Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Ảnh hưởng của các mức bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn đến lượng thức ăn thu nhận và tăng trọng của bò Lai Sind pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.86 KB, 6 trang )

Ảnh hưởng của các mức bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn đến lượng thức ăn thu nhận
và tăng trọng của bò Lai Sind
Nguyễn Hữu Minh
1
, Nguyễn Kim Đường
1
*, Nguyễn Hữu Văn
2
,
1
Khoa Nông Lâm Ngư - Trường Đại học Vinh
2
Khoa Chăn nuôi Thú y- Trường Đại học Nông Lâm Huế

*Tác giả để liên hệ: PGS, TS. Nguyễn Kim Đường, Khoa Nông Lâm Ngư, Trường ĐH VInh
ĐT: (038) 3.552492 / 0902.798290; E-mail:

ABSTRACT
The effect of cassava meal supplêmnted to the basal over of laisind grossing cattle on feed intake and live
weight gain
20 Laisind uncastrated male (15-18 months of age, 150-180kg) were used in a completely randomized
design experiment with five treatments (1,2,3,4,5) (each of four animals). All animals was fed individually.
The following were treatment diets: Basal diet or convertional diet (Treatment dietI): CT+ fresh elephant
grass at 1.25% of live weight in dry metter basis; Treatment diet II: CT + 0.33% cassava meal (2% urea added);
Treatment diet III: CT + 0.66% cassava meal (2% urea added); Treatment diet IV: CT+ 1.32% cassava meal (2%
urea added); Treatment diet V: CT + 1.98% cassava meal (2% urea added).
The result of 3 months showed that: The maximum intake of cassava meal by cattle was around 1.4% of
body weight (BW) (1.3-1.5%) and supplementation at 1.32% of BW gave the best result. When the level of
cassava meal reached 0.33% of BW. Intake of roughage (rice straw and elephant grass) began to decrease. The
rate of reduction in roughage intake seemed to increase with increasing level of cassava meal in the diets.
However, total intake of growing cattle was not affected by level of cassava meal.


Key words: cassava meal, growing cattle, feed intake, live weight gain.
Đặt vấn đề
Trong những năm qua ngành chăn nuôi Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh cả về số
lượng đàn vật nuôi và lượng sản phẩm sản xuất. Con bò đóng một vai trò quan trọng trong đời
sống của hàng triệu gia đình nông dân vì đó là nguồn cung cấp thịt, sức kéo, phân bón và còn
được coi là một loại “ngân hàng di động”.
Nói chung, nguồn thức ăn chính cho gia súc nhai lại ở các nước nhiệt đới vẫn dựa vào cỏ
tự nhiên và phế phụ phẩm nông nghiệp giàu xơ (Koakhunthod và cs., 2001. Trích dẫn bởi
Nguyễn Xuân Bả, 2006). Diện tích trồng cỏ bị hạn chế nên bò chủ yếu được chăn thả trên đất
công cộng như: ven đường, bờ ruộng, đất trống và cho ăn thêm các sản phẩm phụ từ ngành
nông nghiệp, do vậy tăng trọng thấp (Hassall và cs., 1991. Trích dẫn bởi Vũ Chí Cương,
2002; Nguyễn Xuân Bả, 2006). Nguyên nhân chủ yếu là do hàm lượng nitơ của các loại thức
ăn này thấp (Jackson, 1978. Trích dẫn bởi Vũ Chí Cương, 2002; Nguyễn Xuân Bả, 2006) và
tỷ lệ tiêu hóa thấp (Orskov và cs., 1985. Trích dẫn bởi Vũ Chí Cương, 2002; Nguyễn Xuân
Bả, 2006).
Để phát triển chăn nuôi bò bền vững, phương thức chăn nuôi bò chủ yếu dựa vào nguồn
thức ăn sẵn có cần được coi là một ưu tiên hàng đầu trong nghiên cứu dinh dưỡng gia súc nhai
lại không những ở Việt Nam, (Hassall và cs., 1991; Lê Viết Ly, 1995; trích dẫn bởi Vũ Chí
Cương, 2002) mà ở cả các nước đang phát triển nói chung (Delgalo và cs., 1999; trích dẫn bởi
Nguyễn Xuân Bả, 2006; Vũ Chí Cương, 2002).
Theo số liệu của Tổng cục thống kê (2006) diện tích trồng sắn của cả nước khoảng 420
ngàn ha với sản lượng 6,6 triệu tấn củ tươi. Những năm gần đây sản lượng lúa của nước ta
ngày một nhiều hơn nên vai trò lương thực của cây sắn giảm dần. Vì vậy, sắn trở thành loại
cây cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và làm thức ăn cho vật nuôi.
Trong các nguồn thức ăn tinh bổ sung rất giàu tinh bột, bột sắn là sẵn có và rẻ tiền,
nhưng hàm lượng protein thô tương đối thấp. Tuy nhiên, do hàm lượng tinh bột cao nên
nó có các ảnh hưởng âm tính nếu cho bò ăn với lượng lớn. Bởi vì nó sẽ làm giảm tỷ lệ
tiêu hóa các thành phần dinh dưỡng có trong thức ăn thô, đặc biệt là tiêu hóa xơ.
Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của các mức bột
sắn bổ sung đến lượng thức ăn thu nhận, tỷ lệ tiêu hóa thức ăn và tăng trọng của bò lai

