Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học -Thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.95 KB, 95 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và kỹ thuật, đời sống
kinh tế của con người đã và đang được cải thiện đáng kể nhưng chúng ta cũng
phải đối mặt với những thách thức của sự phát triển, đó là nguy cơ suy giảm
từng ngày, từng giờ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái các yêu
tố căn bản của môi trường sống. Ai cũng biết, môi trường có tầm quan trọng
đặc biệt đối với đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội. Hiện nay, bảo vệ mơi trường đã trở thành vấn đề cấp bách, bảo đảm
điều kiện thiết yếu cho sự phát triển bền vững không chỉ đối với mỗi dân tộc,
mỗi quốc gia mà còn đối với cả nhân loại.
Tài nguyên rừng - một trong những nguồn tài nguyên có khả năng tự tái
tạo và là bộ phận khơng thể thay thế được của mơi trường, có tính quyết định
trong việc duy trì cân bằng sinh thái tồn cầu. Do vậy, ngày nay việc bảo vệ tài
nguyên rừng cũng là bảo vệ môi trường sống đang được các quốc gia đặc biệt
quan tâm. Vấn đề này càng trở lên cấp thiết khi nguồn tài nguyên rừng đang đứng
trước nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng cả về lượng và chất. Thực trạng rừng các
quốc gia trên thế giới ngày càng giảm cả về diện tích và đa dạng sinh học. Theo
thống kê của IUCN (Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc
tế) thì mỗi năm có khoảng 17 triệu ha rừng bị tàn phá và biến mất trên bề mặt trái
đất. Hiện nay, nhiều nơi trên thế giới đã và đang xảy ra khủng hoảng sinh thái cục
bộ, nhiệt độ của trái đất nóng lên, bão lụt xảy ra thường xuyên và có diễn biến hết
sức phức tạp đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của nhân loại.
Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển cũng đang đứng trước
những nguy cơ khủng hoảng về môi trường sinh thái và tài nguyên thiên
nhiên. Theo số liệu thống kê cho thấy, tài nguyên rừng ở nước ta đã bị giảm đi
nhanh chóng, trong giai đoạn 1943 - 1990, diện tích rừng bị mất đi khoảng 5
triệu ha. Đến năm 2009, Việt Nam còn 13,26 triệu ha rừng. Hiện nay, bên



2
cạnh việc đem lại lợi ích kinh tế, chúng ta khơng thể phủ nhận được vai trị
cực kỳ quan trọng của rừng trong việc giữ đất, giữ nước, điều hoà khí hậu và
bảo vệ mơi trường sinh thái. Trước những biến đổi về môi trường trong thời
gian qua, chúng ta càng hiểu được tầm quan trọng của rừng. Bảo vệ và phát
triển rừng bền vững đã được nhận thức như một chiến lược vì mục tiêu tồn tại
lâu dài của con người và thiên nhiên.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính
sách và các biện pháp tích cực nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện pháp
luật bảo vệ và phát triển rừng. Cùng với sự ra đời Luật Bảo vệ và phát triển
rừng năm 1991 (sửa đổi, bổ sung năm 2004), hàng loạt các văn bản pháp luật
quan trọng về bảo vệ và phát triển rừng được ban hành; nhiều chương trình,
dự án cấp quốc gia và quốc tế được triển khai, tạo đà thúc đẩy việc quản lý,
bảo vệ và phát triển rừng ngày càng tốt hơn. Các ngành, các cấp, các tổ chức
đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội ngày càng chú trọng hơn đến công tác bảo
vệ và phát triển rừng; nhận thức và hành động về bảo vệ rừng trong cộng
đồng, trong xã hội ngày càng được nâng cao. Các yêu cầu về bảo vệ và phát
triển rừng ngày càng được quan tâm nhằm hướng tới sự phát triển bền vững,
giúp chúng ta thu được nhiều thành tựu trong cơng tác quản lý, từng bước
khắc phục tình trạng suy thối rừng, cải thiện mơi trường sống.
Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện, tình trạng vi phạm pháp luật về
bảo vệ và phát triển rừng vẫn còn diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi, mặc dù
diện tích rừng trong những năm qua có tăng nhưng chất lượng và tính đa dạng
sinh học của rừng tự nhiên vẫn tiếp tục bị suy giảm, ở một số nơi diện tích
rừng tiếp tục bị tàn phá đã tác động nghiêm trọng đến môi trường sinh thái,
ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội. Song, pháp luật dù có hồn thiện và
tiến bộ đến đâu chăng nữa nhưng pháp luật có thực sự đi vào cuộc sống hay
không đều phụ thuộc vào nhận thức, ý thức chấp hành, tuân thủ, sự áp dụng



