Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

kinh nghiệm thu hút FDI của trung quốc và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.78 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BỘ MÔN CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI


MÔN HỌC CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI II
TÊN ĐỀ TÀI:
KINH NGHIỆM THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: TS. Đỗ Thị Hương
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Thành viên nhóm: Trần Thị Hà Linh (CQ522119)
Đỗ Hồng Anh (CQ520050)
Lê Anh Thư (CQ523610)
Nguyễn Kim Hoàn (CQ527142)
Nguyễn Hoàng Khải (CQ521812)
Lớp: Chính sách kinh tế đối ngoại II(213)_1
Khóa: 52
Hệ: Chính quy

Hà Nội, 11 - 2013
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC 2
1.1. Những vấn đề cơ bản về FDI và thu hút FDI 2
1.1.1. Khái niêm 2
1.1.2. Đặc điểm 2
1.1.3. Vai trò 2
1.2. Chính sách thu hút FDI của Trung Quốc 3
1.2.1. Các chính sách cơ bản đã thực hiện để thu hút FDI của Trung Quốc 3


1.2.2. Các giai đoạn thực hiện 4
1.2.3. Những nhân tố thu hút FDI của Trung Quốc 7
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC 10
2.1. Những bài học thành công trong thu hút FDI tại Trung Quốc 10
2.1.1. Xây dựng đặc khu kinh tế 11
2.1.2. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư 15
2.1.3. Kết hợp thu hút vốn và thu hút tri thức 16
2.2. Những bài học chưa thành công trong thu hút FDI tại Trung Quốc 16
2.2.1. Hoạt động quản lý nhà nước đối với nguồn vốn FDI còn nhiều bất cập 16
2.2.2. Tài sản nhà nước bị thất thoát nghiêm trọng 17
2.2.3. Chưa có chính sách thích hợp để bảo hộ thị trường trong nước 17
2.2.4. Các nhà đầu tư nước ngoài khống chế kỹ thuật trong doanh nghiệp liên doanh 17
2.2.5. Chưa thực sự coi trọng chất lượng của nguồn vốn FDI 18
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC 20
3.1. Những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc 20
3.1.1. Những nét tương đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc 20
3.1.2. Những nét khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc 22
3.2. Thực trạng thu hút FDI ở Việt Nam trong thời gian qua 23
3.3. Vận dụng kinh nghiệm vào Việt Nam 27
3.3.1. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước 27
3.3.2. Cải thiện môi trường pháp luật 28
3.3.3. Cải thiện cơ sở hạ tầng 28
3.3.4. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư 28
3.3.5. Thu hút vốn FDI có chọn lọc 29
3.3.6. Giải quyết tình trạng các địa phương cạnh tranh thu hút FDI bằng mọi giá 30
3.3.7. Giải quyết thất thoát ngân sách nhà nước do tình trạng chuyển giá 30
KẾT LUẬN 31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
LỜI MỞ ĐẦU
FDI là một bộ phận quan trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. Nhờ

có nguồn vốn FDI mà nhiều nguồn lực trong nước được khai thác và phát huy tác dụng. Trong
những năm cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu khiến thế giới phải chú
ý. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, trong đó FDI là lĩnh vực được liên tục thay đổi về
chính sách và biện pháp thực hiện cho phù hợp với tình hình chung diễn ra trên thế giới và điều
kiện thực tế ở Trung Quốc. Kết quả đạt được là sự tăng trưởng liên tục về thu hút FDI ở Trung
Quốc trong thời gian qua.
Vấn đề thu hút FDI đang là mối quan tâm của nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển
hiện nay. Đối với Việt Nam, FDI được coi là ngoại lực quan trọng phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bước vào nền kinh tế thị trường, Trung Quốc có nhiều nét tương đồng với Việt Nam.Vì
vậy, những kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc là những gợi ý hữu ích cho nước ta trên con
đường phát triển Kinh tế- xã hội.
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC
1.1. Những vấn đề cơ bản về FDI và thu hút FDI
1.1.1.Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn vốn của các cá nhân và doanh nghiệp một nước
đầu tư sang nước khác nhằm thu được lợi nhuận lâu dài và dành được quyền kiểm soát các doanh
nghiệp ở các quốc gia được nhận đầu tư. Nó được tính bằng tổng số vốn cổ phần, lợi nhuận từ đầu
tư, vốn dài hạn khác và vốn ngắn hạn được thể hiện trong cán cân thanh toán.
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn có vai trò quan trong đối
với các nước, đặc biệt là quốc gia đang phát triển
1.1.2.Đặc điểm
- Các chủ đầu tư thực hiện đầu tư trên nước sở tại phải tuân thủ pháp luật của nước đó:VD Luật
đầu tư
- Hình thức này thường mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao.
- Tỷ lệ vốn quy định, vốn phân chia quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ đầu tư. Tỷ lệ vốn góp phải
tuân thủ theo Luật đầu tư của nước sở tại.
- Thu nhập chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh.

