm chất, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Đây là biện pháp cần
thiết và ý nghĩa chiến lược trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai.
Bốn là: Nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên góp phần quan trọng
trong việc giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc. Ý thức pháp luật của
sinh viên khơng chỉ có vai trị trong việc tôn trọng và thực hiện pháp luật, sự
phát triển kinh tế - xã hội mà cịn có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ Tổ


15
quốc, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt là
trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc nâng cao ý thức pháp luật cho
sinh viên, làm cho họ nắm vững pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là hết
sức cần thiết và cấp bách.
Năm là: Sinh viên có ý thức pháp luật tốt sẽ lan toả, ảnh hưởng đến
những người xung quanh, bởi họ là những người có trình độ, được đào tạo bài
bản nên họ sẽ là những tấm gương tốt cho gia đình, cho hàng xóm... Đồng
thời, họ cũng là những người có khả năng truyền đạt những kiến thức pháp
luật hữu ích, thơng qua đó động viên, khích lệ những người xung quanh chấp
hành pháp luật có hiệu quả.
Như vậy, việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường
đại học, cao đẳng có vai trị hết sức quan trọng, nhằm hình hình thành ở
họ tri thức pháp luật, lịng tin, tình cảm đối với pháp luật từ đó có hành vi
xử sự hợp pháp khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội cụ thể, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình và của người khác.
1.2. NHỮNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG


1.2.1. Khái niệm tiêu chí đánh giá ý thức pháp luật của sinh viên
Trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm
nâng cao ý thức pháp luật đã nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và
toàn thể xã hội, nhất là đối với tầng lớp sinh viên các trường đại học, cao đẳng
và trung cấp trên cả nước; rất nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng và
Nhà nước đã được ban hành nhằm đẩy mạnh hơn việc chấp hành và tuân thủ
pháp luật của bộ phận này. Đáp lại điều đó, ý thức pháp luật của họ đã được
nâng lên một cách rõ nét. Song để cho đến nay, để đánh giá đúng ý thức của
sinh viên ở mức nào thì chúng ta vẫn chưa xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá
ý một cách cụ thể và tồn diện.
Việc xây dựng những tiêu chí để đánh giá ý thức pháp luật là rất cần
thiết vì những lý do sau đây:


16
- Những tiêu chí này là những căn cứ, tiêu chuẩn xác định để đánh giá
mức độ cao, thấp khác nhau về ý thức pháp luật của các nhóm chủ thể khác
nhau. Việc đánh giá ý thức pháp luật qua các tiêu chí rõ ràng sẽ cung cấp cho
chúng ta một cái nhìn đúng đắn và tồn diện hơn về thực trạng ý thức pháp
luật của từng nhóm chủ thể, trên từng địa bàn nhất định. Điều này cịn có ý
nghĩa quan trọng trong việc hướng công tác phổ biến giáo dục pháp luật đi
vào thực chất, tránh tính hình thức, phơ trương.
- Xây dựng những tiêu chí này là cơ sở để đặt ra những mục tiêu,
phương hướng và có biện pháp hiệu quả để nâng cao ý thức pháp luật cho
sinh viên nói riêng và tầng lớp thanh thiếu niên nói chung.
- Việc xây dựng các tiêu chí đánh giá ý thức pháp luật sẽ tạo ra sự đồng
bộ, thống nhất trong việc đánh giá thực trạng ý thức pháp luật trong phạm vi
cả nước, từ đó xây dựng được mặt bằng chung khi thực hiện những hoạt động
nhằm nâng cao ý thức pháp luật.