3
và thi hành của các chủ thể thực hiện pháp luật. Do đó, nghiên cứu thực trạng
tình hình thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, từ đó tìm ra
phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện là yêu cầu khách quan, cấp
thiết góp phần đưa pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng vào cuộc sống.
Ở Bắc Giang, trên cơ sở pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng của Nhà
nước trong thời gian qua, chính quyền các cấp và các cơ quan quản lý ở tỉnh đã
ban hành nhiều văn bản triển khai, tổ chức các biện pháp thực hiện pháp luật về
bảo vệ và phát triền rừng trên địa bàn toàn tỉnh. Mặc dù đã đạt được những kết
quả khả quan, tình hình vi phạm đã có chiều hướng giảm dần theo từng năm,
nhưng nhìn chung việc thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng vẫn
chưa có bước chuyển biến căn bản và rõ nét, còn bộc lộ một số hạn chế, tồn tại
như tình trạng xâm hại rừng còn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều địa phương dẫn
đến diện tích rừng bị thu hẹp, nhận thức pháp luật của người dân về bảo vệ
rừng chưa cao, đặc biệt là tình trạng chống người thi hành cơng vụ còn diễn ra
gay gắt, xử lý vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền chưa kiên quyết…Vì
vậy, nghiên cứu để đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng là yêu cầu cấp bách trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Qua việc học tập, nghiên cứu; kết hợp giữa lý luận được trang bị tại nhà
trường và thực tiễn công tác trong ngành lâm nghiệp ở tỉnh Bắc Giang, tôi nhận
thấy việc thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống là một vấn đề hết sức
quan trọng và có tính cấp bách cần phải được quan tâm nghiên cứu. Chính vì vậy,
tơi lựa chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp
luật trên từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội đã được Đảng, Nhà nước và
đặc biệt là các nhà khoa học, những người làm công tác lý luận quan tâm



4
nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Cho đến nay đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật nói chung được thể hiện dưới
nhiều tên gọi khác nhau như: đề tài, luận văn, đề án…
Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu của các cá nhân, tập thể được cơng
bố có liên quan đến đề tài, bao gồm:
- PGS.TS Trần Văn Chử (2004), Tài nguyên thiên nhiên môi trường và
phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt
Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ của Hà Cơng Tuấn, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- “Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp
tỉnh Hải Dương”, Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Thanh Xuân, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2009.
- “Vai trị của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ
rừng ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Võ Mai Anh, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
- “Áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản ở tỉnh Tuyên Quang”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Mai,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2010.
- Đề tài cấp Bộ: “Một số giải pháp quản lý nhằm bảo vệ và phát triển
rừng ở Tây Nguyên” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Phân
viện Đà Nẵng), 2003.
- “Một số vấn đề cơ bản về pháp Luật Bảo vệ và phát triển rừng ở Việt
Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thanh Huyền, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
Tuy nhiên, những cơng trình được các tác giả công bố ở một số lĩnh
vực cụ thể như quản lý nhà nước về rừng, vai trò của pháp luật trong quản lý



5
nhà nước đối với lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng ở Việt Nam. Các cơng trình
trên đã được các tác giả nghiên cứu ở khía cạnh này hay chỉ đề cập đến những
vấn đề liên quan đến vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với lĩnh
vực bảo vệ rừng. Các cơng trình đã đưa ra được nhiều giải pháp để bảo vệ và
phát triển rừng, giải quyết được cơ sở lý luận và vấn đề thực tiễn đặt ra. Song,
chưa có cơng trình nào nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Luận văn được thực hiện và tiếp cận ở góc độ lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật về thực hiện pháp luật đối với một lĩnh vực hoạt động cụ
thể là bảo vệ và phát triển rừng một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc lý luận
và thực tiễn, đồng thời đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo
vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tiễn, mục đích chính của
luận văn là đưa ra hệ thống giải pháp toàn diện, khả thi, khoa học nhằm bảo đảm
thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích khái niệm thực hiện pháp luật; các khái niệm, hình thức, đặc
điểm, vai trị, các giai đoạn thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
đồng thời tìm ra các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng.
- Đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển
rừng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang: kết quả đạt được, những hạn chế,
nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện pháp luật bảo vệ và
phát triển rừng.



6
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp
luật bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực
hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu hoạt động thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng của các chủ thể có quyền và nghĩa vụ bảo vệ và phát triển rừng ở
tỉnh Bắc Giang.
- Thời gian để đánh giá thực tiễn từ năm 2008 đến nay (5 năm).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cở sở lý luận
Luận văn này được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ và phát
triển rừng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh; song
phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng chủ yếu để giải quyết
những nhiệm vụ cơ bản tại chương 1 và chương 3 của luận văn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Phân tích, đưa ra khái niệm về pháp luật và thực hiện pháp luật về bảo
vệ và phát triển rừng.
- Đánh giá tồn diện tình hình thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.



7
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về
bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đóng góp cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Luận văn đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong những năm qua. Luận văn góp
phần khẳng định yêu cầu thực tiễn phải thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng có hiệu quả để đảm bảo sự hài hịa giữa phát triển kinh tế - xã hội
với sự cân bằng môi trường sinh thái. Thông qua luận văn, các chủ thể thực
hiện pháp luật hiểu rõ hơn về thực hiện pháp luật cũng như có các chính sách
phù hợp trong công tác bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam nói chung, trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn bao gồm 3 chương, 8 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG

1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật
Quản lý xã hội bằng pháp luật là phương thức quản lý cơ bản của hầu
hết các nhà nước đương đại trên thể giới. Trong xã hội có sự phân chia giai

cấp và có nhà nước thì việc bảo đảm cho xã hội có trật tự ln là điều kiện
cho sự tồn tại và phát triển. Xã hội khơng có trật tự, ổn định thì tất nhiên các
quyền lợi của tổ chức, cá nhân không thể bảo đảm được sự cơng bằng. Để
quản lý xã hội, địi hỏi mỗi nhà nước phải xây dựng cho được một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu điều chỉnh mọi quan hệ trong đời
sống xã hội. Ở Việt Nam, trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, pháp luật ngày càng có
vai trị quan trọng thống trị trong đời sống Nhà nước và xã hội. Pháp luật là
một công cụ để quản lý xã hội chủ yếu của Nhà nước, song pháp luật chỉ phát
huy được vai trị và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo
điều kiện cho xã hội phát triển khi pháp luật được tôn trọng và thực hiện trong
cuộc sống.
Như vậy, thực hiện pháp luật là yêu cầu khách quan của xã hội, Nhà
nước và từng cá nhân. Khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa phân tích thuộc tính
thực hiện pháp luật trong mối quan hệ biện chứng với xây dựng pháp luật, bảo
vệ pháp luật khẳng định thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục
đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của
chủ thể pháp luật, là q trình hiện thực hóa ý chí của nhân dân được thể hiện


9
trong pháp luật thay cho hành vi hợp pháp của chủ thể pháp luật, thực hiện
pháp luật là mắt xích quan trọng của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin nghiên cứu về thực hiện
pháp luật đều cho rằng: Thực hiện pháp luật là q trình tiếp tục ý chí của nhà
nước thể hiện trong pháp luật, thực hiện pháp luật là một mắt xích quan trọng
của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì nội dung cốt lõi của pháp chế là sự tuân
thủ pháp luật, sự thực hiện pháp luật. Lênin cho rằng: pháp chế là sự tuân thủ
và chấp hành nghiêm chỉnh các đạo luật, vấn đề quan trọng không chỉ thực
hiện nghiêm chỉnh các đạo luật, và điều quan trọng là các đạo luật được ban

hành đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đòi hỏi của xã hội và nguyện vọng của quần
chúng nhân dân lao động và vấn đề quan trong nhất là pháp luật ban hành
phải được tuân thủ, thực hiện đồng thời pháp luật được ban hành phải có sự
thống nhất cao, có như vậy pháp chế mới bảo đảm thực hiện.
Nghị quyết số 48 của Bộ Chính trị, khóa IX nêu rõ:
Hiệu lực của pháp luật là để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn
định chính trị, phát triển kinh tế quốc gia, hội nhập quốc tế, xây
dựng nhà nước trong sạch, mạnh mẽ, thực hiện quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân, đưa Việt Nam trở thành nước
công nghiệp hiện đại vào năm 2020 [4, tr.230].
Để pháp luật phát huy được vai trị của mình thì cần thiết là phải thực
hiện pháp luật, có như vậy khi pháp luật được ban hành mới thực sự đi vào
cuộc sống.
Cho đến nay, có rất nhiều nhà khoa học về luật học đứng trên các bình
diện khác nhau nghiên cứu về thực hiện pháp luật và có nhiều cách luận giải
vấn đề thực hiện pháp luật như:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Thực hiện pháp luật là một hiện tượng
xã hội mang tính quản lý. Quá trình hoạt động thực hiện pháp luật diễn ra


10
đồng thời và tiếp nối quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của nhà
nước” [35, tr.270].
Theo quan điểm trên thì xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là
hai dạng hoạt động khác nhau có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xây dựng
pháp luật là quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm ban hành pháp luật và khơng ngừng hồn thiện hệ thống pháp luật, còn
thực hiện pháp luật là trách nhiệm của mọi tổ chức và công dân Việt Nam,
người nước ngoài làm việc trên lãnh thổ nước Việt Nam.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “thực hiện pháp luật là hoạt động có mục

đích nhằm thực hiện các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc
sống, trỏ thành hành vi thực tế hợp pháp của chủ thể pháp luật” [52, tr.463].
Quan điểm này cho thấy thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá
nhân, cũng có thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội…
Quan điểm thứ ba cho rằng:
Thực hiện pháp luật là hành vi hành động hoặc không hành động
của con người phù hợp với những quy định của pháp luật. Nói cách
khác, tất cả nhũng hoạt động nào của con người, của tổ chức mà
thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì được coi là sự thực
hiện thực tế của quy phạm pháp luật [53, tr.369].
Bên cạnh những quan điểm chính thức như hiện nay, có một số nhà
khoa học pháp lý tiếp cận về thực hiện pháp luật và đưa ra cách luận giải về
thực hiện pháp luật như: PGS.TS Nguyễn Minh Đoan cho rằng: Thực hiện
pháp luật trước hết là một trong những hình thức để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước. Tất cả các nhà nước để có thể tổ chức, quản lý được
xã hội đều bắt buộc phải tiến hành xây dựng pháp luật và ban hành quy phạm
pháp luật, nhà nước mong muốn sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ
xã hội phục vụ lợi ích và mục đích của nhà nước và xã hội. Điều đó có thể đạt