- Hiện tượng đa cực và đa biên trong FDI là hiện tượng đặc thù, không chỉ gồm nhiều bên với tỷ
lệ góp vốn khác nhau mà còn các hình thức khác nhau của Tư bản tư nhân và tư bản nhà nước
cũng tham gia.
- Tồn tại hiện tượng 2 chiều trong FDI một nước vừa nhận đầu tư vừa thực hiện đầu tư ra nước
ngoài nhằm tận dụng lợi thế so sánh giữa các nước.
- FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng mới hay mua lại một phần hoặc toàn bộ
doanh nghiệp đang hoạt động, thông qua việc mua cổ phiếu để thông tin xác nhận.
1.1.3.Vai trò
a. Đối với việc giải quyết việc làm cho người lao động
Thông qua hoạt động đầu tư, các doanh nghiệp FDI góp phần giải quyết việc làm cho
người lao động. Các doanh nghiệp FDI trực tiếp tạo việc làm thông qua việc tuyển dụng lao
động ở nước sở tại. Bên cạnh việc làm này, doanh nghiệp FDI còn gián tiếp tạo việc làm
4
thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp
vệ tinh cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khu vực kinh tế này.
b. Đối với sự phát triển của hàng hóa sức lao động
Ngoài tác động tạo việc làm cho người lao động, FDI còn đóng góp tích cực vào việc
nâng cao chất lượng lao động và phát triển nhân lực ở nước tiếp nhận đầu tư. FDI làm thay
đổi cơ bản năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua hoạt động đào tạo
và quá trình làm việc của lao động.
c. Đối với sự phát triển của thị trường lao động
Bên cạnh những tác động tích cực trong việc giải quyết việc làm cho người lao động cũng như
sự phát triển nguồn nhân lực, thông qua các hoạt động của mình, đầu tư FDI còn góp phần
thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động.
d. Đối với chuyển giao công nghệ
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được
phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý
thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một
nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích
lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn.

1.2. Chính sách thu hút FDI của Trung Quốc
1.2.1. Các chính sách cơ bản đã thực hiện để thu hút FDI của Trung Quốc
Năm 1979 đánh dấu việc Trung Quốc mở cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Kể từ đó đến nay, tình hình thu hút FDI tại Trung Quốc đã có những biến chuyển mạnh mẽ.
Để làm được điều này chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số chính sách cơ bản để thu hút
FDI, đó là:
- Chính sách phát triển ngành sản xuất: Trong từng giai đoạn, Chính Phủ Trung Quốc
ban hành những quy định hướng dẫn đầu tư đối với thương nhân nước ngoài và danh mục
hướng dẫn về ngành sản xuất để thu hút FDI.
- Chính sách phát triển vùng lãnh thổ: Chính phủ Trung Quốc chủ yếu thông qua các
biện pháp như thành lập khu kinh tế đặc biệt, khu phát triển khoa học kỹ thuật và mở cửa
các thành phố ven biển, tạo điều kiện thuận lợi và tập trung thu hút FDI vào đó.
- Chính sách chi viện về tài chính đối với các xí nghiệp đầu tư nước ngoài:
5
+ Xí nghiệp đầu tư tại Trung Quốc có nhu cầu về vốn căn cứ theo quy định của pháp luật
được vay vốn của các ngân hàng tại Trung Quốc. Thời hạn, lãi suất và phí vay về cơ bản
áp dụng như các xí nghiệp của Trung Quốc
+ Xí nghiệp nước ngoài khi muốn vay vốn tại Trung Quốc được các ngân hàng thương mại
của Trung Quốc bảo lãnh. Các khoản tiền vốn ngoại tệ của các đơn vị này có thể dùng
để thế chấp vay vốn.
+ Cho phép xí nghiệp nước ngoài đầu tư dùng tài sản của họ ở hải ngoại để thế chấp vay
vốn tại các chi nhánh ngân hàng Trung Quốc ở nước ngoài.
+ Các xí nghiệp nước ngoài ở Trung Quốc nếu có đủ tiêu chuẩn được xin phép phát
hành cổ phiếu.
+ Căn cứ theo nguyên tắc chủ động và thoả đáng, Chính phủ Trung Quốc cung cấp sự
đảm bảo về rủi ro chính trị, bảo hiểm về thực hiện hợp đồng, bảo hiểm về bảo lãnh đối
với những hạng mục đầu tư trọng điểm trong các lĩnh vực năng lượng , giao thông mà
chính phủ khuyến khích đầu tư.
- Ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Trung Quốc ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài

như: như Luật xí nghiệp chung vốn kinh doanh giữa Trung Quốc với nước ngoài của
nươc Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Điều lệ chi tiết thi hành Luật Xí nghiệp chung vốn
kinh doanh giữa Trung Quốc với nước ngoài: Luật xí nghiệp do nước ngoài đầu tư, các
quy định và ưu đãi về thuế, ưu đãi về vay vốn đầu tư, về quyền sử dụng đất….
1.2.2. Các giai đoạn thực hiện
1.2.2.1. Giai đoạn thăm dò (1979-1985)
Do Trung Quốc có một thời gian dài đóng cửa bài ngoại nên đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Trung Quốc trong giai đoạn đầu này chỉ mang tính thăm dò, mức độ chậm chạp, quy mô không
lớn. Chủ yếu là các dự án đầu tư vào vùng duyên hải của các nhà tư bản vừa và nhỏ ở Hồng Kông,
Ma Cao. Các nhà đầu tư chủ yếu đầu tư vào các công trình nhà hàng, khách sạn thu lợi tương đối
cao. Hầu hết các hạng mục quy mô nhỏ, kỹ thuật thấp, kỳ hạn quay vòng vốn ngắn. Tính tới cuối
năm 1985, Trung Quốc đã thu hút được 6.321 hạng mục, với số vốn đầu tư thực tế là 4,72 tỷ USD.
6
Hầu hết các hạng mục sử dụng nhiều lao động vào những ngành gia công cấp thấp hoặc trung
bình. Mục đích của nhà đầu tư lúc đó là lợi dụng sức lao động rẻ ở Trung Quốc.
1.2.2.2. Giai đoạn phát triển ổn định (1986-1991)
Đầu năm 1986, Trung Quốc có sự điều chỉnh. Chiến lược thu hút FDI được cựu Tổng bí thư
Đảng Cộng Sản Trung Quốc Triệu Tử Dương gọi là “lưỡng đầu tại ngoại”, tức là dựa vào bên
ngoài cả về cung đầu vào lẫn thị trường đầu ra. Với chiến lược này, Trung Quốc quyết định lấy
mục tiêu kinh tế loại hình hướng ra bên ngoài là kết hợp công thương, lấy xây dựng công nghiệp
làm chủ, lấy trọng điểm từ việc trải ra kinh doanh chuyển hướng cơ bản sang nắm sản xuất, nâng
cao trình độ để đạt hiệu quả kinh tế. Đây là quyết định có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển
kinh tế ở Trung Quốc. Chính sách này rất khác so với chính sách của nhiều nước công nghiệp hoá
mới (NICs) là thu hút FDI vào sản xuất thay thế nhập khẩu. Đặc điểm của Trung Quốc là đồng
thời chuyển đầu tư nước ngoài từ thay thế nhập khẩu sang hướng về xuất khẩu đồng thời vẫn thực
hiện công nghiệp hoá. Đặc điểm này đã làm cho các nhà đầu tư chú ý.
Bảng 2.1: Nguồn
vốn FDI
vào
T