Xét về phương diện lý luận, đến nay chưa có tiêu chí cụ thể để đánh giá
ý thức pháp luật cho từng nhóm chủ thể trong xã hội, hoặc trong từng địa bàn
nói riêng mà hầu hết các cơng trình khoa học nghiên cứu về ý thức pháp luật
đề cập tới các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến ý thức pháp luật như: yếu tố hệ
thống pháp luật; yếu tố kinh tế thị trường; yếu tố văn hóa …
Có thể thấy những yếu tố ảnh hưởng hay tác động này chỉ mới phản
ánh được mặt bên ngoài của ý thức pháp luật mà chưa đánh giá được nguồn
gốc phát sinh của những yếu tố bên trong chủ thể - những yếu tố mà trực tiếp
tác động đến hành vi bên ngoài của chủ thể.
Như vậy, rõ ràng là việc xây dựng những tiêu chí đánh giá ý thức pháp
luật là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, do một số đặc thù của ý thức pháp luật
nên việc xây dựng những tiêu chí đánh giá ý thức pháp luật nói chung và ý
thức pháp luật của sinh viên nói riêng gặp một số vướng mắc:
Trước hết, ý thức pháp luật được hình thành từ hai yếu tố, đó là tri thức
pháp luật và tình cảm pháp luật, tuy nhiên sự thay đổi của tri thức pháp luật


17
và tình cảm pháp luật để nhận biết được khơng phải là vấn đề dễ dàng. Chính
vì vậy, đây là khó khăn rất lớn khi tiến hành xây dựng tiêu chí để đánh giá
đúng thực trạng ý thức pháp luật của chủ thể.
Thứ hai, hệ thống pháp luật và bộ máy của Nhà nước ta đang trong giai
đoạn hoàn thiện đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, khối lượng văn bản được các cấp, các
ngành ban hành mỗi ngày một tăng, trong khi đó việc nâng cao ý thức pháp
luật cho sinh viên trên mỗi địa bàn, mỗi dân tộc, mỗi ngành lại khác nhau, bởi
nhu cầu tìm hiểu về pháp luật cho các đối tượng sinh viên thuộc mỗi lĩnh vực,
địa bàn khác nhau gần nhủ khác nhau. Chẳng hạn, đối với sinh viên các ngành
kinh tế có nhu cầu tìm hiểu về pháp luật kinh doanh, thương mại… Còn đối
với sinh viên ngành xã hội lại có nhu cầu tìm hiểu về các tri thức pháp luật

liên quan đến từng ngành học của mình. Chính vì vậy, muốn đánh giá ý thức
pháp luật một cách tồn diện khơng phải là việc dễ thực hiện.
Thứ ba, như đã nói ở trên, đánh giá ý thức pháp luật là một hoạt động
đánh giá về tinh thần và ý chí của chủ thể nên kết quả của việc đánh giá còn
phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của các chủ thể cũng như sự tác động từ yếu tố
bên ngồi đến sự hành vi và ý chí của chủ thể. Do vậy, đây cũng là một khó khăn
cần phải xem xét khi xây dựng tiêu chí đánh ý thức pháp luật của sinh viên.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể khái qt khái niệm tiêu chí
đánh giá ý thức pháp luật cho sinh viên như sau:
Tiêu chí đánh giá ý thức pháp luật của sinh viên là cơ sở để xác định
được các mức độ nhận thức và tâm lý của sinh viên đối với những hoạt động
pháp luật.
1.2.2. Những tiêu chí đánh giá ý thức pháp luật của sinh viên
1.2.2.1. Mức độ nhận thức pháp luật của sinh viên
Trình độ hiểu biết pháp luật của sinh viên có thể được xem xét trên nhiều
khía cạnh, lĩnh vực khác nhau như: Sinh viên hiểu gì về Nhà nước và pháp luật; về
bản chất, vai trò, chức năng, các yếu tố và cơ chế vận hành của nhà nước và pháp