11
được khi các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành được các tổ chức và
cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ.
Do vậy, thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp
luật. Pháp luật được đặt ra để điều chỉnh hành vi của con người, nên việc thực
hiện pháp luật phải thể hiện ở dạng hành vi pháp luật của con người. Hành vi
có thể là hành động hay không hành động phù hợp với những quy định của
pháp luật. Thực hiện pháp luật được chia ra làm 4 giai đoạn như: Tuân thủ
pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật.
Tóm lại, trong tất cả các quan điểm về thực hiện pháp luật nêu trên đều

có những khía cạnh, nhiều ý kiến khác nhau về thực hiện pháp luật. Tuy
nhiên, các quan điểm về thực hiện pháp luật đều hội tụ cơ bản về nội dung cốt
lõi đó là: Thực hiện pháp luật là q trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật trở thành hiện thực và đi vào cuộc sống, tạo ra
cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của chủ thể pháp luật.
Thực hiện pháp luật có thể hiểu rằng các tổ chức và cá nhân là chủ thể
của pháp luật khi gặp phải những tình huống mà quy phạm pháp luật đã nêu
ra ở phần giả định thì các chủ thể phải tự hành động hoặc không hành động
sao cho phù hợp với những quy định của pháp luật.
Từ các quan điểm lý luận trên có thể đi đến khái niệm thực hiện pháp
luật như sau: Thực hiện pháp luật là tổng thể các hoạt động có mục đích
nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc
sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng và
phát triển rừng
1.1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
Thực hiện pháp luật là một trong những hình thức thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước. Tất cả các nhà nước để có thể tổ chức, quản lý


12
được xã hội đều bắt buộc phải xây dựng (ban hành) pháp luật. Ban hành quy
phạm pháp luật nhà nước mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan
hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục đích của nhà nước và xã hội. Điều đó chỉ có
thể đạt được khi các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành được các tổ
chức, cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Đó chính là
yêu cầu và mục đích mà nhà nước đặt ra trong quá trình quản lý xã hội bằng
pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bảo vệ và phát triển rừng là một lĩnh vực của đời sống xã hội, tuy
nhiên thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng là một yêu cầu

chung của toàn xã hội. Để làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng trên cơ sở khái niệm chung về thực hiện pháp luật được
nêu trên, cần thiết phải tìm hiểu những vấn đề cơ bản về rừng, bảo vệ và
phát triển rừng.
Khái niệm rừng: Hiện có rất nhiều nhà khoa học về lâm nghiệp, các
nhà nghiên cứu về môi trường đưa ra các quan niệm khác nhau về rừng như:
Quan niệm thứ nhất: Ủy ban môi trường thế giới cho rằng: rừng là quần
xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu và quần xã sinh vật phải
có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã sinh vật và môi trường, các thành phần
trong quần xã sinh vật phải có mối quan hệ mật thiết để đảm bảo khác biệt
giữa hoàn cảnh rừng và các hoàn cảnh khác.
Quan điểm thứ hai: Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn
nhau, nó chiếm một phạm vi khơng gian nhất định ở mặt đất và trong khí
quyển. Rừng chiếm phần lớn bề mặt trái đất và là một bộ phận của cảnh quan
địa lý [35, tr.37].
Quan điểm thứ ba: Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó
bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật.
Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh
hưởng lẫn nhau và với hoàn cảnh bên ngoài [35, tr.147].


13
Như vậy, tất cả các quan điểm trên đều đi đến thống nhất với nhau, cho
rằng rừng là tổng thể nhiều loài thực vật sống với nhau trên một đơn vị diện
tích nhất định và các hệ thực vật ấy có mối quan hệ rất mật thiết với nhau và
các thành phần trong quần xã sinh vật có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Qua các quan điểm trên về rừng có thể đi đến khái niệm: Rừng là một
hệ sinh thái bao gồm nhiều quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật
rừng, đất rừng và các yếu tố mơi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc
hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ từ 0,1 trở lên. Rừng

bao gồm rừng trồng, rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, rừng phòng hộ,
đất rừng đặc dụng (Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng).
Khái niệm bảo vệ rừng: Rừng đóng vị trí, vai trị quan trọng trong việc
bảo vệ mơi trường sinh thái cho cong người; rừng chống xói mòn, giữ đất, giữ
nước…Bảo vệ rừng bao gồm tổng hợp các biện pháp để duy trì diện tích rừng
và phát huy các tác dụng tổng hợp của rừng. Theo giáo trình lâm sinh của
trường Đại học Nơng lâm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng “Bảo vệ rừng là
thực hiện việc bảo vệ và kiểm sốt một cách có hiệu quả tình trạng suy thối
rừng trên phạm vi cả nước, trong đó quy định cụ thể nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân khi khai thác sử dụng từng loại rừng”. Tổ chức bảo vệ môi trường thế
giới cho rằng bảo vệ rừng “là hoạt động đảm bảo cho quá trình kiểm soát suy
thoái tài nguyên rừng của tổ chức, cá nhân được tuân thủ một cách nghiêm
ngặt có định hướng”.
Vậy bảo vệ rừng là hoạt động có mục đích của các tổ chức, cá nhân
nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của rừng, góp phần bảo tồn đa dạng
sinh học của rừng, góp phần phịng chống lụt bão, chống xói mịn cho đất,
điều hịa khí hậu tạo mơi trường trong sạch cho con người.
Hiện nay, công tác bảo vệ rừng được quy định tại Luật Bảo vệ và phát
triển rừng năm 2004; Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của


