Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

Giá trị sản phẩm khoa học nội sinh ở học viện chính trị quốc gia hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (918.64 KB, 137 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng gần đây đã đề ra hàng loạt nhiệm vụ cho
lĩnh vực văn hóa, hướng vào các mục tiêu xây dựng con người mới, xây dựng lối
sống mới và xây dựng nền văn hóa mới đậm đà bản sắc dân tộc, mang nội dung
nhân văn, dân chủ và tiến bộ. Một trong những nhiệm vụ đó là tổ chức các hoạt
động sản xuất (sáng tạo) trong lĩnh vực văn hóa bao gồm cả việc nghiên cứu
khoa học tạo ra những sản phẩm văn hóa, những cơng trình nghệ thuật, những
phát minh khoa học làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống con người; tổ chức sưu
tầm và bảo quản tốt vốn di sản văn hóa của dân tộc... Tất cả những lực lượng lao
động (bao gồm những người sáng tạo, nghiên cứu, những người bảo quản và phổ
biến các giá trị văn hóa) và những thiết chế (hội sáng tạo, viện nghiên cứu, nhà
trường, các bảo tàng, thư viện, các cơ quan xuất bản, phát thanh, nhà hát, rạp
chiếu bóng…) tạo nên nguồn lực của một nền văn hóa. Do đó, một chính sách
văn hóa đúng đắn địi hỏi phải có sự quan tâm đầy đủ đến các lực lượng trên các
lĩnh vực nghiên cứu, sáng tạo, bảo quản và phổ biến các giá trị văn hóa, quan
tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các hoạt động văn hóa.
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện
CTQG Hồ Chí Minh) là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
quản lý trung, cao cấp, cơng chức hành chính, viên chức quản lý các đơn vị sự
nghiệp và doanh nghiệp, cán bộ khoa học chính trị và hành chính của hệ thống
chính trị; trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
các khoa học chính trị và khoa học hành chính. Theo Quyết định số 100-QĐ/TW
ngày 22 tháng 10 năm 2007 của Ban Chấp hành Trung ương về chức năng,
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Học viện là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng
và Chính phủ, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban



2
Bí thư và Thủ tướng chính phủ [4]. Ngày 06/01/2014, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng ra Quyết định số 224-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy của Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Theo Quyết định này, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh phân tách ra thành Học viện CTQG Hồ
Chí Minh và Học viện Hành chính. Quyết định này một lần nữa khẳng định:
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là cơ quan trực thuộc Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ; đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo trực tiếp thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung cao cấp, cán bộ khoa học lý luận
chính trị của hệ thống chính trị, trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa
học lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các khoa học chính trị, các khoa
học lãnh đạo, quản lý [5].
Nhiệm vụ trọng tâm của Học viện CTQG Hồ Chí Minh là đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; Nghiên cứu
khoa học trong đó tập trung nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghiên cứu
biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới,
nghiên cứu biên soạn, chỉnh lý các giáo trình, tài liệu học tập cho các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng học viên; tham mưu, cung cấp, đề xuất cơ sở lý luận và
thực tiễn cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối xây dựng và
phát triển đất nước, đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị... [5].
Trong những năm gần đây, Học viện CTQG Hồ Chí Minh (gọi tắt là Học
viện) đang tích cực triển khai thực hiện Quyết định số 80, Quyết định số 435,
Quyết định số 685 của Giám đốc Học viện và Nghị quyết số 52 của Bộ Chính trị
về đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ và nghiên cứu khoa học ở Học viện; tích cực xây dựng và tổ chức thực hiện



3
các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơ bản đáp ứng yêu cầu để bố trí, bổ
nhiệm, đề bạt cán bộ theo quy định. Với chức năng nghiên cứu, đào tạo và giảng
dạy, hàng năm, Học viện cũng sản sinh ra một khối lượng các cơng trình khoa
học tương đối lớn đó chính là những sản phẩm khoa học gồm các đề tài nghiên
cứu khoa học, các luận văn, luận án, các tài liệu hội nghị, hội thảo, các giáo trình
- tập bài giảng, các sách tham khảo... Đây cũng chính là nguồn sản phẩm khoa
học nội sinh vô cùng phong phú và đa dạng phản ánh chất lượng cũng như tiềm
lực đào tạo và nghiên cứu khoa học của Học viện. Và đây cũng là một trong
những bộ sưu tập của Thư viện Học viện - một thiết chế văn hóa - thu nhận, bổ
sung cùng với các loại sách, báo, tạp chí khác nhằm xây dựng nguồn lực thông
tin đầy đủ, kịp thời đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu và giảng dạy ngày càng
cao của Học viện.
Cùng với những hệ đào tạo và những yêu cầu nghiên cứu khoa học khác
nhau, Học viện đã tạo ra một khối lượng các sản phẩm khoa học tương đối lớn
và chất lượng. Bên cạnh giá trị trong nghiên cứu, đào tạo, tổng kết thực tiễn nó
cịn mang giá trị lịch sử, ở góc độ nào đó nó cịn là “di sản văn hóa”. Sản phẩm
khoa học nội sinh ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh cịn có nét đặc thù riêng, đó
là kết quả của những cơng trình nghiên cứu lý luận, đặc biệt là lý luận MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguồn sản phẩm khoa học nội sinh này được
phổ biến và khai thác khá rộng rãi và đây cũng là một trong những nguồn tin mà
bạn đọc tiếp cận nhiều hơn cả. Tuy nhiên, trên thực tế, việc tổ chức, thu nhận,
sưu tầm sản phẩm nội sinh của Học viện còn thụ động, cục bộ trong phạm vi của
từng đơn vị hoặc một vài đơn vị. Có những sản phẩm khoa học do Học viện, các
viện nghiên cứu, đào tạo trong Học viện thực hiện và phát hành nhưng khó có
thể tìm kiếm sản phẩm ấy tại chính phịng lưu trữ của đơn vị đó hoặc tại Thư
viện của Học viện... Có những sản phẩm khoa học như luận văn cử nhân, luận
văn thạc sỹ, đề tài nghiên cứu... nộp tại Vụ Quản lý Đào tạo, Vụ Quản lý Khoa
học của Học viện một thời gian sau mới được chuyển về Thư viện. Trong thời