18
luật; về hoạt động xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật; về quyền và nghĩa vụ
của cá nhân, tổ chức; về hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật;… Hay là những
đánh giá của sinh viên về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của
các chủ thể pháp luật; những giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, chất
lượng pháp luật; tăng cường xử sự đúng pháp luật…
Trên cơ những hiểu biết về pháp luật của mình, sinh viên hình thành
thái độ đối với các quy định của pháp luật, xác lập động cơ, mục đích, lựa
chọn phương án xử sự và thực hiện hành vi pháp luật. Trên thực tế khi chủ thể
có được những tri thức pháp luật cần thiết, họ sẽ dễ dàng nhận thức các quy
định pháp luật, có niềm tin vào pháp luật, từ đó tự giác thực hiện pháp luật,

cũng như vận động mọi người cùng thực hiện, nếu nhận thức của chủ thể bị
hạn chế, không đầy đủ thì có thể dẫn đến thái độ coi thường hoặc hành vi
pháp luật sai lầm. Những chủ thể có ý thức pháp luật tốt sẽ ln là những
người mẫu mực, có ý thức sống và làm việc theo pháp luật.
Trình độ hiểu biết pháp luật của sinh viên được hình thành dựa trên một
quá trình học tập, rèn luyện cũng như tích lũy và tìm hiểu. Bởi ngay từ khi
cịn nhỏ, trẻ em đã được gia đình dạy những phép tắc, lễ nghĩa và thói quen cơ
bản về đạo đức và pháp luật thường nhật; những điều nên làm và những điều
không nên làm phù hợp với các quy chuẩn đạo đức và quy chuẩn pháp luật
bấy giờ. Đến khi học ở các bậc học các thói quen, lễ nghĩa về đạo đức ấy
được truyền đạt thông qua các bài học về lịch sử, đạo đức, văn học. Tất cả
những kiến thức ấy chỉ rời rạc, chưa có tính hệ thống, đồng bộ. Chỉ đến khi
bước chân vào các trường đại học, cao đẳng, với nền tảng tri thức đã được
tích lũy và những kiến thức pháp luật có hệ thống do thầy cơ truyền đạt, họ đã
biết phân tích, đánh giá sự phù hợp hay khơng phù hợp trong hành vi của
mình cũng như của những người khác thể hiện thơng qua việc nhìn nhận,
đánh giá các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong đời sống xã hội, từ đó hình
thành nên các quan điểm, quan niệm, tư tưởng và hệ thống tri thức pháp luật
của sinh viên một cách sâu sắc, có tính hệ thống. Đây là quá trình hình thành,
phát triển hệ tư tưởng pháp luật của sinh viên.


19
Sinh viên là một lực lượng đông đảo trong xã hội với đặc điểm riêng
hiện nay là tuổi trẻ, năng động, sáng tạo và có trình độ văn hóa cao nên tri
thức của họ thường có xu hướng tiến bộ và khoa học. Đây là yếu tố tác động
trực tiếp đến việc thực hiện hành vi của mình theo pháp luật. Bởi trình độ dân
trí cao là điều kiện đầu tiên, cơ bản để có những hành vi xử sự hợp pháp, với
người có trình độ văn hóa cao họ sẽ dễ dàng hiểu biết pháp luật, nhận thức
đúng pháp luật và dẫn đến việc thực hiện pháp luật tốt. Cịn với những người

trình độ văn hóa thấp, điều đó sẽ ngược lại, thật khó khăn cho họ trong việc
hiểu biết cũng như thực hiện pháp luật vậy.
1.2.2.2. Trạng thái tâm lý pháp luật của sinh viên
Tâm lý pháp luật là sự phản ánh những tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình
cảm của con người với pháp luật và quá trình điều chỉnh pháp luật. Tâm lý
pháp luật bị chi phối bởi hệ tư tưởng pháp luật, nó phụ thuộc vào đặc điểm và
trình độ nhận thức lý luận của cá nhân, và ngược lại, tâm lý pháp luật là tiền
đề thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển các tư tưởng, quan điểm pháp
luật phù hợp. Tâm lý pháp luật thường biểu hiện ở các dạng cơ bản sau:
- Tình cảm pháp luật: Tình cảm pháp luật chứa đựng trong đó những
rung động về tâm hồn của con người như cảm giác, niềm tin, sự trân trọng,
định kiến, thù ghét, ác cảm… đối với pháp luật. Ví dụ cảm giác của nhân dân
về tính nhân đạo của pháp luật, cảm giác lo lắng, ác cảm, thái độ căm phẫn
trước những hành vi phạm pháp, mong muốn đấu tranh chống lại các hành vi
vi phạm pháp luật.
- Tâm trạng pháp luật: Đây là yếu tố linh động của ý thức pháp luật, nó
chịu sự định hướng của hệ tư tưởng pháp luật và các yếu tố tác động khách
quan bên ngồi. Chẳng hạn, bằng nhiều hình thức thiết thực, các cơ quan chức
năng có thể hướng tâm trạng thờ ơ, lãnh đạm của người dân với các vi phạm
pháp luật, ở những nơi công cộng trở thành tâm trạng, tình cảm khơng khoan
nhượng đối với các hành vi ấy, từ đó thiết lập thái độ tơn trọng sự cơng bằng
trong nhân dân.