14
Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng; Quyết định số
186/2006/QĐ-TT ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
quy chế quản lý rừng, và một số văn bản hướng dẫn khác.
Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
và các quan niệm về bảo vệ rừng của các nhà khoa học lâm nghiệp trên
chúng ta có thể đi đến khái niệm: Bảo vệ rừng là hoạt động của cơ quan, tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững; kết hợp
bảo vệ và khai thác hợp lý tài nguyên rừng có hiệu quả, kết hợp chặt chẽ

giữa trồng rừng và khoanh nuôi sinh thái phục hồi, bảo vệ diện tích rừng
hiện có, đẩy mạnh trồng rừng kinh tế gắn với phát triển công nghiệp chế
biến lâm sản nhằm nâng cao giá trị sản phẩm rừng, bảo tồn đa dạng sinh
học của rừng.
Từ khái niệm về bảo vệ rừng có thể hiểu nội dung của bảo vệ rừng là
quá trình bao gồm các hoạt động của con người nhằm bảo toàn, phát triển hệ
sinh thái rừng hiện có, hoạt động bảo vệ thực vật, động vật rừng, đất lâm
nghiệp và các yếu tố tự nhiên khác; phòng chống những tác động gây thiệt hại
đến đa dạng sinh học của rừng, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ mơi trường sinh
thái, tổ chức phịng ngừa và ngăn chặn kịp thời mọi hành vi xâm hại đến quá
trình phát triển của rừng như phá rừng, làm cháy rừng, lấn chiếm đất rừng, đất
lâm nghiệp, khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản; nhập khẩu động vật
rừng, thực vật rừng, săn bắn động vật rừng, chăn thả gia súc vào rừng, kiểm
tra xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật trong lĩnh vực bảo
vệ rừng.
Khái niệm phát triển rừng: Thuật ngữ “phát triển” trong lĩnh vực bảo
vệ và phát triển rừng được nêu trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn thế giới
(công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc
tế - IUCN) với nội dung: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng


15
tới phát triển kinh tế mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội
và sự tác động đến môi trường sinh thái”
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ báo cáo
Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Futur) của Ủy ban Môi trường và
Phát triển Thế giới (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: phát triển là
có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến
những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ trong tương lai…
Ở nước ta thuật ngữ phát triển rừng đã được tiếp cận ở nhiều bình diện

khác nhau, các nhà lâm nghiệp quan niệm về phát triển rừng là nói đến sự che
phủ của rừng bao gồm cả lĩnh vực tăng độ che phủ của rừng về diện tích bằng
các phương pháp trồng rừng trên đất trống đồi núi trọc và các tác động làm
cho q trình khơi phục rừng tự nhiên, các biện pháp kỹ thuật lâm sinh làm
cho rừng tăng về chất lượng (trữ lượng, sản lượng, sự đa dạng sinh học).
Từ nền tảng các quan niệm về phát triển rừng nêu trên, có thể đi đến
khái niệm: Phát triển rừng là việc trồng rừng mới, trồng lại rừng sau khi khai
thác, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh phục hồi rừng, cải tạo rừng nghèo và việc
áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh khác để tăng diện tích rừng, nâng
cao giá trị đa dạng sinh học, khả năng cung cấp lâm sản, khả năng phòng hộ
và giá trị rừng.
Pháp luật bảo vệ và phát triển rừng là tổng hợp các quy phạm pháp luật
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành được thể hiện trong các văn
bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện Hiến pháp, Luật và các văn bản dưới
luật, trong đó Luật Bảo vệ và phát triển rừng là trung tâm điều chỉnh các quan
hệ xã hội liên quan đến quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng; quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng.
Thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng nhằm tạo ý thức pháp
luật cho các tổ chức cá nhân thực hiện một cách nghiêm chỉnh đầy đủ các quy


16
định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng, góp phần nâng cao hiệu quả của
công tác bảo vệ và phát triển rừng, nâng cao lợi ích giá trị kinh tế của rừng,
bảo vệ và phát triển rừng là hoạt động có quan hệ hữu cơ với nhau trong bảo
vệ là có sự phát triển của rừng, để phát triển rừng thì cần có sự bảo vệ rừng.
Từ khái niệm về thực hiện pháp luật, khái niệm bảo vệ rừng, khái niệm
về phát triển rừng có thể đi đến khái niệm về thực hiện pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng là q trình hoạt động có mục đích của các chủ thể được quy
định trong pháp luật bảo vệ và phát triển rừng, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt

động thực tế của các chủ thể đó, làm cho những quy định của pháp luật bảo
vệ và phát triển rừng trở thành hiện thực trong cuộc sống.
1.1.2.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng
Theo quy định của pháp luật thì rừng được chia làm 3 loại theo chức năng
và công dụng, bao gồm: Rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất. Vì vậy,
thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng phải áp dụng những cơ chế, chính
sách, các quy định của pháp luật khác nhau phù hợp với mục đích yêu cầu của
từng loại rừng.
Cũng như các hình thức thực hiện pháp luật khác, thực hiện pháp luật
về bảo vệ và phát triển rừng cũng có những đặc điểm riêng được thể hiện cụ thể
như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng đa
dạng và phong phú
Pháp luật mang tính bắt buộc chung địi hỏi mọi tổ chức, cá nhân trong
xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Vì vậy, thực hiện pháp luật có thể là
hành vi của mỗi cá nhân nhưng cũng có thể là hành vi của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội…Nói đến chủ thể thực hiện pháp luật là nói đến cá
nhân, hoặc tổ chức mà theo quy định của pháp luật có khả năng các quyền và