r
un
g

Quốc
giai
đoạn 1986

1991
Năm 1986 1987 1988 1989 1991
Số vốn 1,87 2,31 3,19 3,39 4,4
(Đơn vị: tỷ USD)
(Nguồn: Bộ Thương mại - Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc)
Năm 1991, Trung Quốc đã thông qua việc khống chế vĩ mô, kết hợp chặt chẽ chính sách ưu
đãi trong thu hút vốn nước ngoài và chính sách ngành nghề của đất nước, khuyến khích có trọng
điểm đầu tư nước ngoài vào các hạng mục theo hướng phù hợp với chính sách ngành nghề, các
hạng mục phải có quy mô tương đối lớn và có kỹ thuật tiên tiến. Đầu tư nước ngoài ngày càng
phát triển vững chắc hơn. Theo báo cáo điều tra của Cục mậu dịch Hồng Kông, từ năm 1979 -
1991, Trung Quốc đã phê chuẩn 12.100 hạng mục vốn nước ngoài, vốn lợi dụng thực tế đạt 19,9
tỷ USD.
Nhìn chung, giai đoạn 1984 - 1991, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc phát triển ổn
định, có sự tăng trưởng cao. Đặc điểm chủ yếu của đầu tư là các hạng mục mang tính sản xuất
7
ngày càng tăng, (riêng năm 1991 chiếm trên 90%). Các hạng mục mang tính kỹ thuật tiên tiến và
thuộc loại hình xuất khẩu ngày càng nhiều.
1.2.2.3. Giai đoạn phát triển mạnh (1992-1993)
Bước sang thập kỷ 90, Trung Quốc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư ngày càng phù hợp
với yêu cầu và đòi hỏi của kinh tế thị trường, mở rộng thêm các lĩnh vực đầu tư, quyết định đẩy
nhanh sự phát triển của ngành nghề thứ ba và đặc biệt là mở rộng thị trường nội địa. Các nhà đầu
tư đã nhìn thấy thị trường nội địa rất tốt, tiềm lực rất lớn, do vậy họ đã đầu tư ồ ạt vào thị trường

trong nước.
Nguồn FDI trong 2 năm đến từ hơn 120 nước và khu vực. Tốc độ tăng trưởng của các nước
phương Tây tăng nhanh. Trong đó các công ty xuyên quốc gia (TNCs), các nhà tư bản từ 3 cường
quốc Mỹ - Nhật - EU ngày càng tăng cường số lượng đầu tư vào Trung Quốc.
Do đầu tư tăng cao đã gây nên những cơn sốt đầu tư, gây ra tình trạng rối loạn về bất động
sản, về mở khu chế xuất, khu khai thác kinh tế kỹ thuật. Đầu tư tăng cao đã làm cho nền kinh tế
trở nên quá nóng. Năm 1992, kinh tế tăng trưởng 12%, năm 1993 tăng 13,4%. Tốc độ tăng trưởng
này đã kéo theo rối loạn về tài chính tiền tệ, tổng cung và tổng cầu mất cân bằng ảnh hưởng đến
lạm phát.
Năm 1992, 1993, tuy đầu tư tăng trưởng cao nhưng tỷ trọng kim ngạch sử dụng thực tế trong
kim ngạch hiệp định mỗi năm là 18,9% và 24,7%, thấp hơn so với mấy năm trước đó. Tình trạng
này xẩy ra một phần do ở nhiều địa phương đã mù quáng đưa các hạng mục đầu tư mà tiền vốn
đồng bộ trong nước kèm theo không đủ, thiết bị cơ sở hạ tầng không theo kịp, nguyên liệu, nhiên
liệu, cung ứng không đủ.
Nhìn chung, FDI những năm 1992 - 1993 tăng trưởng với tốc độ cao ở Trung Quốc. Đặc
trưng cơ bản của nó là mở rộng khu vực đầu tư, mở rộng ngành nghề, mở rộng quy mô dự án, cải
thiện kết cấu đầu tư, kết cấu ngành nghề có sự chuyển biến cao cấp hoá.
1.2.2.4. Giai đoạn điều chỉnh (từ năm 1994 đến nay)
Trước tình trạng FDI tăng trưởng quá nóng trong giai đoạn 1992 - 1993, từ năm 1994, Chính
phủ Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh chiến lược thu hút FDI theo hướng:
+ Đưa tiền vốn vào từ công nghiệp gia công thông thường chuyển sang các ngành nghề cơ sở,
ngành nghề tập trung nhiều tiền vốn và kỹ thuật.
8
+ Từ tiếp nhận những hạng mục nhỏ chuyển sang tiếp nhận những hạng mục lớn và vừa.
+ Từ thu hút tiền vốn ngành nghề chuyển sang thu hút tiền vốn lưu thông quốc tế.
+ Từ xây dựng doanh nghiệp mới là trọng tâm chuyển sang cải tạo những doanh nghiệp cũ.
+ Từ việc đưa đầu tư vào đối tượng bị động chuyển sang đưa vào đối tượng chủ động, có lựa
chọn, chú trọng hơn đến chất lượng của đầu tư.
Chính sách điều chỉnh đã làm dịu tình trạng kinh tế quá nóng của Trung Quốc trong 2 năm
1992 - 1993. Nhờ điều chỉnh mà đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc đã có sự chuyển