Sind (Red Shindhi x bò vàng) nuôi lấy thịt ở nước ta.
VậT LIệU Và PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
Gia súc thí nghiệm
Thí nghiệm tiến hành trên 20 bò đực lai Sind (chưa thiến) 15-18 tháng tuổi, khối
lượng TB 156 kg; chia làm 5 lô, 4 con/lô. Bò được nuôi mỗi con một ô, có máng thức ăn
tinh và máng thức ăn thô riêng, 2 ô chung một máng uống nước. Trước khi vào thí
nghiệm bò được nuôi 2 tuần làm quen với khẩu phần thí nghiệm. Trước khi vào thí
nghiệm bò được tẩy ký sinh trùng đường ruột và sán là gan, tiêm phòng vắc xin tụ huyết
trùng. Cân để kiểm tra khối lượng 2 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu và kết thúc thí
nghiệm và 1 lần/tuần trong thời gian thí nghiệm tiêu hóa - cân vào 06h30 - 07h30, trước
khi cho ăn.
Thí nghiệm được thực hiện tại Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thủy An - Khoa Chăn
nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm Huế từ tháng 3 đến tháng 6/2006.
Thức ăn cho bò
Bò trong thí nghiệm được bố trí theo phương pháp CRD trong 5 lô với ăn 5 khẩu
phần ăn khác nhau như sau:
- Lô I: Khẩu phần cơ sở (KPCS): cỏ voi 1,25% (VCK) khối lượng sống.
- Lô II: KPCS + bột sắn 0,33% khối lượng sống của bò + rơm ăn tự do.
- Lô III: KPCS + bột sắn 0,66% khối lượng sống của bò + rơm ăn tự do.
- Lô IV: KPCS + bột sắn 1,32% khối lượng sống của bò + rơm ăn tự do
- Lô V: KPCS + bột sắn 1,98% khối lượng sống của bò. + rơm ăn tự do
Bột sắn dùng trong thí nghiệm đã được trộn 2% urê.
Bò được cho ăn bột sắn và cỏ voi từ 07h30 đến 18h00 với số lượng bữa khác nhau;
rơm lúa cho ăn tự do từ 18h 30 đến 07h sáng hôm sau.
Lượng bột sắn bổ sung được điều chỉnh hàng tuần theo sự tăng trưởng của từng con
bò. Lượng bột sắn ở lô II và lô III được cho ăn 2 bữa vào lúc 07h15 và 13h00; ở lô IV và
lô V cho ăn 3 bữa vào lúc lúc 07h15, 13h00 và 16h30. Lượng bột sắn dư thừa sẽ được thu
và cân vào 06h00 hôm sau.
Cỏ voi được cắt ngắn (5-10cm) trước khi cho bò ăn. Lượng cỏ cho bò ăn được điều
chỉnh theo tăng trưởng của bò hàng tuần với mức 1,25% (VCK) khối lượng sống. Cỏ