17
nghĩa vụ pháp lý, trực tiếp hoặc thông qua người đại diện thực hiện các quyền
và nghĩa vụ pháp lý đó, các chủ thể thực hiện pháp luật phải có năng lực chủ
thể và chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Chủ thể thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng bao gồm các cơ
quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân. Các chủ thể này thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau, mỗi một chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau.
Trong các chủ thể nói trên, đáng chú ý một chủ thể là những người dân
sống gần rừng, đa số họ có trình độ dân trí thấp, đời sống rất khó khăn, phụ

thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên của rừng và một bộ phận dân cư rất
đông là đồng bào dân tộc sống chủ yếu dựa vào khai thác lâm sản và cuộc
sống sinh hoạt đồng bào thường gắn với truyền thống văn hóa, hương ước,
luật tục. Mặt khác, hầu hết diện tích diện tích rừng phân bố ở những vùng sâu,
vùng núi, địa bàn rừng rất rộng lớn, giao thông đi lại rất khó khăn, là nơi cư
trú chủ yếu của các cộng đồng dân cư thơn bản, người dân ít được tiếp cận
các thơng tin văn hóa xã hội.
Trong đời sống kinh tế - xã hội các quy định của pháp luật thường được
các chủ thể pháp luật phải nghiêm chỉnh thực hiện. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn có các chủ thể bất chấp các quy
định của pháp luật dẫn đến sự vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật là hành
vi của cá nhân hoặc tổ chức cụ thể, được thể hiện dưới dạng hành động hay
không hành động. Thông qua những hành động hay không hành động cụ thể
mới bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật là hành vi trái luật,
có lỗi do chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện xâm phạm đến
các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Vậy một khi chủ thể pháp luật có hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ có
các hình thức xử lý tương ứng với mọi hành vi của các chủ thể và các quá


18
trình xử lý ấy sẽ được giao cho một cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền để
thực hiện quyền lực nhà nước, thay mặt nhà nước để xử lý.
Các chế tài hiện hành để áp dụng cho các chủ thể vi phạm pháp luật
liên quan đến bảo vệ và phát triển rừng đó là xử phạt về hành chính và xử lý
về hình sự.
Áp dụng pháp luật này là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền
lực nhà nước, được thể hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
cá nhân hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt
hóa những quy phạm pháp luật BV&PTR.

Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật bảo vệ
và phát triển rừng là:
Lực lượng kiểm lâm là cơ quan chuyên trách có chức năng bảo vệ rừng,
giúp Nhà nước bảo vệ rừng, đảm bảo chấp hành pháp luật BV&PTR. Tùy
theo mức độ vi phạm mà Cục trưởng Cục Kiểm lâm, Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm lâm cấp tỉnh, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm cấp huyện và Trạm trưởng ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban
nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã cũng có thẩm quyền áp dụng
hình thức xử lý theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó cịn có các cơ quan
chức năng khác như công an, quân đội, hải quan, thuế, quản lý thị trường, tòa
án nhân dân các cấp.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng là tổng hợp
các biện pháp tác động có mục đích trên cơ sở pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng để thực tiễn hoá các quy định pháp luật vào thực tiễn.
Nếu các quy định về bảo vệ và phát triển rừng được ban hành thành văn
bản quy phạm pháp luật thì mới chỉ là hình thức pháp luật. Giá trị thật của
pháp luật và vai trò của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng chỉ có thể phát
huy khi nó được tổ chức thực hiện trong thực tiễn và được các chủ thể có
quyền và nghĩa vụ thực hiện một cách nghiêm minh và tự giác.


19
Thứ ba, thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
bao gồm nhiều hình thức thực hiện đa dạng và phong phú trên
cơ sở quy định của pháp luật.
Các hình thức thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng bao
gồm cả 4 hình thức: tuân thủ pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, chấp
hành pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, sử dụng pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng và áp dụng pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng; mỗi
hình thức thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng đều có đặc

điểm riêng, yêu cầu riêng đòi hỏi các chủ thể khi tiến hành triển khai thực
hiện phải hết sức chú ý về nội dung, trình tự, thủ tục tương ứng với các
chủ thể.
1.1.3. Các hình thức thực hiện pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng
1.1.3.1. Tuân thủ pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
Tuân thủ pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng là một hình thức thực
hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật tự kiềm chế mình để khơng
thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm, sự kiềm chế đó được hiểu là các
cơ quan, tổ chức, cá nhân, căn cứ vào những quy định của pháp luật không
được thực hiện các hành vi làm xâm hại đến rừng, những quy định này được
thể hiện tại Điều 40, 41, 42, 43, 44 của Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm
2004; các hành vi mà pháp luật ngăn cấm như: Chặt phá, khai thác rừng trái
phép; săn bắn, bẫy, nuôi nhốt, giết mổ động vật rừng trái phép; thu thập vật
mẫu trái phép trong rừng; hủy hoại trái phép tài nguyên rừng, hệ sinh thái
rừng; vi phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng; vi phạm các quy
định về phòng trừ sinh vật hại rừng; lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng
rừng trái phép; khai thác các cảnh quan, môi trường và các dịch vụ lâm
nghiệp; vận chuyển, chế biến, quảng cáo, kinh doanh, sử dụng, tiêu thụ, tàng