biến rõ rệt từ số lượng sang chất lượng.
Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 mà luồng
vốn FDI vào Trung Quốc có sụt giảm trong hai năm 1998, 1999 khiến Trung Quốc đã tiến hành
một loạt các biện pháp nhằm tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư như: duy trì ổn định
tỷ giá đồng NDT, duy trì tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, tiếp tục đầu tư cải thiện cơ sở hạ
tầng, lựa chọn những hạng mục đầu tư có hiệu quả cao, nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật
của các hạng mục.
T11/2001 do tác động của việc gia nhập vào WTO cùng với việc nỗ lực cải thiện môi
trường đầu tư Trung Quốc đã đạt được một số thành tựu đáng ngưỡng mộ:
+ Trung Quốc đã trở thành điểm đến triển vọng cho các nguồn vốn nước ngoài và các tập
đoàn đa quốc gia và là nước được coi là địa điểm thu hút FDI hấp dẫn nhất
Theo báo cáo của Hội nghị Đầu tư và Thương mại Liên hợp quốc (UNCTAD) T10/2012,
Năm 2011, Mỹ nhận được 227 tỷ USD FDI, trong khi Trung Quốc nhận được 116 tỷ USD. Đến
năm 2012, FDI toàn cầu sụt giảm nhưng Trung Quốc đã vượt qua Mỹ để trở thành điểm đến số 1
với nhà đầu tư thế giới. Theo đó, nửa đầu năm 2012, nước này nhận được 59,1 tỷ USD vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), giảm nhẹ so với 60,9 tỷ USD cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, Mỹ còn
có mức giảm sâu hơn với 39%, xuống còn 57,4 tỷ USD.
+ Trung Quốc thành công trong việc nắm bắt cơ hội dịch chuyển và cơ cấu lại sản xuất toàn
cầu thu hút 1 nguồn vốn lớn FDI vào lĩnh vực sản xuất, khiến cho Trung Quốc trở thành một trong
những nôi sản xuất trọng yếu nhất trên thế giới và trở thành công xưởng thế giới
1.2.3. Những nhân tố thu hút FDI của Trung Quốc
9
Trung Quốc là một mảnh đất đầu tư mầu mỡ đối với các nhà đầu tư nước ngoài vì những lí do
sau đây:
1.2.3.1 Kinh tế tăng trưởng mạnh
Trung Quốc là một thị trường đầy tiềm năng, đặc biệt khi các thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ
đã tương đối bão hoà. Tính theo ngang giá sức mua PPP, Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai
trên thế giới, chỉ sau Mỹ và người ta dự đoán quy mô của thị trường này sẽ vượt Mỹ vào năm
2020. Cho đến nay, tương ứng với các thời kỳ, Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng
trưởng, là đất nước tăng trưởng nóng và giữ vững ổn định tăng trường qua rất nhiều cuộc khủng

hoảng tài chính toàn cầu
1.2.3.2 Tiềm lực thị trường to lớn
Với số dân đông nhất thế giới (1,3 tỉ người), Trung Quốc là một thị trường to lớn đầy hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài lợi thế là một thị trường tiêu dùng khổng lồ, Trung Quốc
còn có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú.
1.2.3.3. Giá thành lao động và giá thành đất đai thấp
Với hơn 1,3 tỷ dân, hàng năm Trung Quốc cung cấp một nguồn lao động dồi dào cho sản xuất
và lưu thông. Hơn nữa, giá thành lao động lại rẻ. Tiền lương bình quân ở Trung Quốc bằng 1/10
các nước NICs và bằng 1/30 của Nhật, Mỹ và một số nước tư bản phát triển. Bên cạnh giá lao
động rẻ, giá cả đất đai để sử dụng xây dựng nhà máy, doanh nghiệp ở Trung Quốc cũng rất rẻ, chỉ
10
bằng 1/30 ở Đài Loan. Giá thành lao động và giá đất đai thấp giúp hạ giá thành sản phẩm, nâng
cao sức cạnh tranh, thu được nhiều lợi nhuận, kích thích các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào
Trung Quốc.
1.2.3.4. Trung Quốc gia nhập WTO
Tháng 11 / 2001, sau một quá trình đàm phán kéo dài trong khuôn khổ WTO, Trung Quốc đã
trở thành thành viên chính thức của WTO, một sự kiện quan trọng trong khuôn khổ hệ thống
thương mại toàn cầu. Sự kiện này là hồi chuông mới nhất và vang xa nhất báo hiệu sự xuất hiện
của Trung Quốc với tư cách một cường quốc kinh tế và chính trị đang lên.
Sự kiện này làm diễn ra một số thay đổi nhất định trong toàn bộ hệ thống quan hệ kinh tế thế
giới. Hàng xuất khẩu của Trung Quốc trong 15 năm qua đã tăng 9 lần còn nhập khẩu tăng 5 lần.
Về kim ngạch ngoại thương, Trung Quốc hiện đứng thứ 7 thế giới và dự kiến nước này sẽ nắm vị
trí cao hơn nữa.
11
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC
2.1. Những bài học thành công trong thu hút FDI tại Trung Quốc
2.1.1. Xây dựng đặc khu kinh tế:
Trung Quốc có thể nói là nền kinh tế thành công nhất trong việc xây dựng các đặc khu kinh
tế nhằm khuyến khích đầu tư. Mục tiêu xây dựng các đặc khu kinh tế của Trung Quốc là thu hút
công nghệ tiên tiến của nước ngoài, nâng cao trình độ kỹ thuật, thúc đẩy xuất khẩu và mở rộng