được cho ăn 2 bữa: 07h30 và 13h15 hàng ngày. Rơm được băm ngắn (10cm) và cho bò ăn
tự do từ 18h30 hôm trước đến 07h30 hôm sau.
Tất cả bò được cung cấp tảng liếm khoáng và nước uống tự do suốt thời gian thí nghiệm.
Các phân tích thành phần hóa học của thức ăn theo AOAC (1990) và được thực hiện
tại các phòng thí nghiệm khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm Huế, và
phòng phân tích thức ăn gia súc & sản phẩm chăn nuôi thuộc Viện Chăn nuôi Quốc gia,
Hà Nội. Các kết quả thu được trình bày trên Bảng 1 sau đây.
Kết quả phân tích trên Bảng 1 cho thấy không có sự biến động đáng kể về thành phần
dinh dưỡng các loại thức ăn được dùng cho cả quá trình thí nghiệm. HCN trong các mẫu
bột sắn dùng trong thí nghiệm này ở mức 37mg/kg VCK.
Bảng 1. Thành phần hóa học của các loại thức ăn dùng cho thí nghiệm
Loại thức ăn
VCK
(%)
OM
(%)
NDF
(%)
CP
(%)
EE
(%)
Ash
(%)
GE
(Kcal/kgVCK)
Rơm lúa 88,0 88,5 77,1 5,1 1,6 11,5 4129,0
Cỏ voi 17,1 89,0 71,5 10,8 2,3 11,0 4199,0
Bột sắn 85,7 97,3 8,4 1,7 0,3 2,7 4071,0
Bột sắn (2% urê) 86,0 96,9 8,2 8,5 0,3 3,1 3977,0

Tập hợp và tính toán số liệu
Lượng thức ăn thu nhận được ghi chép hàng ngày và tính toán bằng lượng cho ăn trừ
đi lượng còn thừa của mỗi loại thức ăn.
Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng được xác định theo công thức tổng quát như sau:
Lượng thức ăn thu nhận (kg/con/ngày)
TTTĂ/kgTT =
Tăng trọng (kg/con/ngày)
Tăng trọng của bò được tính bằng cách phân tích hồi qui tuyến tính dựa trên kết quả
của 28 lần cân cho mỗi bò kể từ khi bắt đầu cho đến kết thúc thí nghiệm.
Số liệu được phân tích thống kê sinh vật học trên phần mềm Microsoft Excel 2003 và
Minitab version 13.0.
KếT QUả Và THảO LUậN
nh hưởng của việc sử dụng bột sắn trong khẩu phần đến lượng thức ăn thu nhận
của bò
Qua theo dõi thí nghiệm chúng tôi đã thu được các kết quả trên Bảng 2.
Kết quả Bảng 2 cho thấy, lượng bột sắn thu nhận thực tế của bò tăng dần theo mức
bổ sung bột sắn (2% urê) trong khẩu phần theo thứ tự lô I, II, III, IV, V với lượng thu
nhận thực tế là 0; 0,63; 1,22; 2,28 và 2,41 kg/con/ngày, tương đương với tỷ lệ: 0; 0,33;
0,66; 1,32 và xấp xỉ 1,40% so với khối lượng sống của bò.
Steen và cs., (2003)
cho biết, bò thịt có thể ăn vào lượng thức ăn tinh hỗn hợp tương
đương với 2,2% khối lượng cơ thể. Dự án đa dạng hóa nông nghiệp. Hợp phần khuyến
nông thức ăn chăn nuôi cũng khuyến cáo nông dân nước ta nuôi bò thịt vỗ béo với mức
đầu tư thức ăn tinh hỗn hợp lên đến 2,5% khối lượng cơ thể. Trong thí nghiệm này, mặc
dù bò ở lô V được cho ăn bột sắn ở mức 1,98% trong suốt thời gian thí nghiệm nhưng
lượng ăn vào bình quân chỉ xấp xỉ 1,40% (dao động 1,3-1,5%) khối lượng cơ thể. Câu hỏi
đặt ra ở đây là yếu tố nào hạn chế mức ăn vào của bò đối với bột sắn? Thực tế là bò trong
thí nghiệm này không thể thu nhận lượng bột sắn quá 1,5% khối lượng cơ thể của chúng.
Bảng 2. Lượng thức ăn thu nhận của bò thí nghiệm
Loại thức ăn