4
gian đó, các tài liệu trên có thể được cho mượn hoặc bị mất, như vậy việc thu
nhận nguồn tài liệu này là không được đầy đủ đồng thời việc truyền đạt những
giá trị của sản phẩm khoa học tới cán bộ, học viên bị chậm, khiến cho việc tiếp
cận tới thành quả nghiên cứu của những sản phẩm khoa học đó bị hạn chế đơi
khi gây ảnh hưởng tới dự kiến, ý tưởng nghiên cứu khoa học tiếp theo... Có
những sản phẩm khoa học vẫn có giá trị trong nghiên cứu và đào tạo nhưng bị
lãng quên, bỏ phí vì bản in xấu (In rơnêơ trên giấy bản đen) hoặc vì khơng
nhận ra được chân giá trị của sản phẩm (vì những tưởng sản phẩm đó được
xuất bản từ lâu, khơng cịn giá trị sử dụng)... Ở một phương diện khác, đó
chính là thái độ ứng xử đối với nguồn sản phẩm khoa học nội sinh: chủ thể
sáng tạo (có thể là cá nhân hoặc một nhóm người, một cơ quan, đơn vị...) ra
sản phẩm khoa học chưa ý thức hết được đến việc lưu giữ và phổ biến (xã hội
hóa) cơng trình nghiên cứu khoa học của mình trong cơ quan, đơn vị, với
đồng nghiệp và thế hệ sau; chủ thể quản lý (có thể là cá nhân hoặc một nhóm
người, một cơ quan, đơn vị...) chưa có cơ chế, chính sách hợp lý, đầy đủ trong
việc thu nhận, bảo quản sản phẩm khoa học; chủ thể thưởng thức, thụ hưởng
tùy tiện sử dụng những thành quả của cơng trình nghiên cứu... Bên cạnh đó,
Thư viện Học viện - một trong những thiết chế văn hóa xã hội chưa có được
sự quan tâm đúng mức và sự đầu tư đồng bộ để có thể phát huy hết được chức
năng và nhiệm vụ của nó. Đặc biệt, Học viện chưa có một quy định cụ thể nào
trong việc tổ chức, bảo quản, và xã hội hóa nguồn sản phẩm khoa học nội sinh
mang tính tồn diện, bao qt tồn Học viện (chưa nói đến trong tồn hệ
thống Học viện); chưa có cơ chế về cơng nghệ số hóa để quản lý và phát triển
nguồn tài liệu quan trọng và quý giá, hay nói một cách khác là chưa có chế tài
riêng cho vấn đề này.
Với các lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Giá trị sản phẩm khoa học
nội sinh ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp
hệ cao học chuyên ngành văn hóa học tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh.



5
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về sự phát triển nguồn
sản phẩm khoa học như một nguồn thông tin nội sinh của các Trung tâm
Thông tin, Thư viện; trong các trường Đại học, Học viện chuyên ngành khác;
nghiên cứu về chính sách xây dựng và phát triển nguồn tài liệu trên cùng với
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động Thư viện,... Mấy năm gần đây,
nguồn SPKHNS, cách gọi khác là nguồn thông tin nội sinh được bàn đến
nhiều hơn và sâu hơn. Các hướng tiếp cận nghiên cứu về SPKHNS liên quan
đến đề tài luận văn bao gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu về lý luận, phương pháp luận và thực trạng trong
nghiên cứu và quản lý sản phẩm khoa học nội sinh trong các trường học, đơn
vị nghiên cứu khoa học có các cơng trình sau: sách chuyên khảo “Phương
pháp luận nghiên cứu khoa học và thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học” của
PGS.TS.Nguyễn Duy Bảo (2007); “Chảy máu chất xám từ lý luận đến thực
tiễn ở Việt Nam hiện nay” của Phạm Ngọc Dũng (2012); “Một số vấn đề về
công tác đào tạo và quản lý đào tạo - Thực tiễn và kinh nghiệm” của Vụ
Quản lý đào tạo thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
(2009); “Mười năm hoạt động quản lý khoa học (1989-1999” của Vụ Quản lý
khoa học thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh (1999); “Góp phần quản lý
hoạt động nghiên cứu lý luận” của PGS.TS.Trần Xuân Sầm (2001); “Đội ngũ
trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới” của
TS.Ngô Thị Phượng (2007); Đề tài cấp bộ năm 2006 “Tổng kết thực tiễn đối
với sự phát triển lý luận ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh” do TS.Mai Thế
Hởn làm chủ nhiệm, Vụ Quản lý khoa học thuộc Học viện CTQG Hồ Chí
Minh chủ trì (2007); Đề tài khoa học cấp cơ sở “Phát triển nguồn lực Thư
viện Học viện CTQG Hồ Chí Minh” do Phịng Thư viện, Trung tâm Thơng tin
khoa học chủ trì (2007); Phan Thị Thương (2003), Tìm hiểu hoạt động tin học

hóa ở thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khóa luận tốt


6
nghiệp Thông tin - Thư viện, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội; Đề tài
cấp cơ sở “Xây dựng bộ sưu tập số các đề tài khoa học cấp bộ và một số đề
tài cấp cơ sở năm 2008 của Học viện phục vụ công tác nghiên cứu và đào tạo
ở Trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh” do
Trung tâm Thơng tin khoa học chủ trì (2009).
Các cơng trình trên đã khảo sát, đánh giá về đội ngũ trí thức - những
chủ thể sáng tạo ra những sản phẩm khoa học; về hoạt động nghiên cứu lý
luận và phương thức quản lý hoạt động nghiên cứu lý luận; đánh giá thực
trạng hoạt động của thư viện - thiết chế văn hóa xã hội với những nguồn lực
của nó; khảo sát nhu cầu tin của người dùng tin; bước đầu đề cập đến việc
ứng dụng cơng nghệ số hóa để quản lý các sản phẩm khoa học nội sinh ở
Trung tâm Học viện.
Thứ hai, nghiên cứu sản phẩm khoa học như là một nguồn thông tin nội
sinh trong các trường Đại học, Học viện chuyên ngành, đơn vị nghiên cứu,
các cơ quan thơng tin thư viện có các cơng trình sau: “Vai trò của nguồn học
liệu tại các trường Đại học/Học viện” của Thu Minh đăng trên Tạp chí Thơng
tin tư liệu (2007); “Nguồn tin nội sinh phục vụ nhiệm vụ đào tạo và nghiên
cứu khoa học của trường Đại học Sư phạm Hà Nội” của Nguyễn Thị Minh
Ngọc (2009); “Một số vấn đề xung quanh việc thu thập khai thác tài liệu
xám” của Nguyễn Viết Nghĩa (1999) đăng trên Tạp chí Thông tin và Tư liệu;
“Nguồn tin nội sinh của trường đại học - Thực trạng và giải pháp phát triển”
của Trần Mạnh Tuấn đăng trên Tạp chí Thơng tin và Tư liệu (2005); “Về vấn
đề quản lý, khai thác nguồn tin khoa học nội sinh” của Trần Mạnh Tuấn
(2005); Luận văn “Tổ chức quản lý và khai thác nguồn lực thơng tin ở Học
viện Chính trị qn sự” của Nguyễn Đức Hào (2004); Luận văn “Xây dựng
và phát triển nguồn lực thông tin tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á trong xu

thế hội nhập khu vực” của Nguyễn Thị Đức Hạnh (2004); Luận văn “Thu
thập, quản lý, phổ biến và khai thác nguồn thông tin nội sinh tại Thư viện
trường Đại học Cơng đồn” của Bùi Thị Minh Tâm (2006).


7
Các cơng trình này nhìn nhận SPKHNS là một nguồn lực của trung tâm
thông tin - thư viện, là nguồn thơng tin q giá, góp phần đắc lực trong cơng
tác đào tạo và nghiên cứu ở các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu;
khảo sát, phân tích thực trạng tổ chức, quản lý và khai thác nguồn SPKHNS ở
các đơn vị trên.
Nhìn chung các cơng trình trên có đề cập đến tính chất, nội dung, vai
trị của sản phẩm khoa học, SPKHNS nhưng chủ yếu tập trung tại các trường
đại học và học viện chuyên ngành, đánh giá hoạt động của một số thư viện;
đơn thuần tìm hiểu nhu cầu tin của bạn đọc cũng như hoạt động nghiên cứu lý
luận ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Trên thực tế, chưa có một cơng trình
nào nghiên cứu đầy đủ về quá trình hình thành các SPKHNS ở Học viện
CTQG Hồ Chí Minh theo quy trình sản xuất (sáng tạo), bảo quản và phân
phối (xã hội hóa) các giá trị tinh thần.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về giá trị SPKHNS,
luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng nghiên cứu, quản lý và xã hội hóa các
SPKHNS ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm xác lập cơ chế (chế tài) để quản lý và xã hội hóa nguồn SPKHNS này ở
Học viện và Thư viện Học viện một cách có hiệu quả.
Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn
tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về giá trị, giá trị SPKHNS.
- Phân tích đặc thù của SPKHNS ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh và
giá trị của nó trong hoạt động nghiên cứu, đào tạo ở Học viện.