20
trữ, xuất khẩu, nhập khẩu thực vật rừng, động vật rừng trái quy định của pháp
luật; khai thác trái phép tài nguyên sinh vật, tài nguyên khoáng sản và các tài
nguyên làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên, diễn biến tự nhiên của rừng; việc
giao rừng, cho thuê rừng trái mục đích.
Ngồi các quy định trên, tại Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 29/9/2009
của Chính phủ, Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính
phủ quy định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong quản lý rừng, bảo vệ và
quản lý lâm sản. Bên cạnh các quy định trên, theo Điều 175, Điều 176 của Bộ

luật Hình sự năm 1999 các hành vi hủy hoại đến cây rừng; các hành vi vi
phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã, quý hiếm và các hành vi vi
phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn thiên nhiên. Nếu chủ thể vi
phạm các quy định trên đều bị xử lý hình sự.
Vậy một khi các chủ thể thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển
rừng ln kiềm chế hành vi của mình khơng vi phạm các quy định trên, q
trình đó gọi là tn thủ pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng .
1.1.3.2. Chấp hành pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
Là hình thức thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng trong đó
các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng những hoạt động tích cực.
Khác với hình thức tuân thủ, hình thức chấp hành pháp luật đòi hỏi chủ thể
phải thực hiện trách nhiệm pháp lý một cách tích cực. Ở đây, chủ thể cần phải
thực hiện hành động tích cực, cụ thể, khơng giới hạn ở chỗ khơng hành động
gì cả. Chủ thể của hình thức này là cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và
mọi công dân. Nghĩa vụ này mang tính tự giác, mang tính tích cực. Theo Điều
36 Luật Bảo vệ và phát triển rừng thì "tổ chức, cá nhân hoạt động trong rừng,
ven rừng có nghĩa vụ thực hiện các quy định về bảo vệ rừng; thông báo kịp
thời cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chủ rừng về cháy rừng, sinh
vật gây hại rừng”.


21
Vậy theo quy định nêu trên một khi có cháy, phá rừng xảy ra, hoặc các
sinh vật gây hại cho rừng, hành vi tích cực của cá nhân, tổ chức kịp thời báo
cho cơ quan có thẩm quyền hoặc chủ rừng được coi là chấp hành pháp luật về
bảo vệ vả phát triển rừng.
1.1.3.3. Sử dụng pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
Là hình thực thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực
hiện quyền chủ thể của mình, nghĩa là thực hiện những hành vi mà pháp luật
cho phép. Khác với hai hình thức trên, chủ thể thực hiện nghĩa vụ phải thực

hiện các quy định của pháp luật một cách thụ động hay tích cực thì hình thức
này chủ thể sẽ thực hiện những quyền của mình.
Sử dụng pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng là hình thức thực hiện
pháp luật mà chủ thể bảo vệ và phát triển rừng có quyền thực hiện quyền
năng của mình. Trong hình thức này chủ thể pháp luật có thể thực hiện
quyền của mình hoặc khơng thực hiện quyền của mình mà khơng bị ép
buộc. Các quyền của chủ thể bảo vệ rừng và phát triển rừng được quy định
tại Điều 29, 30, 31, 70 Luật Bảo vệ và phát triển rừng; khi cá nhân, tổ chức
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, giao rừng chủ rừng có
quyền kết hợp nghiên cứu khoa học, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du
lịch mơi trường, có quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền
sử dụng rừng. Vậy một khi các chủ rừng đã được nhà nước giao đất giao
rừng thì tùy theo điều kiện, khả năng của mình có quyền thực hiện hoặc
không thực hiện các quyền nêu trên hoặc chủ rừng có quyền khiếu nại, tố
cáo các hành vi của các tổ chức, cá nhân khác xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của mình liên quan đến sử dụng và bảo vệ rừng.
1.1.3.4. Áp dụng pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thơng qua các
cơ quan nhà nước hoặc cá nhân được nhà nước trao quyền tổ chức thực hiện


22
pháp luật, thông qua các quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó sẽ làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Chẳng hạn như theo quy định tại Điều 6 Luật Bảo vệ và phát triển rừng
thì nhà nước thống nhất quản lý, định đoạt đối với rừng tự nhiên, rừng trồng
bằng vốn của nhà nước; tại Điều 7, 13, 18 của Luật Bảo vệ và phát triển rừng
chỉ tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền trong quá trình quản lý rừng
mới có các quyền năng ra các quyết định pháp lý, ra các quyết định xử phạt
đối với các hành vi vi phạm luật về bảo vệ và phát triển rừng đó gọi là áp

dụng pháp luật.
Vậy áp dụng pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng là hoạt động có tổ
chức, mang tính quyền lực nhà nước của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được
nhà nước trao quyền, nhằm thực hiện các quy định của pháp luật liên quan
đến bảo vệ và phát triển rừng .
Hoạt động áp dụng pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng khác với hoạt
động tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật ở chỗ nếu
như ba hình thức trên đều phát sinh các quyền, nghĩa vụ liên quan từ cả hai
phía thì hoạt động áp dụng pháp luật ln phải có sự tham gia của Nhà nước.
Hoạt động áp dụng pháp luật bảo vệ và phát triển rừng chỉ được thực
hiện trong các trường hợp sau:
- Khi cần có sự can thiệp của Nhà nước đối với các chủ thể khi có
hành vi xâm phạm đến các quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng
nghiêm cấm;
- Khi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện pháp luật về bảo
vệ và phát triển rừng không tự nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của
Nhà nước;