quan hệ với nước ngoài, phát triển kinh tế trong nước. Năm 1980, Trung Quốc chính thức thành lập
tại khu vực này bốn đặc khu kinh tế (ĐKKT): Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu tại tỉnh Quảng Đông và
đặc khu Hạ Môn tại tỉnh Phúc Kiến. Đến năm 1988, để đáp ứng nhu cầu mở cửa đối ngoại, Trung Quốc đã
thành lập tỉnh đảo Hải Nam và toàn tỉnh đã trở thành đặc khu kinh tế thứ năm khiến cho quy mô các đặc
khu ngày càng mở rộng.
Lý do thành công của các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc:
- Có chính sách nhất quán và kiên định trong việc phát triển các ĐKKT. Điều này đã được
Chủ tịch Giang Trạch Dân tuyên bố “Quyết tâm phát triển các đặc khu kinh tế của Trung ương
không thay đổi, chính sách của Trung ương đối với đặc khu kinh tế không thay đổi. Đặc khu kinh
tế không những phải tiếp tục phát huy mà còn cần phát huy hơn nữa vai trò “cửa sổ”, vai trò “thí
điểm”, vai trò “xung kích” của mình”.
- Được áp dụng những chính sách kinh tế và thể chế quản lý kinh tế đặc thù, không cấp ngân
sách mà là tạo cơ chế, trong đó có các công cụ khuyến khích thông thoáng hơn so với các nước
khác cho các nhà đầu tư nước ngoài cùng với cơ chế tự chủ cao đi đôi với việc làm tốt khâu quản
lý vận hành đặc khu.
- Địa điểm lựa chọn xây dựng các ĐKKT có nhiều lợi thế để thu hút đầu tư cũng là một nhân
tố hết sức cơ bản quyết định sự thành công của các ĐKKT. Đó là các khu vực thuận lợi ở ven
biển, có thể xây dựng cảng nước sâu và sân bay hiện đại, nối thông với quốc tế và nội địa.
- Lựa chọn được loại hình kinh tế phù hợp với mục tiêu xây dựng ĐKKT. Đó là mô hình
kinh tế tổng hợp bao gồm các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, tài chính, kết hợp
cân đối giữa các ngành nghề, trong đó mỗi đặc khu đều hướng vào một số ngành nghề trọng điểm,
dựa trên lợi thế riêng của mình.
- Xác định rõ chức năng “kép” của các ĐKKT: vừa là “cửa sổ” thu hút vốn, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý của nước ngoài, vừa là “cầu nối” giữa thị trường nội địa và thị trường quốc tế,
thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển của các vùng kinh tế kém phát triển hơn.
12
2.1.2. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư
2.1.2.1. Cải thiện môi trường đầu tư “mềm”
Môi trường đầu tư “mềm” là toàn bộ cơ chế, chính sách có liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và quá trình phát triển của hoạt động đầu tư nước

ngoài. Bởi lẽ đó, nó được coi là một trong những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến khả năng thu
hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Sự thành công trong thu hút FDI của Trung Quốc trong thời gian
qua có một phần đóng góp mang tính quyết định của việc hoàn thiện môi trường đầu tư mềm này.
2.1.2.2. Cải thiện hệ thống luật pháp:
Trung Quốc đã ban hành hơn 500 văn bản bao gồm các bộ luật và pháp quy liên quan đến quan hệ
kinh tế đối ngoại và đầu tư trực tiếp, tương đối phù hợp với đòi hỏi của những quan hệ mở trong nền kinh
tế thị trường. Chúng được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản là:
- Bình đẳng cùng có lợi, nghĩa là phải có lợi cho việc xây dựng hiện đại hoá của Trung Quốc, đồng
thời các nhà đầu tư cũng thấy được lợi ích của mình. Nhà nước Trung Quốc bảo vệ vốn đầu tư, các lợi
nhuận thu được và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư.
- Tôn trọng tập quán quốc tế: các nhà đầu tư có quyền tự chủ tương đối lớn trong sản xuất kinh
doanh. Họ có thể áp dụng các phương thức quản lý phổ biến trên thế giới, không bị bó buộc bởi thể chế
quản lý hiện hành của Trung Quốc.
2.1.2.3. Các ưu đãi tài chính
Các ưu đãi tài chính được coi là đòn bẩy trực tiếp vì nó liên quan trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà
đầu tư. trong những năm qua, Trung Quốc rất quan tâm đến việc thiết lập cơ chế ưu đãi tài chính cho các
nhà đầu tư nước ngoài, cụ thể là:
- Ưu đãi về khu vực đầu tư:
Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xây dựng ở đặc khu kinh tế và các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài mang tính chất sản xuất xây dựng ở khu khai phát tại 14 thành phố ven biển được giảm thuế thu
nhập 15% theo tỷ lệ thuế.
- Ưu đãi về kỳ hạn kinh doanh:
Đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất, nếu kỳ hạn kinh doanh trên 10
năm, tính từ năm bắt đầu có lãi, năm thứ nhất và năm thứ hai họ được miễn thuế thu nhập, từ năm thứ 3
đến năm thứ 5 họ được giảm một nửa thuế thu nhập.
- Ưu đãi dành cho hành vi tái đầu tư.
+ Đãi ngộ dành cho hành vi tái đầu tư thông thường: người đầu tư nước ngoài dùng số lợi nhuận thu
được của xí nghiệp để tái đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp đó, hoặc đầu tư để xây dựng doanh nghiệp
13
khác, nếu kỳ hạn kinh doanh không dưới 5 năm thì được trả lại 40% thuế thu nhập đã nộp với phần tái đầu