20
- Tự đánh giá cá nhân: Là thái độ của mỗi người đối với hành vi của chính
mình hay cơ quan, đơn vị, gia đình… của mình. Tự đánh giá có thể biểu hiện
dưới dạng cảm xúc như tự hào, buồn lo, xấu hổ… Xấu hổ là ý thức bên trong
của thái độ không chấp nhận đối với một hành vi nào đó trước người khác. Cảm
xúc xấu hổ trong một mức độ nào đó có thể điều chỉnh cách hành xử của con

người. Chẳng hạn, vì xấu hổ người ta sẽ không tiến hành những hành vi mà họ
cho là xấu, có hại…
- Xúc động: Là biểu hiện của lương tâm con người. Những xúc động
đúng đắn đối với pháp luật nhiều lúc có ý nghĩa phịng ngừa những hành vi
không phù hợp, đi lệch với chuẩn mực xã hội, chuẩn mực pháp luật.
Sự tồn tại của tâm lý pháp luật thường gắn với trạng thái tâm lý của con
người, là sự phản ánh trực tiếp của con người đối với các hiện tượng pháp lý
cụ thể. Tâm lý pháp luật là thái độ tình cảm của con người đối với pháp luật,
tình cảm đó có thể là sự đồng tình, sự vui mừng phấn khởi, niềm tin vào pháp
luật, sự tôn trọng pháp luật hoặc là sự phản đối, sự thờ ơ, định kiến, ác cảm,
thiếu tôn trọng pháp luật. Ví dụ: tình cảm đối với sự cơng bằng; nỗi sợ hãi
trước hình phạt; sự đồng tình hay phản đối đối với bản án mà Toà án đã tuyên
cho bị cáo; thái độ quan tâm, phẫn nộ hay lãnh đạm, thờ ơ đối với các hành vi
vi phạm pháp luật… Tâm lý pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện
hành vi pháp luật hợp pháp của chủ thể nói chung và của sinh viên các trường
đại học, cao đẳng nói riêng góp phần nâng cao phẩm giá, nhân cách con
người, từ đó hình thành trách nhiệm của mỗi người với bản thân, gia đình, lớn
hơn nữa là với quê hương, nhân loại.
Tâm lý pháp luật của sinh viên chịu sự tác động mạnh mẽ của hệ tư
tưởng pháp luật, khi sinh viên có quan điểm, tri thức pháp lý nhất định thì các
em sẽ có sự nhìn nhận, đánh giá tốt về các quy phạm pháp luật, cũng như các
sự kiện, hiện tượng đang diễn ra, từ đó sinh viên trạng thái, cảm xúc, thái độ,
tình cảm đối với những vấn đề xã hội mang tính chất pháp lý. Tâm lý pháp
luật được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng của hoạt động giao tiếp