- Đánh giá thực trạng q trình quản lý và xã hội hóa nguồn SPKHNS ở
Học viện CTQG Hồ Chí Minh
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả quản lý và sử dụng SPKHNS ở Học viện.


8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nguồn SPKHNS được sáng tạo,
quản lý và khai thác ở Trung tâm Học viện CTQG Hồ Chí Minh. SPKHNS là
kết quả của quá trình sản xuất tinh thần, việc khai thác giá trị của SPKHNS
diễn ra theo một quy trình từ khâu sáng tạo đến bảo quản (thu nhận, quản lý)
đến phân phối, lưu thơng (phổ biến, xã hội hóa) và thụ hưởng (khai thác) các
giá trị mà nó mang lại. Chính vì vậy, khi đánh giá thực trạng sáng tạo, quản lý
và phổ biến SPKHNS trong nghiên cứu và đào tạo ở Trung tâm Học viện,
chúng tôi tiếp cận vấn đề trên 4 phương diện: Thứ nhất là hoạt động sáng tạo
SPKHNS; Thứ hai là quá trình thu nhận, bổ sung SPKHNS; Thứ ba là quá
trình xử lý, phổ biến và khai thác các SPKHNS; Thứ tư là người thụ hưởng
giá trị SPKHNS.
Phạm vi nghiên cứu: Về không gian, luận văn nghiên cứu vấn đề tập
trung tại một số Vụ chức năng, viện nghiên cứu và Thư viện thuộc Trung tâm
Thông tin khoa học (nay là Viện Thông tin khoa học) ở Trung tâm Học viện
CTQG Hồ Chí Minh. Về thời gian: khái quát theo quá trình phát triển của Học
viện, luận văn đi sâu vào vấn đề trong năm năm trở lại đây (từ 2008 đến 2013)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận: Luận văn vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển
văn hóa, giáo dục và đào tạo.
Ngoài ra, luận văn kế thừa một cách có chọn lọc và vận dụng sáng tạo
các cơng trình khoa học của các tác giả đi trước khi nghiên cứu về SPKHNS.
Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện

chứng và phương pháp duy vật lịch sử như là cơ sở phương pháp luận của
tồn bộ q trình nghiên cứu. Bên cạnh đó, luận văn sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu khoa học liên ngành giữa văn hóa học - xã hội học - thơng
tin học, phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo sát… để tiếp cận và giải quyết
những yêu cầu đặt ra của đề tài.


9
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của SPKHNS
đối với hoạt động nghiên cứu và đào tạo ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
- Luận văn làm rõ thực trạng quản lý, xã hội hóa nguồn SPKHNS ở
Trung tâm Học viện CTQG Hồ Chí Minh, chỉ ra nguyên nhân và thực trạng
nói trên.
- Luận văn đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hồn thiện cơ chế
quản lý và xã hội hóa nguồn SPKHNS ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Hệ thống các vấn đề lý luận về giá trị SPKHNS và góp
phần làm rõ vai trị của SPKHNS trong việc nâng cao chất lượng nghiên cứu
và đào tạo ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
Về mặt thực tiễn: Đánh giá một cách khách quan thực trạng quản lý và
xã hội hóa SPKHNS ở Trung tâm Học viện CTQG Hồ Chí Minh, đưa ra
những giải pháp phù hợp nhằm phát huy vai trị của SPKHNS trong cơng tác
nghiên cứu, đào tạo ở Học viện.
Kết quả đạt được trong luận văn sẽ có thể được sử dụng làm tài liệu
phục vụ cho nghiên cứu giảng dạy chuyên ngành Văn hóa học, tài liệu tham
khảo cho các đơn vị chức năng và ở Thư viện, Viện Thông tin khoa học trong
việc quản lý, xã hội hóa SPKHNS.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 10 tiết.


10
Chương 1
GIÁ TRỊ SẢN PHẨM KHOA HỌC NỘI SINH VÀ VAI TRỊ
CỦA NĨ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO
Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Giá trị
Có nhiều quan niệm khác nhau về giá trị.
Theo Từ điển Triết học: Giá trị là những định nghĩa về mặt xã hội của
các khách thể trong thế giới chung quanh, nhằm nêu bật tác dụng tích cực
hoặc tiêu cực của các khách thể ấy đối với con người và xã hội (lợi, thiện và
ác, cái đẹp và cái xấu nằm trong những hiện tượng của đời sống xã hội hoặc
của tự nhiên). Bên cạnh các giá trị vật thể này là những đối tượng của những
lợi ích hướng vào chúng, người ta còn xếp vào giá trị một số hiện tượng của ý
thức xã hội biểu hiện những lợi ích ấy dưới hình thức quan niệm (các khái
niệm về cái thiện và cái ác, công bằng và bất công, những lý tưởng, những
tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức) [85, tr.206-207].
Từ điển Bách khoa Việt Nam (do Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn),
định nghĩa giá trị dưới 2 góc độ:
- Giá trị là một phạm trù triết học, xã hội học chỉ tính có ích, có ý nghĩa
của những sự vật, hiện tượng tự nhiên hay xã hội có khả năng thỏa mãn nhu
cầu, phục vụ lợi ích của con người. Ở đây, các sự vật, hiện tượng được xem
xét dưới góc độ đáng hay khơng đáng mong muốn, có ý nghĩa tích cực hay
khơng đối với đời sống xã hội. Có thể phân loại giá trị theo nhiều cách khác
nhau. Có những giá trị thiên nhiên mà con người thường xuyên sử dựng và
hưởng thụ; Những giá trị văn hóa do lịch sử tồn thế giới hay của một số nước

tạo; những giá trị vật chất; những giá trị tinh thần ; những giá trị xã hội,
những giá trị nhận thức, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mĩ... Mỗi hình thái kinh
tế - xã hội cụ thể trong lịch sử có một hệ thống và thang bậc giá trị nhất định,
được xã hội ấy cơng nhận và có tác dụng định hướng cho hoạt động của cả xã