Đơn vị tính
Lô I Lô II Lô III

Lô IV LôV SEM P
kg DM/con/ngày 0,00
a
0,54
b
1,05
c
1,96
d
2,07
d
0,11 0,001 Bột sắn trộn
2% urê
kg/100kgP/ngày 0,00
a
0,30
b
0,58
c
1,10
d
1,17
d
0,04 0,001
kg DM/con/ngày 1,85
a

1,81
a
1,73
ab
1,64
ab
1,48
b
0,07 0,003 Cỏ voi
kg/100kgP/ngày 1,05
a
1,04
a
0,98
ab
0,92
bc
0,82
c
0,02 0,001
kg DM/con/ngày 1,72
a
1,39
b
1,28
b
0,57
c
0,68
c

0,05 0,001 Rơm
kg/100kgP/ngày 0,98
a
0,80
b
0,74
b
0,34
c
0,38
c
0,03 0,001
kg DM/con/ngày 3,57

3,73

4,17

4,16

4,22

0,22 0,191 Tổng lượng
ăn vào
kg/100kgP/ngày 2,02
a
2,15
ab
2,38
b

2,36
b
2,38
b
0,07 0,005
Trong cùng một hàng ngang, các chữ cái khác nhau có sự sai khác với p < 0,05.
Khi bổ sung lượng bột sắn tăng dần ở các lô đã làm giảm lượng thu nhận khẩu phần
cơ sở (rơm và cỏ voi). Lượng rơm ăn vào có sự biến động ở các lô; giảm từ lô I đến lô IV
và có xu hướng tăng lên không đáng kể ở lô V, tuy nhiên vẫn có sự sai khác so với lô I, lô
II và lô III (P<0,05), có sự sai khác giữa lô I so với các lô còn lại và giữa lô II, III với lô
IV, V (P<0,05).
Cũng tương tự như lượng rơm mà bò thu nhận, khi tăng lượng bột sắn trong khẩu
phần đã làm giảm khả năng thu nhận cỏ voi, giảm từ lô I đến lô V. Có sự sai khác có ý
nghĩa giữa lô I với các lô còn lại và giữa lô II, III với lô IV, V (P<0,05).
Như vậy, khi mức bột sắn bổ sung trong khẩu phần tăng dần từ lô I đến lô V đã làm
giảm khả năng thu nhận thức ăn thô (rơm và cỏ voi) của bò. Điều này có thể do khi lượng
bột sắn ăn vào tăng đã có tác dụng dần thay thế lượng thức ăn thô ăn vào, làm cho nó
giảm; và có thể bột sắn trộn urê chứa nhiều năng lượng trao đổi mà bò thu nhận được đã
thay thế dần lượng năng lượng mà chúng cần từ rơm và cỏ voi.
Tổng lượng thức ăn tiếp nhận có sự tăng dần từ lô I đến lô IV, lô V bắt đầu chững lại.
Tổng lượng thức ăn thu nhận cho 100 kg P của bò có sai khác giữa lô I với các lô III, IV,
IV với P<0,05. Các lô có bổ sung bột sắn đều có lượng thức ăn tiếp nhận cao hơn so với
lô không bổ sung bột sắn. Điều này chứng tỏ rằng, bổ sung bột sắn vào khẩu phần đã có
ảnh hưởng tích cực đến khả năng thu nhận thức ăn của bò.
Thông thường khi bổ sung một lượng nhỏ thức ăn tinh vào khẩu phần ăn của bò có
vai trò như tác nhân xúc tác làm tăng khả năng thu nhận thức ăn thô xơ, ngược lại khi bổ
sung với lượng lớn thì nó có thể, làm giảm thu nhận thức ăn thô xơ. Kết quả thí nghiệm
cho thấy, ở mức 0,33% bột sắn bổ sung đã xẩy ra hiện tượng thay thế thức ăn. Tổng
lượng ăn vào của bò ở các lô có bổ sung bột sắn đều cao hơn so với lô không bổ sung và
có xu hướng tăng dần rõ rệt (P<0,05) ở lô III so với lô I.