21
hàng ngày với môi trường pháp lý xung quanh. Do là yếu tố mang tính tự
phát, chịu sự chi phối của phong tục, tập quán, nếp sống của mỗi sinh viên
nên tâm lý pháp luật của họ có thể bộc lộ dưới dạng tích cực hoặc tiêu cực

như: thái độ của sinh viên phản ứng lại với các hành vi vi phạm pháp luật, yêu
công lý, đề cao công bằng xã hội, đề cao trách nhiệm của mỗi người… cũng
có thể biểu hiện dưới dạng tiêu cực như: cổ vũ cho hành vi phạm pháp, chống
đối người thi hành công vụ, làm ngơ trước người bị hại… tâm lý pháp luật
của sinh viên chịu ảnh hưởng của các yếu tố như điều kiện sống, lao động,
sinh hoạt hàng ngày, từ đó các sinh viên tự đánh giá về hành vi ứng xử của
mình trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật.
Mặc dù sinh viên đã được tiếp thu các kiến thức pháp luật, nhưng
một bộ phận sinh viên hiện nay có những quan điểm, tư tưởng lệch lạc với
chuẩn mực đạo đức và pháp luật như là coi thường pháp luật, lách luật,
thiếu niềm tin vào các quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, việc xem
xét, đánh giá tâm lý pháp luật của sinh viên hiện nay là một việc làm cần
thiết, góp phần đánh giá đúng thực trạng ý thức pháp luật của sinh viên.
1.2.2.3. Mức độ tôn trọng và thực hiện pháp luật của sinh viên
Mục đích của việc ban hành văn bản pháp luật chỉ có thể thực hiện
được khi các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra được các tổ chức, cá
nhân trong xã hội tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách đầy đủ, chính
xác. Đây khơng chỉ là mối quan tâm của Nhà nước mà còn là mối quan tâm
của toàn xã hội. Để làm được điều này, mỗi người dân, mỗi tổ chức phải tự
giác thực hiện pháp luật và phải tơn trọng pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý, thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp, đem lại
lợi ích cho Nhà nước và xã hội. Hành vi này phải được thực hiện trên cơ sở nhận
thức của chủ thể là cần thiết phải xử sự theo đúng quy định của pháp luật do Nhà
nước ban hành. Tuy nhiên, những hành vi này cũng có thể được thực hiện do chủ
thể bị ảnh hưởng từ những người xung quanh chứ bản thân chủ thể chưa hoặc
không nhận thức được đầy đủ tại sao phải làm như vậy; cịn có thể có những


22
hành vi hợp pháp được thực hiện do kết quả của việc áp dụng những biện pháp

cưỡng chế Nhà nước hoặc do sợ bị áp dụng những biện pháp đó.
Một khi nhận thức pháp luật được nâng cao, thì chủ thể thực hiện hành
vi dễ dàng nhận thức được nội dung, tinh thần của quy định văn bản cần thiết,
họ sẽ có niềm tin vào pháp luật, vào những hành vi hợp pháp của mình, từ đó
tự giác thực hiện pháp luật, cũng như vận động mọi người và ngược lại. Bên
cạnh những hiểu biết về pháp luật thì tâm lý pháp luật cũng là yếu tố quan
trọng ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật, bởi nó có tác dụng kiềm chế
hoặc thúc đẩy hành vi của mỗi người, giúp họ tự quyết định làm hay không
làm những việc mà pháp luật cấm. Lúc này, ý thức pháp luật của họ sẽ giúp
họ thực hiện tự giác, nhận thức sâu sắc những quy định của pháp luật. Vì
vậy,những người có ý thức pháp luật tốt thì họ sec tự giác, tích cực, thực hiện
một cách đầy đủ, thiện chí có trách nhiệm với hành vi của mình và ngược lại.
Đối với sinh viên cũng vậy, việc thực hiện pháp luật nếu khơng có nhận
thức pháp luật đầy đủ, vững vàng thì sẽ khơng có động cơ, kỹ năng, hành vi
thực hiện pháp luật chính xác, kịp thời. Những sinh viên nhận thức được pháp
luật sâu sắc, hiểu biết các quy định của pháp luật sẽ là những người có khả
năng thực hiện những hành vi pháp luật đúng đắn, hiệu quả nhất. Hay nói
cách khác, ý thức pháp luật của sinh viên càng cao thì tinh thần tơn trọng và
thực hiện pháp luật càng được đảm bảo và chính xác; ý thức pháp luật đúng
đắn sẽ giúp mỗi sinh viên tự giác thực hiện pháp luật hay có những thái đọ bất
bình với những hành vi vi phạm pháp luật.
1.2.2.4. Mức độ tham gia vào các hoạt động pháp luật
Hiện nay, theo chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật ngoại khóa
cho học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp giai đoạn 2013 - 2016 ban hành kèm theo Quyết định số 366/QĐBGDĐT ngày 27 tháng 01 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì
những hoạt động ngoại khóa sẽ nâng cao chất lượng và bổ sung kịp thời cho
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong chương trình chính khóa cho học