11
hội, của từng tập thể hay cá nhân. Việc cá nhân tiếp thu hệ thống giá trị ấy là
điều kiện hình thành nhân cách cá nhân và duy trì kỷ cương xã hội.
- Giá trị là phạm trù kinh tế nói lên thuộc tính của hàng hóa do lao động
hao phí để sản xuất ra hàng hóa (lượng lao động xã hội cần thiết đã được vật
hóa trong hàng hóa) quyết định. Mọi sản phẩm do con người sản xuất ra đều
chứa đựng lao động của con người, nhưng chỉ trong những điều kiện lịch sử
nhất định thì lao động đó mới mang hình thức xã hội của giá trị... [83, tr.97].
Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa: giá trị là “Cái
làm cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó” ( Loại
thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao. Giá trị của một sáng kiến cải tiến kỹ thuật.
Giá trị nghệ thuật. Giá trị tinh thần); Giá trị là “Lao động xã hội của những
người sản xuất hàng hóa kết tinh trong sản phẩm hàng hóa” [86, tr.371].
Tiếp cận dưới góc độ xã hội học văn hóa, giá trị thường ẩn chứa trong ý
thức của mỗi cá nhân và cộng đồng và tác động tới hành vi ứng xử của con
người. Nhà bác học Ba Lan, J. Sêpanski, nguyên Chủ tịch Hội Xã hội học
quốc tế cho rằng giá trị thể hiện ở “bất cứ một đối tượng nào, vật chất hay tinh
thần, đối tượng thực tế hay tưởng tượng, mà đối với nó, cá nhân hay nhóm có
một cách đánh giá nhất định và quy cho nó vai trị quan trọng trong đời sống
của mình và xem sự cố gắng chiếm hữu nó là một tất yếu” [18, tr.58]. Trong
Xã hội học văn hóa, các tác giả đã khẳng định giá trị là một phạm trù lịch sử
do vậy nó ln biến đổi với sự biến đổi của đời sống xã hội. Tuy nhiên những
giá trị cơ bản (giá trị truyền thống, thể hiện bản sắc riêng của mỗi chủ thể) là
khá ổn định và bền vững.

Dưới góc độ văn hóa học, trong phần “Khái luận về văn hóa” in trong
cuốn “Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam” của GS.TSKH.Trần Ngọc
Thêm có bàn:
…“giá trị” là một khái niệm có ngoại diên khá rộng. Giá trị là kết
quả thẩm định dương tính đối tượng trên các thang độ “lợi-hại” (giá
trị sử dụng), “tốt-xấu” (giá trị đạo đức), “đẹp-xấu” (giá trị thẩm mỹ).


12
Giá trị sử dụng có thể được cụ thể hóa bằng các thang độ như giàunghèo (phú), sang-hèn (quý), sống lâu-chết sớm (thọ), khơn-dại
(trí)... Giá trị đạo đức có thể cụ thể hóa bằng các phạm trù như
trung, hiếu, thảo, hiền, nhân, lễ, nghĩa... Giá trị thẩm mỹ có thể cụ
thể hóa bằng các thang độ như đẹp-xấu, hay-dở, thích-chê… Như
thế, không chỉ các đồ vật, sách vở, tác phẩm nghệ thuật mới là giá
trị, mà cả truyền thống, nếp sống, chuẩn mực, tư tưởng, thiết chế xã
hội, biểu trưng, thông tin… đều là giá trị. Không chỉ các sản phẩm
vật chất/tinh thần mới là giá trị, mà cả các hoạt động, cơng nghệ,
quy trình, phương thức, quan hệ… đều có thể xác định như các giá
trị [73, tr.6-7].
Theo Ơng, “Không phải mọi cái do con người sáng tạo ra đều là văn
hóa, mà chỉ có những gì có giá trị mới thuộc về văn hóa” [73, tr.6]. Nói một
cách khác, văn hóa là biểu hiện của phương thức sống của con người là tổng
hịa mọi giá trị người. Nói tới giá trị văn hóa là nói tới thành quả mà một con
người hay rộng hơn là một dân tộc, một quốc gia và hơn nữa là nhân loại đạt
được trong quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và trong sự phát triển bản thân
mình. Nói tới giá trị văn hóa cũng là nói tới thái độ, trách nhiệm và những
quy tắc ứng xử của mỗi người, mỗi cộng động trong quan hệ với thiên nhiên,
xã hội, gia đình và với chính bản thân mình.
1.1.2. Giá trị sản phẩm khoa học
1.1.2.1. Sản xuất tinh thần

Nói đến văn hóa là nói đến con người. Cũng như mọi sinh thể khác
trong vũ trụ, con người là một sản phẩm của giới tự nhiên, chịu sự quy định
chặt chẽ của đại tự nhiên. Nhưng khác với sinh vật khác, con người còn là chủ
thể của một thiên nhiên thứ hai do chính con người tạo ra bằng lao động và tri
thức của mình. Và thiên nhiên thứ hai đó là văn hóa. Con người không thể tồn
tại nếu sống tách rời với giới tự nhiên và con người sẽ không thực sự là con
người nếu tách rời mơi trường văn hóa. Con người tồn tại được là nhờ biết


13
thích ứng và khai thác thiên nhiên quanh mình. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng
Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “… muốn sống thì trước hết cần phải có
ăn, uống, ở, mặc và một vài thứ khác nữa. Vậy thì, hành động lịch sử đầu tiên
là sự sản xuất những tư liệu thỏa mãn các nhu cầu đó, sự sản xuất ra bản thân
đời sống vật chất” [9, tr.29]. Hồ Chí Minh đã từng nói:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, lồi người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng chúng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện
của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời
sống và địi hỏi của sự sinh tồn [48, tr.431]...
Như vậy, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra nhằm thích ứng với sự phát triển của đời sống tự nhiên, đời
sống xã hội của con người. Nhưng con người chỉ thực sự thành người khi
trong nó xuất hiện các nhu cầu về đời sống tinh thần. Nét nghĩa “sản xuất tinh
thần” đã xuất hiện từ rất sớm trong thuật ngữ văn hóa. Trong tiếng Latinh, từ
Cultura (văn hóa) ban đầu có nghĩa là “gieo cấy, vun trồng cây cối” - tức sản
xuất vật chất sau nó được chuyển nghĩa và được hiểu là “vun trồng trí tuệ”

trong câu “Filosofia cultura animiét” (dịch nghĩa: triết học là sự vun trồng trí
tuệ, tức sản xuất tinh thần). Nếu hiểu “sản xuất tinh thần” theo sự phân tích
trên thì đây vẫn là sự suy diễn và ít nhiều mang tính tư biện, chưa luận chứng
một cách chặt chẽ về nội dung nghĩa của nó.
Lần đầu tiên, sản xuất tinh thần hiểu theo nghĩa đích thực của hoạt
động sản xuất được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến trong cuốn Hệ tư
tưởng Đức. Theo hai Ông, đời sống xã hội lồi người chỉ thực sự thốt khỏi
“tính chất động vật” dựa trên sự phát triển của “phân công lao động”. Mặt
khác, “phân công lao động” chỉ thực sự hiện hữu từ khi có sự phân cơng giữa