Như vậy, mặc dù lượng bột sắn thu nhận của bò trong thí nghiệm này chỉ giới hạn ở
mức khoảng 1,4% so với trọng lượng cơ thể bò, tổng lượng thức ăn vào của bò ở các lô
có bổ sung bột sắn đều cao hơn so với lô không bổ sung.
nh hưởng của việc bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn của bò đến hiệu quả chăn nuôi
Các kết quả thu được trong nghiên cứu được trình bày trên Bảng 3.
Qua Bảng 3 ta thấy, bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn với các mức khác nhau đã ảnh
hưởng đến khả năng tăng trọng của bò. Tăng trọng (g/con/ngày) của bò cao nhất là ở lô IV
đạt 552 và thấp nhất là ở lô I với chỉ đạt 237, tăng trọng của các lô II, III và IV lần lượt là
351, 403 và 480. Nếu tính tăng trọng theo phần trăm thì lô I, II, III và lô V có tăng trọng
thấp hơn so với lô IV lần lượt là: 57,70%; 36,41%; 27,00 và 13,03%. Đã có sự sai khác về
tăng trọng của bò ở lô không sử dụng bột sắn với các lô có sử dụng bột sắn với p<0,05.
Giữa các lô II với lô III, lô III với lô V và lô IV với lô V là không có sự sai khác (P>0,05).
Bảng 3. Hiệu quả của việc sử dụng bột sắn trong khẩu phần ăn đến hiệu quả chăn nuôi bò
thịt
Chỉ tiêu Lô I Lô II Lô III Lô IV Lô V
Tăng trọng (g/con/ngày) 237,00
a
351,00
b
403,00
bc
552,00
d
480,00
cd
Tăng trọng hơn đối chứng (g/ngày) 0,00 114,00 166,00 315,00 243,00
TTTA (kg VCK/kg TT) 16,04

12,05


11,26

7,59

8,93

Chi thêm (đồng/ngày) 0,00 1096,00

2175,00 3912,00 4011,00
Thu thêm (đồng/ngày) 0,00 2508,00

3652,00 6930,00 5346,00
Lãi (đồng/ngày) 0,00 1412,00

1477,00 3018,00 1335,00
Ghi chú: Giá rơm:300 đồng/kg; giá cỏ voi: 200 đồng/kg; giá bột sắn có bổ sung urê: 2000
đồng/kg; giá bò hơi: 22000 đồng/kg
Như vậy, khi bột sắn bổ sung vào khẩu phần ăn của bò tăng dần từ 0 đến 1,32% khối
lượng cơ thể của bò đã làm tăng khả năng tăng trọng của bò. Nhưng khi sử dụng bột sắn
trong khẩu phần cao hơn 1,32% thì tăng trọng của bò có xu hướng giảm. Có thể việc bổ
sung bột sắn vào khẩu phần ăn của bò đã làm tăng tính ngon miệng nên bò thu nhận thức
ăn tốt hơn, kết quả là tăng trọng của bò tăng.
Tiêu tốn thức ăn cho một kg tăng trọng của bò ở các lô thí nghiệm giảm dần từ lô I
đến lô V, cao nhất ở lô I (16,04), tiếp đến là lô II (12,05), III (11,26), V (8,93) và thấp
nhất là lô IV (7,59). Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng của bò ở các lô thí nghiệm có sai khác
với P<0,05. Việc bổ sung bột sắn vào khẩu phần của bò đã giảm tiêu tốn thức ăn cho 1 kg
tăng trọng của bò.
Kết quả ở Bảng 3 cũng cho thấy khi bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn của bò với các
mức khác nhau đã gián tiếp ảnh hưởng đến một số chỉ tiêu hiệu quả chăn nuôi bò thịt. Khi
lượng bột sắn bổ sung tăng từ 0,33 đến 1,32 % thì tăng trọng tăng thêm so với lô không bổ