23

sinh, sinh viên; Góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho HSSV trong nhà
trường. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức chấp hành pháp luật của HSSV
trong toàn ngành giáo dục, biết thực hiện đúng, đủ quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Xác định tầm quan trọng như vậy nên đối với các trường đại học, cao
đẳng trên cả nước hiện nay, ngồi việc giáo dục pháp luật cho sinh viên thơng
qua các chương trình chính khố, nhiều trường đã phát triển hình thức giáo
dục pháp luật đa dạng, phong phú thơng qua các hoạt động thi tìm hiểu kiến
thức pháp luật với đa dạng các hình thức; mời báo cáo viên nói chuyện
chuyên đề; tham gia thi viết các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; các chương trình
phát thanh học đường; các bản tin Đoàn - Hội; các buổi sinh hoạt tập thể, sinh
hoạt các câu lạc bộ, các trò chơi giải trí… có nội dung giáo dục pháp luật.
Đây là hoạt động thường niên mỗi năm học lồng ghép với các chủ đề từng
tháng trong quy định của chương trình hoạt động giáo dục pháp luật ngoài giờ
lên lớp, triển khai nhiều hình thức PBGDPL ngoại khóa nhằm bổ sung kiến
cho bài chính khố, cập nhật các kiến thức pháp luật mới, tạo niềm tin, tình
cảm pháp luật cho người học.… và đã thu hút được đơng đảo đồn viên, sinh
viên tham gia.
Việc sinh viên tham gia vào các hoạt động pháp luật sễ giúp sinh viên
có thêm những tri thức về pháp luật, có thái độ đúng đắn với các hoạt động
xây dựng pháp luật cũng như tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật của
Đảng và Nhà nước, từ đó các em có niềm tin vào pháp luật và tự giác thực
hiện các hành vi hợp pháp.
1.3. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA
SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG

1.3.1. Yếu tố bên trong
1.3.1.1. Yếu tố về tâm sinh lý
Hiện nay trên cả nước có khoảng 2.300.000 sinh viên học tại các
trường đại học, cao đẳng trên cả nước; trong đó có trên