14
lao động vật chất và lao động tinh thần. Nếu như lao động vật chất là sản xuất
ra các tư liệu sinh hoạt thì lao động tinh thần là “sự sản xuất ra những tư
tưởng, biểu tượng và ý thức”. Khái niệm sản xuất trong thuật ngữ “sản xuất
tinh thần” ở đây được C.Mác và Ph.Ăngghen sử dụng không phải như một ẩn
dụ văn học mà theo ý nghĩa “Kinh tế học” nghiêm ngặt. Trong tác phẩm Hệ
tư tưởng Đức, khi hai ơng nói đến “tư liệu sản xuất vật chất” thì cũng đồng
thời nói đến “tư liệu sản xuất tinh thần”, nói đến “những người sản xuất tư
tưởng”, đến việc “điều tiết sự sản xuất và phân phối tư tưởng”.
Nếu như sản xuất vật chất tạo ra những sản phẩm vật chất, giúp cho con
người tồn tại như một sinh thể, thì sản xuất tinh thần tạo ra những tư tưởng,
biểu tượng, ý thức, làm cho con người tồn tại như một “sinh thể tinh thần”,
tức một sinh thể có văn hóa. Ở đây, chúng ta cần phân biệt: văn hóa thuộc lĩnh
vực sản xuất tinh thần nhưng khơng thể đồng nhất sản xuất tinh thần với văn
hóa. Vì văn hóa cịn là lĩnh vực của giá trị, tức là sản phẩm của nó bao giờ
cũng chứa đựng những giá trị nhân bản phục vụ cho tiến bộ xã hội. Trong nền
sản xuất tinh thần không phải mọi sản phẩm của nó đều có giá trị (hiện tượng
ma thuật, phù thủy…) vì vậy thuật ngữ sản xuất văn hóa được sử dụng thay
cho sản xuất tinh thần. Như vậy, chúng ta có thể hiểu hoạt động văn hóa như

là “Mạng lưới sản xuất, bảo quản và phân phối sản phẩm văn hóa trong xã
hội” [33, tr.266].
Người ta thường chia văn hóa thành hai lĩnh vực: văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần (hay văn hóa vật thể và và văn hóa phi vật thể). Sự phân
chia này là cần thiết để có cái nhìn tồn diện hơn đối với các sản phẩm văn
hóa. Bên cạnh các sản phẩm tinh thần như các tác phẩm văn học nghệ thuật,
những phát minh khoa học, các phong tục tập quán…, văn hóa cịn có các sản
phẩm vật chất như các cơng trình kiến trúc, đồ trang sức… Tuy vậy, sự phân
chia đó chỉ là tương đối. Cái gọi là văn hóa vật chất thực ra là vật thể hóa các
giá trị tinh thần. Bản thân các hình khối kiến trúc đồ sộ cũng như những đồ


15
trang sức sở dĩ có giá trị văn hóa vì chúng thể hiện tài hoa của những nghệ sĩ,
những người lao động và lí tưởng thẩm mỹ mà các nghệ sĩ gửi gắm vào.
Theo Từ điển Tiếng Việt do nhà xuất bản Thanh Hóa ấn hành năm
1998, có hai cách lý giải về sản phẩm: Thứ nhất, đó là cái do lao động của con
người tạo ra như sản phẩm nơng nghiệp; hạ giá thành sản phẩm; sản phẩm
văn hóa. Thứ hai, cái được tạo ra như là một kết quả tự nhiên chẳng hạn giai
cấp công nhân là sản phẩm của nền đại cơng nghiệp [84, tr.1128].
Trong q trình sáng tạo các giá trị vật chất và tinh thần, con người đã
sáng tạo ra các giá trị tinh thần, nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của mình.
Trong cơng trình “Một số nghiên cứu bước đầu về kinh tế học văn hóa”, tác
giả Lê Ngọc Tịng quan niệm:
Sản phẩm văn hóa tinh thần là hình thái quan niệm về văn hóa nghệ
thuật, tư tưởng chính trị, pháp luật, tơn giáo, đạo đức thẩm mỹ do con
người sáng tạo ra trong thực tiễn; sản phẩm tinh thần trong đó tập trung
các giá trị tinh thần có khả năng thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con
người, hướng con người tới những giá trị chân, thiện, mỹ, ích [77, tr.18].
Các cụm từ “sản phẩm tinh thần”,“sản phẩm văn hóa tinh thần” hay

“sản phẩm văn hóa” đều có nội hàm như trên.
1.1.2.2. Sản phẩm văn hóa
Sản phẩm văn hóa (oeuvre culturelle cịn gọi là văn hóa phẩm) là
những vật tượng trưng được sản sinh ra trong một cộng đồng xã hội nào đó, là
kết quả của hoạt động sản xuất tinh thần của con người. Những vật tượng
trưng này thường được thể hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau như dưới
dạng ngôn ngữ viết (văn chương, thi ca, triết học); tín hiệu âm nhạc (nhạc
phẩm); tín hiệu vận động của cơ thể (vũ đạo, trị chơi); tín hiệu đồ họa (nghệ
thuật tạo hình, mỹ nghệ, kiến trúc), tín hiệu hình ảnh (nhiếp ảnh, điện ảnh);
tín hiệu mang tính tổng hợp (vở diễn sân khấu, lễ hội…). Sản phẩm văn hóa
được xem là vật tượng trưng khi nó tự phân biệt với các sản phẩm thông
thường khác bởi những giá trị (các chuẩn mực đạo đức, tơn giáo, chính trị,


16
thẩm mỹ…) mà nó chuyên chở, những giá trị mà cộng đồng xã hội lồi người
đã cấp cho nó [33, tr.263-264].
Sản phẩm văn hóa được sáng tạo trong q trình hoạt động thực tiễn
của con người. Trong q trình đó, do bản chất của sáng tạo văn hóa đã dần
xuất hiện các hình thức sở hữu cá nhân, cộng đồng… trên lĩnh vực văn hóa.
Cùng với những sản phẩm của nền sản xuất tinh thần thể hiện dưới các hoạt
động như diễn xướng dân gian, biểu diễn nghệ thuật, diễn thuyết, dạy học,
chữa bệnh, lễ nghi, hội hè, phong tục, trò chơi,… là sự xuất hiện các phát
minh, sáng chế, các phần mềm, các cơng trình nghiên cứu khoa học, các giáo
trình giáo khoa… Giá trị của sản phẩm văn hóa là do lao động trí tuệ trừu
tượng của con người kết tinh trong đó. Bên cạnh đó, khơng thể không kể đến
con người. Con người không những là chủ thể sáng tạo ra tồn bộ sản xuất
văn hóa, hình thành nên mơi trường văn hóa mà con người cịn là sản phẩm
của văn hóa, là sản phẩm của hoạt động sản xuất của chính bản thân nó. Phẩm
chất văn hóa của con người biểu hiện ở trình độ ứng xử của nó đối với tự

nhiên, đối với xã hội và đối với bản thân. Văn hóa là sự phát huy các năng lực
bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người, nên văn hóa có
mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù đó là hoạt động trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị xã hội hay trong cách cư xử… cho đến những suy
tư thầm kín nhất. Càng ngày càng xuất hiện nhiều thuật ngữ gắn với văn hóa:
văn hóa chính trị, văn hóa giao thơng, văn hóa giao tiếp, gia đình văn hóa,
nhân cách văn hóa, văn hóa lao động… và được sử dụng rộng rãi trong xã hội.
Cố nhiên, điều đó khơng loại trừ sự tồn tại những lĩnh vực hoạt động riêng
của văn hóa, nghĩa là những hoạt động khơng thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị,
hay xã hội. Những lĩnh vực hoạt động riêng của văn hóa mà ta nói đây cũng
khơng phải chỉ là những hoạt động đang thuộc sự quản lý hành chính của nhà
nước thơng qua ngành văn hóa. Hoạt động văn hóa là hoạt động sản xuất ra
những giá trị tinh thần nhằm giáo dục con người khát vọng vươn tới cái chân,
cái thiện, cái mỹ và khả năng sáng tạo ra cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong đời