tư.
+ Ưu đãi dành cho hành vi tái đầu tư đặc biệt: các nhà đầu tư tái đầu tư xây dựng ở một số lĩnh vực
đặc biệt như mở rộng xí nghiệp có kỹ thuật tiên tiến, mở rộng xí nghiệp xuất khẩu sản phẩm hoặc đầu tư
cho các hạng mục xây dựng cơ bản và mở mang nông nghiệp trong đặc khu kinh tế Hải Nam thì có thể
được trả lại toàn bộ số thuế thu nhập đối với phần tái đầu tư.
Từ tháng 1 / 1994, nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Trung Quốc đã tiến hành cải cách về thuế ở một số mặt
sau:
- Thực hiện một chính sách thuế thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế nhằm đảm bảo sự bình
đẳng về thuế, thúc đẩy cạnh tranh, thuế đánh không phân biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp có vốn FDI.
- Thay thế thuế doanh nghiệp bằng thuế giá trị gia tăng và đơn giản hóa cơ cấu thuế suất.
- Giảm thuế thu nhập đánh vào các doanh nghiệp để kích thích sản xuất kinh doanh phát triển. Mở
rộng diện thu thuế thu nhập cá nhân.
- Xóa bỏ dần các ưu đãi miễn giảm thuế và chuyển sang hình thức tài trợ cho các trường hợp đặc biệt
cần thiết bằng chi ngân sách.
- Bổ sung một số loại thuế mới như thuế tài nguyên, thuế sở hữu. Hiện nay, Trung Quốc đang đi vào
xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng và tự do.
Những chính sách ưu đãi về thuế tuy đôi lúc có bộc lộ những yếu điểm nhưng đã tỏ rõ tác dụng trong
việc thu hút vốn bên ngoài, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại ở Trung Quốc.
2.1.2.4. Cải thiện môi trường đầu tư “cứng”
Để tạo sức hấp dẫn với các nhà đầu tư, Trung Quốc dùng vốn ngân sách hoặc vốn vay để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng theo thứ tự ưu tiên vùng theo kiểu bậc thang, trước hết ở những vùng có điều kiện
thuận lợi rồi tiếp đến là những vùng khó khăn hơn.
Một biện pháp khác là huy động vốn ứng trước từ những người sẽ sử dụng công trình hoặc hưởng lợi
trực tiếp từ công trình với phương châm “Mượn gà đẻ trứng”. Các nhà đầu tư theo kiểu này sẽ được thuê
công trình với những điều kiện ưu đãi nhất định. Nhiều công trình hạ tầng ở các ĐKKT Trung Quốc đã
được xây dựng theo phương thức này.
Nhờ mạnh dạn sử dụng vốn ngân sách cũng như triệt để tận dụng các nguồn vốn để đầu tư vào xây
dựng cơ sở hạ tầng mà Trung Quốc đã tạo lập được một hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hiện đại, tăng

cường sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư.
14
2.1.2.5. Chính sách hợp lý trong đa dạng hoá nguồn đầu tư
a. Đối với Hoa kiều
Ngay từ khi thực hiện chính sách mở cửa, chính phủ Trung Quốc đã sớm nhận ra tiềm lực to lớn của
bà con Hoa kiều. Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 57 triệu Hoa kiều đang sinh sống tại nhiều vùng
lãnh thổ khác nhau. Hoa kiều không chỉ mạnh về tiềm lực kinh tế mà còn rất thành đạt trong khoa học kỹ
thuật. Ở bất cứ nơi nào, cộng đồng Hoa kiều cũng luôn chứng tỏ được vị trí và vai trò của mình trong xã
hội. Thêm vào đó, người dân Trung Quốc có tinh thần dân tộc rất cao, nên Hoa kiều sẵn sàng đem vốn đầu
tư giúp kinh tế đất nước mình phát triển.
• Những chính sách khuyến khích đầu tư của Hoa kiều bao gồm:
+ Người đầu tư là Hoa kiều có thể đầu tư trong các tỉnh, các khu tự trị, thành phố trực thuộc, ĐKKT của
Trung Quốc.
+ Có thể mở các doanh nghiệp “ba vốn”, triển khai mậu dịch bồi hoàn, mua cổ phiếu, chứng khoán doanh
nghiệp.
+ Khích lệ các nhà đầu tư Hoa kiều mở các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm, các doanh nghiệp kỹ thuật
tiên tiến và có những ưu đãi tương ứng.
+ Có thể đầu tư bằng cách trao đổi tiền tệ tự do, các thiết bị máy móc hoặc các hiện vật khác.
+ Nhà nước Trung Quốc bảo vệ tài sản, quyền sở hữu công nghiệp, lợi nhuận thu được của các nhà đầu tư
Hoa kiều. Các nhà đầu tư có thể chuyển nhượng, thừa kế theo luật pháp.
+ Nhà nước không thực hiện quốc hữu hoá, không trưng thu tài sản của các nhà đầu tư Hoa kiều.
+ Các doanh nghiệp Hoa kiều về nước đầu tư được hưởng chính sách ưu đãi thuế: 2 năm đầu được miễn
thuế, 3 năm sau giảm một nửa.
+ Các doanh nghiệp Hoa kiều nhập khẩu các thiết bị máy móc, phương tiện xe cộ trong sản xuất và các
thiết bị làm việc, mà doanh nghiệp cần trong tổng mức đầu tư của họ, cũng như các phương tiện giao
thông và đồ dùng sinh hoạt với số lượng hợp lý cần thiết trong thời gian công tác, miễn nộp thuế quan
nhập khẩu, thuế thống nhất công thương, miễn giấy phép nhập khẩu.
+ Các doanh nghiệp Hoa kiều nhập khẩu nguyên vật liệu, nhiên liệu, linh kiện rời, linh kiện phụ kiện, linh
kiện đồng bộ, sử dụng vào sản xuất, xuất khẩu sản phẩm được miễn thuế nhập khẩu, thuế công thương
thống nhất, miễn giấy phép nhập khẩu. Nếu tiêu thụ các linh kiện này ở trong nước phải làm bổ sung các