¾ số lượng này xuất


24
thân từ nông thôn, nơi mà phần đông dân cư đã và đang gắn bó với nền sản
xuất nhỏ, nơng nghiệp lạc hậu, manh mún, phân tán, với những tập tục phức
tạp, rườm rà, do vậy ý thức pháp luật của nhiều người dân còn thấp, một bộ
phận dân cư chưa có thói quen sống và làm việc theo pháp luật, thậm chí có
một số người cịn xem pháp luật như là một sự trói buộc, thường tìm cách trốn
tránh, bất tn pháp luật.
Bên cạnh đó truyền thống trọng tình, duy tình trong quan hệ dịng họ
thân tộc của người Việt Nam đã được tạo nên từ lối sống, từ tập quán sản xuất
và sinh hoạt lâu đời, đã tạo nên sự đồn kết, nhất trí, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau,
động viên nhau những lúc khó khăn… là cơ sở hình thành nên giá trị đời sống
tinh thần của mỗi cá nhân, gia đình và dịng họ. Đây là nhân tố tích cực thúc đẩy
các chủ thể thực hiện pháp luật tốt hơn, nhiệt tình hơn vì họ khơng muốn mang
tiếng xấu với người thân, làng xóm. Tuy nhiên cũng từ tâm lý trọng tình nghĩa
này mà mỗi cá nhân nhiều khi mới “chín bỏ làm mười”, có trường hợp biết
người thân phạm tội mà không “nỡ” tố giác… điều đó ảnh hưởng rất nhiều đối
với lớp trẻ, nhất là đối với sinh viên – đối tượng tiếp thu rất nhanh với các quan
hệ xã hội và chịu nhiều ảnh hưởng từ gia đình, dịng họ.
Như vậy, từ những trạng thái tâm lý tưởng như rất nhỏ, vặt vãnh, ít ai
để ý đến nhưng chúng lại có ảnh hưởng rất lớn đến ý thức pháp luật của giới
trẻ, đặc biệt là bộ phận sinh viên. Điều này có tác động rất xấu đến việc tuyên
truyền phổ biến và giáo dục pháp luật cho họ nếu như những yếu tố đó đã ăn
sâu vào tiềm thức của họ.
1.3.1.2. Yếu tố về phong tục tập quán và lối sống
Cũng như các yếu tố khác, phong tục tập quán cũng có tác động hai mặt
đến ý thức pháp luật của Nhân dân nói chung và của sinh viên nói riêng, bao

gồm cả mặt tích cực và tiêu cực. Những phong tục tập qn tích cực phù hợp
với ý chí Nhà nước thì sẽ được Nhà nước đảm bảo và thừa nhận trở thành quy
phạm pháp luật, còn những phong tục tập quán nào trái với ý chí Nhà nước sẽ
bị hạn chế hoặc bài trừ. Như chúng ta đã biết, giỗ tổ Hùng Vương là một


25
phong tục tốt đẹp của người dân ta, để mỗi người dân luôn biết đến cội nguồn,
luôn nhớ đến cội nguồn. Vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta đã công nhận ngày
10-3 âm lịch hàng năm là ngày Quốc giỗ, là ngày nghỉ lễ cho người lao động
được hưởng nguyên lương, khuyến khích xây dựng đền Hùng trở thành di sản
văn hóa thế giới…
Tuy nhiên bên cạnh đó, cũng có những phong tục tập quán lạc hậu đã
ăn sâu, bén rễ vào trong tiềm thức, suy nghĩ, trong lối sống cách hành xử của
người dân ta từ bao đời nay, gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện pháp luật
mà cần phải bài trừ, thanh tốn. Một ví dụ tiêu biểu đó chính là vấn đề “trọng
nam khinh nữ”, với suy nghĩ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vơ” và phong
tục chỉ có con trai mới được nối dõi tông đường, mới được thờ cúng tổ tiên…
đã khiến khơng ít gia đình cố tình sinh con thứ ba bất chấp vi phạm pháp luật,
chính điều này đã dẫn tới tình trạng mất cân bằng giới tính đáng lo ngại ở Việt
Nam hiện nay.
Là bộ phận nhạy bén với những cái mới trong xã hội nhưng sinh viên
cũng được thừa hưởng những truyền thống, phong tục tập quán mà cha ơng để
lại. Do vậy, có những phong tục, tập quán có giá trị văn hóa, truyền thống và đạo
đức to lớn mà sinh viên được thừa hưởng có ảnh hưởng tích cực đến ý thức pháp
luật của sinh viên; nhưng cũng có những phong tục tập quán ảnh hưởng tiêu cực
đến việc nhận thức cũng như nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên. Vì vậy,
việc giữ gìn, phát huy những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp và loại bỏ
những truyền thống, phong tục tập quán có ảnh hưởng xấu khơng chỉ là việc làm
của Đảng và Nhà nước, mà đây còn là việc làm của cộng đồng xã hội.

1.3.2. Yếu tố bên ngoài
1.3.2.1. Yếu tố gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nịi giống, là mơi trường quan
trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và
phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


×