17
sống. Với ý nghĩa đó văn hóa bao gồm hàng loạt hoạt động về giáo dục, khoa
học, văn học nghệ thuật, về đạo đức, lối sống…
1.1.2.3. Sản phẩm nghiên cứu khoa học
Khoa học (tiếng Anh là Sience) là hệ thống tri thức về quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống tri thức này được nghiên cứu và khái quát từ
thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Sản phẩm nghiên cứu khoa học (còn gọi là tài liệu khoa học) trình bày
những tri thức khoa học về bản chất cùng các quy luật của thế giới tự nhiên,
xã hội và tư duy được thể hiện bằng văn bản.
Chỉ có con người mới có tri thức khoa học. Tri thức của nhân loại được
thực hiện dựa trên mục đích hoặc dựa trên kinh nghiệm thực tiễn hoạt động xã
hội. Chúng được ghi lại và lưu giữ dưới dạng văn bản tùy theo ngôn ngữ của
các dân tộc trên thế giới và được truyền từ đời này sang đời khác. Sản phẩm

nghiên cứu khoa học cũng là một nguồn vốn quý của nhân loại. Để phục vụ
cho nhu cầu sinh tồn và phát triển, con người không ngừng lao động, sáng tạo
trong sản xuất, học tập, nghiên cứu khoa học, đúc kết những kinh nghiệm từ
thực tiễn thành những tri thức để truyền đạt cho các thế hệ sau .
Ngày nay, trong thời kỳ hậu công nghiệp cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của các ngành công nghệ cao, các sản phẩm nghiên cứu khoa học - kể cả
nghiên cứu khoa học lý luận, nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn đến
nghiên cứu khoa học - công nghệ, ứng dụng cơ bản... có đóng góp khơng nhỏ
thậm chí có tính quyết định tới sự phát triển của xã hội về mọi mặt, trên mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục... góp phần thúc đẩy
năng suất lao động ngày càng gia tăng, chi phí sản xuất được giảm thiểu, lao
động đi vào chuẩn hóa và chun mơn hóa ngày càng đạt chất lượng đem lại
hiệu xuất và hiệu quả công việc lớn.
Đặc biệt, trong hoạt động nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên
cứu lý luận nói riêng, kết quả của nghiên cứu khoa học làm phong phú thêm
sự hiểu biết của loài người, các sản phẩm nghiên cứu khoa học mang đặc


18
trưng thông tin và tồn tại lâu dài cùng lịch sử, góp phần vào kho tàng tri thức
của nhân loại và dưới lăng kính văn hóa học thì bản thân nguồn tài liệu khoa
học còn là những di sản văn hóa của nhân loại.
1.1.3. Giá trị sản phẩm khoa học nội sinh
Hiện nay, trong xu thế tồn cầu hóa trên mọi phương diện kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, yếu tố ngoại sinh, yếu tố nội sinh thường được đề
cập tới nhiều bởi vì sự tác động biện chứng giữa cái nội sinh và cái ngoại sinh
của nền văn hóa dân tộc chính là thực chất của giao lưu văn hóa.
Trong tác phẩm “Giao lưu văn hóa đối với sự phát triển văn hóa nghệ
thuật ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Phạm Duy Đức đã đề cập đến khái niệm
nội sinh (endogène) và khái niệm ngoại sinh (exogène). Theo tác giả, đây là

cặp khái niệm của y học và sinh vật học. Nghĩa gốc của khái niệm nội sinh là
cái tự bên trong sinh ra (tiếng Hán - Việt) hay sinh ra do gien bên trong (tiếng
Pháp). Khái niệm ngoại sinh (exogène) đối lập với khái niệm nội sinh, nghĩa
gốc của nó là cái từ bên ngồi cơ thể sinh ra [14, tr.12].
Nếu nội sinh dùng để chỉ cái tự bên trong sinh ra, thì sản phẩm văn
hóa nội sinh là những sản phẩm về văn hóa nghệ thuật, tư tưởng chính trị,
pháp luật, tơn giáo, khoa học, đạo đức thẩm mỹ… do con người sáng tạo ra
trong quá trình hoạt động khoa học kỹ thuật, sản xuất, quản lý, nghiên cứu,
học tập, lao động… trong chính các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp, viện nghiên
cứu, trường đại học, các đơn vị nghệ thuật…Sản phẩm đó là sự kết tinh hoạt
động sản xuất tinh thần của con người, hướng con người tới những giá trị
Chân - Thiện - Mỹ - Ích. Sản phẩm văn hóa nội sinh phản ánh tương đối đầy
đủ tiềm lực, nguồn lực cũng như định hướng phát triển của đơn vị đó. Mở
rộng ra, thì sản phẩm văn hóa nội sinh cịn là những sản phẩm văn hóa được
sản sinh ra trong từng quốc gia, dân tộc. Trên cơ sở đó, sản phẩm khoa học
trong các đơn vị như trường học, Học viện, Viện nghiên cứu… là một dạng
sản phẩm văn hóa nội sinh và còn được gọi là sản phẩm khoa học nội sinh.
Trong bài viết “Nguồn tin nội sinh phục vụ nhiệm vụ đào tạo và nghiên
cứu khoa học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội”, tác giả Nguyễn Thị
Minh Ngọc có đưa ra khái niệm về tài liệu nội sinh như sau:


19
Tài liệu nội sinh là những tài liệu được hình thành trong quá trình hoạt
động khoa học kỹ thuật, sản xuất, quản lý, nghiên cứu, học tập của các
cơ quan, tổ chức, xí nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học… Tài liệu
nội sinh phản ánh đầy đủ, có hệ thống về các thành tựu, tiềm lực cũng
như hướng phát triển của những đơn vị này và thường được lưu giữ ở
các thư viện và trung tâm thông tin của đơn vị đó [59].
Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền kinh tế tri thức. Thành tố văn hóa phổ

biến nhất của tất cả mọi xã hội là tri thức, bao gồm tri thức kinh nghiệm, tri
thức kỹ thuật, tri thức cơng nghệ, tri thức khoa học. Chính trong kỷ ngun
của nền kinh tế tri thức này, con người - tổng hịa của các mối quan hệ xã hội
- có sự phát triển tồn diện - hài hịa trên một trình độ cao thể hiện tính năng
động, tích cực, thể hiện bản lĩnh cá nhân trong năng lực hiện thực hóa mọi sức
mạnh bản chất người nhằm nhận thức, chiếm lĩnh, khám phá, sáng tạo ra thế
giới mới, lịch sử mới đồng thời sáng tạo ra chính bản thân mình. Ngày nay,
khoa học và công nghệ được xem như là một lực lượng sản xuất trực tiếp và
trong xu thế phát triển chung của đất nước, mở rộng hợp tác quốc tế, hội nhập
với thế giới, hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học ngày càng được đẩy
mạnh tạo ra khối lượng tài liệu có giá trị phục vụ đắc lực cho hoạt động học
tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên, sinh viên… Điều
này góp phần phát huy năng lực khoa học và công nghệ nội sinh của mỗi chủ
thể và của đất nước.
Năng lực khoa học và công nghệ nội sinh là khái niệm do Trung tâm
Khoa học và công nghệ phục vụ phát triển của Liên Hợp quốc (UNSTD) đề
xuất và đưa ra trong Chương trình hành động của Liên Hợp quốc về phát triển
khoa học và công nghệ tổ chức tại Viên (Áo) năm 1979, khuyến nghị các
quốc gia đang phát triển muốn tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ nước
ngồi thì phải chăm lo xây dựng năng lực khoa học và công nghệ nội sinh.
Năng lực nội sinh là năng lực có nguồn gốc phát sinh, hình thành và phát triển
từ bên trong một chủ thể, hoặc do chủ thể tự nhận thức và làm chủ được, chủ