thủ tục nhập khẩu và bù thuế.
+ Có thể thế chấp tài sản doanh nghiệp đầu tư để vay vốn trong và ngoài nước.
+ Việc xác định thời hạn kinh doanh do Hội đồng quản trị hữu quan các bên bàn bạc.
15
+ Có thể uỷ thác cho bạn bè người thân làm đại diện cho họ. Có thể thành lập thương hội của đồng bào
Hoa kiều.
+ Có thể mời trọng tài của Trung Quốc hoặc Hoa kiều giải quyết các vụ tranh chấp.
b. Đối với các công ty xuyên quốc gia (Trans National corporations-TNCs)
Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) là các công ty được thành lập do vốn đóng góp của một nước
và địa bàn hoạt động của nó được triển khai ở nhiều nước. Với phương châm “Lấy thị trường đổi lấy kỹ
thuật”, “Lấy thị trường đổi lấy vốn”, “Lấy thị trường để phát triển”, Trung Quốc quyết định nhường một
phần thị trường trong nước cho các nhà đầu tư nước ngoài để đổi lấy sự đầu tư lớn hơn nữa. Những chính
sách mà Trung Quốc áp dụng để thu hút các TNCs bao gồm:
- Giảm dần chế độ ưu đãi, cung cấp đãi ngộ quốc dân cho các nhà đầu tư nước ngoài để họ tiến hành
cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước trên cơ sở bình đẳng và công bằng.
- Các quyền hợp pháp của các nhà đầu tư được bảo vệ. Lợi nhuận của họ được chuyển ra nước
ngoài.
- Các doanh nghiệp chung vốn với TNCs được giao quyền độc lập và tự chủ trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh.
- Đơn giản hóa các thủ tục đầu tư.
- Các nhà đầu tư được tiêu thụ một phần sản phẩm của mình trên thị trường Trung Quốc.
- Trung Quốc đã chú ý tăng cường vai trò của chính phủ trong cơ chế thị trường. Nhà nước Trung
Quốc đã thiết lập và phát triển hệ thống thị trường, đặt ra các quy tắc cạnh tranh công bằng và hợp lý làm
giảm đi sự biến động của các loại thị trường.
- Phát triển thị trường các yếu tố sản xuất, phá vỡ sự chia cắt và bao vây giữa các ngành, các khu
vực, hình thành thị trường lớn thống nhất, mở cửa, cạnh tranh có trật tự.
- Thiết lập cơ chế giá, chủ yếu do thị trường hình thành, nới lỏng giá dịch vụ và các mặt hàng có tính
chất cạnh tranh. Xoá bỏ chế độ hai giá đối với tư liệu sản xuất, thị trường hoá giá cả các yếu tố sản xuất.
- Phát triển thị trường hàng hoá về tư liệu sản xuất, hàng công nghiệp tiêu dùng, các mặt hàng nông
sản lớn, tạo ra mạng lưới thị trường hàng hoá kết hợp giữa lớn, vừa và nhỏ, cùng tồn tại nhiều hình thức

kinh tế và phương pháp kinh doanh. Chống cạnh tranh không chính đáng như sản xuất tiêu thụ hàng giả,
hàng kém phẩm chất.
- Phát triển hoàn thiện thị trường tiền tệ: phát triển trái phiếu, cổ phiếu, hình thành thị trường chứng
khoán. Trung Quốc đã tiến hành thử nghiệm ở Thượng Hải, Thâm Quyến từ năm 1987, cho phép các ngân
hàng nước ngoài vào tự do cạnh tranh, ngăn chặn các hoạt động tập hợp vốn trái phép.
16
- Từng bước hình thành thị trường lao động: coi trọng việc khai thác, lợi dụng và phân phối hợp lý
nguồn nhân lực. Mở rộng và sắp xếp việc làm cho lao động thành thị, khuyến khích nhân công dư thừa ở
nông thôn từng bước chuyển sang các ngành phi nông nghiệp và di chuyển có trật tự giữa các vùng. Vận
dụng các biện pháp kinh tế để điều tiết cơ cấu việc làm.
- Phát triển thị trường nhà đất: thực hiện chế độ chuyển nhượng đất đai có bồi thường và có thời hạn.
Thiết lập cơ chế giá về quyền sử dụng đất theo thị trường.
- Phát triển thị trường kỹ thuật và thông tin. Thực hiện chuyển nhượng thành quả kỹ thuật có bồi
thường, thương nghiệp hoá và công nghiệp hoá các sản phẩm tin học.
Tóm lại trong thu hút FDI nói chung, vai trò của Chính phủ không những giảm đi mà còn tăng lên
mạnh mẽ. Vai trò đó đã đặt trọng điểm vào việc quy phạm hành vi thị trường và tác dụng của chính phủ đã
biểu hiện ra thông qua cơ chế thị trường. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất, nguyên nhân của mọi
nguyên nhân dẫn đến việc thu hút FDI thành công của Trung Quốc.
2.1.3. Kết hợp thu hút vốn và thu hút tri thức
Trung Quốc là quốc gia được đánh giá có phương thức "lợi dụng vốn ngoại" một cách hiệu
quả. Quá trình thu hút FDI của quốc gia này có diễn tiến từ "điểm" tới "tuyến", từ "tuyến" tới
"diện", từ Nam lên Bắc, từ Đông sang Tây, từng bước được mở rộng trong các lĩnh vực với tầng
nấc khác nhau, từ giai đoạn chủ yếu đầu tư và các ngành gia công, chế tạo, sử dụng nhiều lao
động đến các ngành có hàm lượng tri thức cao hơn như dịch vụ, bất động sản…
2.2. Những bài học chưa thành công trong thu hút FDI tại Trung Quốc
Thành công trong chính sách thu hút FDI của Trung Quốc là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, khi
nghiên cứu kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc, ta cũng cần nghiên cứu cả những mặt chưa thành
công trong những chính sách đó để rút ra những bài học cần thiết trong việc giảm thiểu những mặt trái của
FDI đối với nước nhận đầu tư.
2.2.1. Hoạt động quản lý nhà nước đối với FDI còn nhiều bất cập