sung tăng dần. Tuy nhiên, trên mức 1,32% (lô V) thì lại giảm.
Khi bò tăng trọng tăng thêm thì chi phí thêm so với lô không bổ sung bột sắn cũng
tăng. Nhưng số tiền thu thêm cũng tăng, tăng cao hơn so với mức chi phí tăng thêm. Do
vậy lợi nhuận cũng được tăng lên.
Như vậy, việc bổ sung bột sắn trong khẩu phần ăn của bò đã mang lại hiệu quả kinh
tế trong chăn nuôi bò thịt. Có được kết quả này là do bò thu nhận nhiều thức ăn hơn, tăng
trọng của bò cao hơn và lợi nhuận thu được cũng tăng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi
bổ sung 1,32% bột sắn (VCK) so với khối lượng sống của đem lại hiệu quả cao nhất.
KếT LUậN Và Đề NGHị
Kết luận
Lượng bột sắn (chứa 2% urê) thu nhận của bò trong thí nghiệm này tối đa khoảng
1,4% (1,3-1,5%) khối lượng sống, mức bổ sung 1,32% có hiệu quả cao nhất.
Khi bột sắn (chứa 2% urê) bổ sung đến mức 0,33% khối lượng sống của bò thì lượng
thức ăn thô xơ (cỏ voi và rơm lúa) thu nhận bắt đầu giảm và mức giảm tăng khi lượng bột
sắn bổ sung tăng lên, nhưng tổng lượng thức ăn bò thu nhận vẫn tăng.
Bổ sung bột sắn (chứa 2% urê) từ 0,33 đến 1,96% khối lượng sống của bò vào khẩu
phần cơ sở là cỏ voi và rơm lúa, tăng trọng của bò ở các lô được ăn bột sắn cao hơn
không được ăn bột sắn từ 114 đến 315 g/con/ngày.
Bổ sung bột sắn (chứa 2% urê)vào trong khẩu phần cơ sở là cỏ voi và rơm lúa đã
đem lại hiệu quả chăn nuôi bò thịt cao hơn so với không bổ sung.
Đề nghị
Trong sản xuất, khi chỉ có bột sắn làm nguồn thức ăn tinh bổ sung thì mức tối ưu nên
trong khoảng 0,7-1,3% so với khối lượng sống của bò.
Cần nghiên cứu sâu hơn về ảnh hưởng của các mức bổ sung bột sắn đến sự thay đổi
môi trường dạ cỏ, các chỉ tiêu sinh hóa máu và chất lượng thịt bò để có các khuyến cáo
đầy đủ hơn.
TàI LIệU THAM KHảO
AOAC. 1990. Official Methods of Analysis. 15
th
edn. Association of Official Analytical Chemists,

Arlington, Virginia.
Hassall. H, A. Conway and Le Ba Lich. 1991. Polices and Strategies for the Deverlopment of Cattle and
Buffalo Production in Vietnam. (Report prepared for the Government of the Socialiat Republic of
Vietnam), UNDP, FAO, Roma, 1991.
Koakhunthod S, Wanapat M, Wachirapakorn N, Nontaso N, Rowlinson P and Sorsungnern. 2001. Effect of
cassava hay and high-quality feed block supplementation on milk production in lactating dairy cows.
In International Workshopon Current Reseach and Deverlopment on Use of Cassava as Animal feed.
Konkaen University, Khon kaen, Thailand. pp: 21-25.
Lê Viết Ly. 1995. Giới thiệu một số kinh nghiệm nuôi bò thịt (bò vàng Trung Quốc) bằng phụ phẩm công
nông nghiệp. Trong: Lê Viết Ly - chủ biên. Nuôi bò thịt và những kết quả nghiên cứu bước đầu ở Việt
Nam, trang: 38-44. NXB nông nghiệp, 1995.
Nguyễn Xuân Bả. 2006. Đánh giá khả năng sử dụng cây dâu tằm (Morusalba), cây dâm bụt (Hisbicus Rosa
Sinensis L.) làm thức ăn cho gia súc nhai lại ở Miền Trung Việt Nam. Huế, 2006 (Luận án tiến sĩ).
R W.J. Steen, N.P. Lavery, D.J. Kilpatrick and M.G. Porter. 2003. Effect of pasture and hight concentrate
diets on the perfonmance of beef cattles carcass composition equal growth rate and the fatty acid
coposition of beef. New Zealand Joural of Agricultural Research, 2003. Vol, 46: 69-81.
Vũ Chí Cương. 2002. Nghiên cứu sử dụng có hiệu quả thức ăn protein trong nuôi dưỡng
bò thịt. Hà Nội, 2002./

×