20
động tìm kiếm phương tiện thích hợp để hình thành và sử dụng, phù hợp với
nhu cầu phát triển của mình. Năng lực nội sinh khác với năng lực ngoại sinh
là loại năng lực có nguồn gốc phát sinh, hình thành và gây tác động từ bên
ngoài. Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ của một quốc gia thể hiện
khả năng của một quốc gia trong các việc: Xác định nhu cầu và các nhiệm vụ

khoa học và công nghệ, lựa chọn mục tiêu ưu tiên phát triển khoa học và công
nghệ, tổ chức triển khai thực hiện, phục vụ có hiệu quả cho các mục tiêu phát
triển (kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh, quốc phịng...). Nói cách khác, đó là
năng lực cụ thể hoá các mục tiêu phát triển chung của quốc gia thành những
mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ nhằm thực hiện các mục tiêu phát
triển chung của quốc gia; Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của đất
nước; đẩy mạnh hợp tác quốc tế; tìm kiếm tri thức khoa học, lựa chọn công
nghệ (ở cả trong và ngoài nước), áp dụng các cơ chế quản lý, chính sách thích
hợp và có hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
nhằm huy động các nguồn tài chính, nhân lực, cơ sở vật chất để đạt tới các
mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ đã đề ra; Chủ động tiến hành
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ phù hợp với yêu cầu của đất
nước; tiếp thu, làm chủ, đổi mới và sáng tạo các công nghệ cần thiết để phục
vụ cho các mục tiêu phát triển của đất nước.
Với nội hàm như vậy, năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ
không chỉ là năng lực tự tiến hành các nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ ở trong nước mà là một năng lực tổng hợp bao gồm cả ba nội dung nêu
trên. Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ thực chất là năng lực làm
chủ quá trình phát triển khoa học và công nghệ của đất nước, bao gồm các
việc: xác định mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ, xây dựng và sử
dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và cơng nghệ, xây dựng cơ chế và chính
sách quản lý hoạt động khoa học và công nghệ hợp lý, phát huy được mọi
năng lực sáng tạo, có khả năng huy động các nguồn lực cả trong và ngoài
nước để đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, phục vụ


21
thiết thực và hiệu quả cho phát triển đất nước. Như vậy, muốn phát triển khoa
học và công nghệ của đất nước và rút ngắn khoảng cách so với khu vực và
quốc tế, cần phải gắn liền việc nâng cao năng lực nội sinh với chủ động hợp

tác và hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ, với q trình phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phịng và an ninh của đất nước [70, tr.189-191].
1.2. TÍNH CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA SẢN PHẨM KHOA HỌC NỘI
SINH

Sản phẩm khoa học nội sinh là nguồn sản phẩm được tạo ra từ trong
chính các cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, trường học, Học viện… phản ánh hoạt
động thực tiễn của chính các cơ quan, đơn vị…- là các chủ thể quản lý và
cũng chính vì thế mà nó rất đa dạng và phong phú.
1.2.1. Phân loại sản phẩm khoa học nội sinh
Sản phẩm khoa học nội sinh có thể phân chia thành các dạng chính sau:
Theo cấp độ phổ biến của tài liệu, người ta chia tài liệu khoa học nội
sinh thành 2 dạng sau:
- Tài liệu công bố: là những tài liệu cơng khai, có giấy phép, được biên
soạn, chỉnh lý, lưu hành rộng rãi trên thị trường như sách, báo, tạp chí, băng
đĩa, phim ảnh… và có thể truy nhập tới được thơng qua hệ thống kiểm sốt
thư mục thơng thường.
- Tài liệu khơng cơng bố (cịn gọi là tài liệu xám) là những tài liệu chưa
hoặc không cơng khai, có tính đặc sắc và độc đáo, được sản sinh, thu thập
khơng qua các cơ quan kiểm sốt thông thường và hạn chế truy nhập (độ mật
của tài liệu). Tài liệu khơng cơng bố, gồm các loại hình chủ yếu sau: Báo cáo
kết quả NCKH (gồm cả các tư liệu, tài liệu điều tra, khảo sát, thí nghiệm,
… ); tài liệu hội nghị, hội thảo khoa học; luận án, luận văn khoa học; đề tài
nghiên cứu khoa học; tài liệu dịch…
Hai loại tài liệu trên tồn tại song song. Những tài liệu không công bố
như luận văn, luận án, bản thảo… sau khi được in thành sách lại trở thành
những tài liệu công bố.


22

Theo tính chất và q trình tạo nên mà tài liệu khoa học nội sinh có thể
chia thành các dạng sau:
- Tài liệu phản ánh kết quả hoạt động học tập, đào tạo như: luận văn,
luận án, hệ thống chương trình, giáo trình, đề cương bài giảng...
- Tài liệu phản ánh kết quả hoạt động nghiên cứu nói chung: các đề tài
nghiên cứu, các báo cáo kết quả nghiên cứu, các tư liệu từ việc triển khai các
chương trình, các tham luận khoa học, kỷ yếu các hội nghị, hội thảo...
- Tài liệu phản ánh tiềm lực về đào tạo và nghiên cứu khoa học: về cơ
cấu, quy mơ, trình độ đào tạo, nguồn nhân lực khoa học, cơ sở vật chất kỹ
thuật, các thông tin phản ánh định hướng phát triển nói chung, quy mơ về hợp
tác trong nước và quốc tế trong các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu,...
1.2.2. Tính chất của sản phẩm khoa học nội sinh
Sản phẩm khoa học nội sinh có 4 tính chất cơ bản sau:
Thứ nhất, là hệ thống phản ánh kết quả hoạt động của trường đại học,
học viện, viện nghiên cứu. Các thành tựu trong hoạt động khoa học được phản
ánh qua hệ thống các báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học, kỷ yếu các hội
nghị, hội thảo khoa học, mối quan hệ hợp tác trong nghiên cứu và đào tạo của
trường với bên ngồi. Các thành tựu trong cơng tác đào tạo được thể hiện qua
hệ thống các luận văn khoa học, hệ thống chương trình và giáo trình được tạo
nên. Đồng thời cũng cần thấy hệ thống thông tin phản ánh cơ cấu, quy mô
phát triển của trường đại học, học viện, viện nghiên cứu một mặt vừa phản
ánh tiềm lực mặt khác lại phản ánh sự phát triển của các chủ thể đó với tư
cách một chủ thể tiến hành các hoạt động đào tạo và nghiên cứu.
Thứ hai, là nguồn nguyên liệu đặc biệt quan trọng đối với mọi hoạt
động nghiên cứu, đào tạo. Mặc dù sản phẩm khoa học được tạo nên từ nhiều
loại hình hoạt động khác nhau, song giữa chúng có mối quan hệ hết sức chặt
chẽ. Mối quan hệ đó được xác lập bởi nhu cầu thông tin trong các lĩnh vực
hoạt động của trường đại học, học viện, viện nghiên cứu địi hỏi nguồn tin này
phải được tích hợp với nhau: để triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa



23
học, rất cần đến các nguồn tin được tạo nên từ các loại hình hoạt động khác
như đào tạo, hợp tác,... và ngược lại, để đảm bảo cho hoạt động đào tạo có
hiệu quả thì giảng viên cũng như học viên, sinh viên rất cần được cung cấp
nguồn tin là các kết quả NCKH, kỷ yếu các hội nghị, hội thảo khoa học...
Thứ ba, là hệ thống phản ánh tiềm lực hoạt động của trường đại học,
học viện, viện nghiên cứu thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau. Trước hết,
số lượng, cơ cấu, cấp bậc luận án khoa học sẽ phản chiếu kết quả đào tạo
cũng như tiềm lực đào tạo của chủ thể quản lý. Đồng thời cũng chính từ hệ
thống các luận án này cho phép xác định được trình độ nguồn nhân lực khoa
học của trường đại học, học viện, viện nghiên cứu (thông qua các luận án
khoa học được thực hiện, được hướng dẫn từ đội ngũ giảng viên, nghiên cứu
viên của cơ quan đó). Chất lượng và trình độ đội ngũ nguồn nhân lực khoa
học của chủ thể quản lý được phản ánh qua nhiều khía cạnh khác nhau, và
thơng qua nguồn SPKHNS điều đó cũng được phản ánh rõ rệt. Những yếu tố
này góp phần cung cấp các thơng tin về tiềm lực của các đơn vị đó.
Thứ tư, là hệ thống phản ánh định hướng phát triển của trường đại học,
học viện, viện nghiên cứu. Điều này được thể hiện qua định hướng, chiến
lược và các chương trình phát triển nói chung của trường đại học, trong đó
bao gồm các lĩnh vực như hoạt động đào tạo, nghiên cứu, động thái phát triển
cơ cấu đào tạo, nghiên cứu, các dự án phát triển về mơ hình tổ chức của
trường đại học với tư cách là chủ thể tổ chức và triển khai các chương trình,
dự án phát triển đã được thiết lập; vấn đề xác định trọng tâm ưu tiên đào tạo,
nghiên cứu, hợp tác trong nước và quốc tế; các dự án nâng cao vai trò và vị
thế của trường đại học đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung
của quốc gia...
1.2.3. Một số đặc trưng của sản phẩm khoa học nội sinh
Sản phẩm khoa học nội sinh có những đặc trưng cơ bản sau:
Đặc trưng thứ nhất: Trong trường đại học, học viện, viện nghiên cứu,

tài liệu xám chiếm tỷ trọng lớn. Các tài liệu xám có những điểm khác biệt căn


24
bản so với các xuất bản phẩm và có thể thấy những vấn đề liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ (hiểu một cách đơn giản là quyền lợi về tinh thần và vật
chất của tác giả các tài liệu này cũng như trách nhiệm của người dùng tin
trong việc khai thác, sử dụng những tài liệu đó). Vì thế, trong quá trình triển
khai dịch vụ sao chụp các tài liệu xám ở các trung tâm thông tin thư viện,
người làm dịch vụ cần chú ý đến vấn đề nêu trên (hạn chế việc sao chụp toàn
bộ một tài liệu cũng như số lượng bản sao chụp cần hạn chế ở mức thấp nhất
có thể). Hiện nay, các cơ quan thông tin cho phép người dùng tin truy cập đến
các nguồn tin số hố của mình dưới hai dạng là các tệp dữ liệu văn bản (dữ
liệu toàn văn) và tệp PDF (tệp văn bản).
Đặc trưng thứ hai: Các hoạt động tạo ra nguồn SPKHNS về cơ bản đều
là các hoạt động có kế hoạch, chịu sự quản lý trực tiếp của chủ thể quản lý dù
nó được triển khai dưới hình thức nào (Nhà nước cấp, nguồn tự có hay tài trợ
từ bên ngồi) thì đây vẫn là mơi trường xã hội thuận lợi nhất để khai thác các
chính sách liên quan đến tạo lập, quản lý và khai thác thông tin.
Đặc trưng thứ ba: Kết hợp xuất bản điện tử, SPKHNS phát triển thành
nguồn tin nội sinh. Vấn đề phát triển nguồn tin nội sinh dạng số hoá là khả
thi. Thực tế đã chứng minh trên cơ sở các điều kiện kinh tế xã hội, sự phát
triển và khơng ngừng hồn thiện cơ sở hạ tầng thơng tin quốc gia cũng như
các Chương trình quốc gia liên quan đến vấn đề phát triển các ứng dụng công
nghệ thông tin và truyền thông (ICT - Information and Communication
Technology), các dự án về giáo dục, đào tạo... Trên phạm vi quốc gia, năng
lực về nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật liên quan đến xuất bản, tạo lập nội
dung thông tin và các lĩnh vực công nghệ liên quan đã cho phép các cơ quan
thông tin thư viện đại học, học viện, viện nghiên cứu tính đến kế hoạch cụ thể
để trở thành các các nhà cung cấp thông tin trên Internet cho cộng đồng của

mình. Ý tưởng về việc hình thành, tạo lập và phát triển các LRC (Learning
Resource Centre) - Trung tâm học liệu, hiện đại hoá các trung tâm thơng tin
thư viện nói chung, tạo lập và phát triển các OPAC (Online Public Access


25
Catalog) - Mục lục tra cứu trực tuyến - cho các trường đại học để thay thế các
sản phẩm thông tin thư viện trước đây... xét cho cùng là hướng đến mục tiêu
này. Hơn nữa, cũng chính tại nơi đây khả năng tích hợp các loại nguồn tin nội
sinh với nhau và với các nguồn tin khác của trường đại học xét từ quyền lợi
của người dùng tin đã được giải quyết một cách căn bản về mặt công nghệ:
Sự hình thành các Intranet của trường đại học, gần đây là việc ứng dụng công
nghệ cổng (Portal Technology) để phát triển các mạng này đã tạo tiền đề thiết
yếu cho điều đó.
Đặc trưng thứ tư: SPKHNS được hình thành thường theo chu kỳ, đa
dạng hố và có số lượng lớn (do tính chất hoạt động của trường đại học, học
viện, viện nghiên cứu tạo nên: các luận án, luận văn được tạo nên từ hoạt
động đào tạo là có tính chu kỳ). Lưu ý đến tính hệ thống, đồng bộ của nguồn
sản phẩm này từ đó tạo thành các nguồn tin nội sinh có hệ thống về một chủ
đề xác định mà buộc các cơ quan thông tin thư viện đại học phải nghiên cứu
cách thức tổ chức và quản lý nguồn tin nội sinh sao cho nguồn tin này sẽ được
khai thác với hiệu quả cao nhất.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VÀ VAI TRÒ CỦA SẢN PHẨM KHOA HỌC NỘI SINH Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

1.3.1. Khái quát về Học viện CTQG Hồ Chí Minh
Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc trước đây và nay là Học viện
CTQG Hồ Chí Minh do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và mở đầu
cho sự nghiệp đào tạo cán bộ bằng những lớp huấn luyện đầu tiên vào những

năm 1925 - 1926. Theo Người: “Cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc. Vì vậy,
huấn luyện cán bộ là cơng việc gốc của Đảng”, “Có kinh nghiệm mà khơng có
lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” do vậy “Lý luận như cái kim
chỉ nam , nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong cơng việc thực tế. Khơng
có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” [46, tr.444-445] và cần “... học
tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập


×