23
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể
thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng mà các bên tham gia vào
quan hệ pháp luật không thể tự giải quyết được;
Trong một số trường hợp mà Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để
kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc Nhà nước
xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của quan hệ đó.
1.2. VAI TRỊ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG

1.2.1. Thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng góp phần
nâng cao ý thức, trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ và phát

triển rừng
Có thể khẳng định rằng ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã
hội, nó được biểu hiện qua mối quan hệ của con người với pháp luật và các
hiện tượng pháp luật. Ý thức pháp luật ln giữ một vai trị đặc biệt quan
trọng trong việc áp dụng pháp luật, ý thức pháp luật nó thúc đẩy q trình
thực hiện pháp luật trong xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc nâng cao vai trò của
pháp luật để quản lý mọi mặt của đời sống xã hội được đặt ra như một tất yếu
khách quan.
Quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự đòi hỏi phát tích cực hơn nữa
trong việc đưa pháp luật vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp
luật; đồng thời, xã hội hóa tri thức, nâng cao trình độ đội ngũ dân trí, sẽ tạo
cho cơng dân có sự am hiểu pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, qua đó các
hành vi xâm phạm các quy định của pháp luật về rừng của công dân được hạn
chế, bởi vì thơng qua q trình nhận thức của con người về pháp luật nó sẽ
hình thành nên được hành vi xử sự của con người ở dạng hành động hoặc
không hành động. Ý thức pháp luật đồng thời còn bao gồm cả những yếu tố


24
tâm lý xã hội như cảm giác, tình cảm, quan niệm, thể hiện những mối quan hệ
cụ thể của con người đối với quy phạm pháp luật, đối với các quyền và nghĩa
vụ. Ý thức pháp luật nó cịn có chức năng định hướng cho hành vi của con
người xử sự cho phù hợp với các quy định của pháp luật.
Tóm lại, để pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh trong cuộc
sống thì nó phụ thuộc vào ý thức pháp luật của các cá nhân và tổ chức trong
việc tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật, thi hành pháp luật, áp dụng pháp
luật. Vì vậy, quá trình thực hiện pháp luật sẽ góp phần giáo dục tình cảm và
quan niệm đúng đắn về pháp luật, thực hiện pháp luật sẽ có ý nghĩa trong việc

làm cho mọi người quan tâm đến pháp luật, xây dựng động cơ đúng đắn trong
thực hiện pháp luật và tích cực đấu tranh chống vi phạm pháp luật. Một khi ý
thức về Luật Bảo vệ và phát triển rừng của các tổ chức, cá nhân trong xã hội
nhận thức đầy đủ và mọi người nhận thức được tầm quan trọng của rừng đối
với xã hội và từ đó họ sẽ nâng cao trách nhiệm của mình trong việc ngăn chặn
các hành vi vi phạm pháp luật về rừng.
1.2.2. Thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng góp phần
bảo vệ môi trường sống, cân bằng sinh thái, giảm thiểu biến đổi khí hậu,
bảo đảm phát triển kinh tế xã hội
Trong giai đoạn hiện nay, nhân loại đang đứng trước thảm hỏa về biến
đổi khí hậu, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do con
người khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên và các khí thải cơng
nghiệp, đây cũng chính là ngun nhân làm cho trái đất nóng lên, làm cho
nước biển dâng lên ngập đất liền của một số quốc gia ven biển, gây ra hậu quả
nghiêm trọng ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế và xã hội.
Rừng có vai trị quan trọng đối với mơi trường sống của con người.
Rừng có tác dụng điều hòa lượng nước trên mặt đất, rừng là lá phổi xanh của
trái đất, rừng góp phần to lớn vào việc hình thành và bảo vệ mặt đất, chống


25
xói mịn, rừng cịn cung cấp các lâm sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời
sống của con người như rừng cung cấp gỗ cho công nghiệp, cho xây dựng và
dân sinh, nguyên liệu làm giấy, các dược liệu quý có tác dụng chữa bệnh và
nâng cao sức khỏe của con người. Với tầm quan trọng của rừng như trên
nhưng quá trình thực hiện pháp luật ở các nước nói chung và Việt Nam nói
riêng cùng với tốc độ gia tăng dân số, khí thải cơng nghiệp ngày càng nhiều,
việc khai thác các giá trị của rừng quá mức, trong khi đó q trình tái tạo tài
ngun rừng chưa đáp ứng nhu cầu so với việc khai thác dẫn đến hàng năm
diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sinh

thái, diễn biến thiên tai lũ lụt xảy ra hàng năm trên thế giới và Việt Nam ngày
càng phức tạp đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của con người, hậu quả của
việc phá rừng sẽ làm mất cân bằng sinh thái.
Cho nên, thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng nghiêm minh
sẽ làm hạn chế được tình trạng phá rừng, khai thác lâm sản trái phép như hiện
nay, lúc đó rừng mới được bảo tồn và phát triển. Có như vậy mới cân bằng
được sinh thái, giảm thiểu sự biến đổi khí hậu như hiện nay, góp phần bảo
đảm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2.3. Thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng góp phần
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan
hệ xã hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và
được thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Pháp chế là một chế độ và trật tự pháp luật trong đó tất cả các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và
thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác, pháp chế
và pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không đồng nhất. Pháp
chế là một phạm trù thể hiện sự đòi hỏi và yêu cầu đối với các chủ thể pháp


×