Trong hoạt động thu hút FDI ở Trung Quốc, Trung Quốc đã mạnh dạn thực hiện việc phân cấp
quản lý cho các địa phương. Đây là một việc làm tốt và đã tạo ra không ít thành công cho Trung Quốc,
song cũng chính điều này cũng đã gây ra nhiều bất cập. Đó là việc các địa phương đã đua nhau vượt quyền
hạn của mình, tự đề ra chính sách miễn giảm thuế, tranh giành thu hút đầu tư. Nhiều địa phương cho phép
nhà đầu tư nước ngoài rào đất với số lượng lớn trong tình trạng không xác định dự án. Hiện tượng lãng phí
đất đã gây tổn thất rất lớn cho Trung Quốc. Điều này dẫn đến hiện tượng đầu tư tăng trưởng quá nóng, gây
17
nên những cơn sốt đất vào những năm 1992 - 1993, đồng thời làm ảnh hưởng xấu tới thuế của cả địa
phương và trung ương, gây tâm lý không tốt cho nhà đầu tư nước ngoài.
Cũng do các địa phương đua nhau thu hút đầu tư, chỉ quan tâm tới lợi ích trước mắt, nên họ thường
đánh giá qua loa, đại khái đối với việc thu hút dự án, không cân nhắc kỹ lưỡng những lợi ích lâu dài và
năng lực vốn đồng bộ của Trung Quốc. Điều này dẫn đến tình trạng khi liên doanh cần mở rộng, phía
Trung Quốc thường thiếu tiền đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ thêm vốn, làm thu hẹp dần số cổ
phần của phía Trung Quốc.
Trong quá trình thu hút FDI, do tình trạng lãnh đạo nhiều đầu, quản lý phân tán ở mức độ khác
nhau, chức trách không rõ ràng, các doanh nghiệp của thương gia nước ngoài đã lọt qua khe hở luật pháp,
không kinh doanh chính đáng như: trốn thuế, giả góp vốn.
2.2.2. Tài sản nhà nước bị thất thoát nghiêm trọng
Trong quá trình đánh giá lại tài sản để xác định giá trị cổ phần của cổ đông, các nhà đầu tư nước
ngoài thường đánh giá thấp tài sản của Trung Quốc, đánh giá cao đối với tài sản của họ. Nguyên nhân là
do nắm quyền điều tiết cổ phần, các nhà đầu tư nước ngoài khi nhập khẩu nguyên vật liệu và thiết bị, máy
móc họ thường báo giá cao, ngược lại khi xuất khẩu thành phẩm, bán thành phẩm họ lại báo giá thấp. Hiện
tượng “một cao, một thấp” này có thể làm cho các thương gia nước ngoài dễ dàng biến lợi nhuận của
doanh nghiệp thành của riêng mình và chuyển dời ra bên ngoài, còn doanh nghiệp Trung Quốc bị thua lỗ:
Kỹ thuật thuộc tài sản vô hình, tính so sánh thấp, nên việc đánh giá càng khó khăn. Tài sản vô hình như
loại sản phẩm, nhãn mác, kỹ thuật, mạng lưới thị trường, chế độ quốc tế, đội ngũ công nhân lành nghề
đã không được đánh giá đầy đủ, do vậy, tài sản của Trung Quốc bị thất thoát nghiêm trọng.
2.2.3. Chưa có chính sách thích hợp để bảo hộ thị trường trong nước
Với phương châm “Lấy thị trường đổi lấy kỹ thuật”, “Lấy thị trường đổi lấy vốn”, “Lấy thị trường
để phát triển”, Trung Quốc đã cho thi hành chính sách quy định tỷ lệ tiêu thụ trong nước và ngoài nước về

sản phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay đã xuất hiện tình hình sản
phẩm của một số doanh nghiệp tiền vốn bên ngoài, đặc biệt là những sản phẩm công nghiệp nhẹ tiêu dùng
hàng ngày tiêu thụ ngày càng nhiều trên thị trường Trung Quốc. Việc sản phẩm của doanh nghiệp vốn
nước ngoài nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường khiến cho một số doanh nghiệp trong nước không cạnh
tranh được, buộc phải rút ra khỏi lĩnh vực sản xuất cũ, hoặc giảm bớt thị phần.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nước ngoài thường lợi dụng những nhược điểm của phía Trung
Quốc như thiếu kinh nghiệm, tài sản vô hình ít để dùng nhiều thủ đoạn, ép giá tài sản của phía Trung
18
Quốc, nhất là giá trị tài sản vô hình trong quá trình hợp tác liên doanh, khiến cho lợi ích của các ngành sản
xuất dân tộc bị xâm hại nghiêm trọng.
2.2.4. Các nhà đầu tư nước ngoài khống chế kỹ thuật trong doanh nghiệp liên doanh
Các nhà đầu tư thường giảm đầu tư cho nghiên cứu, phát triển (R&D), làm yếu đi sức sáng tạo của
các doanh nghiệp Trung Quốc. Không chỉ vậy, họ còn có điều kiện chuyển giao kỹ thuật tiên tiến hiện có
hoặc đã phát triển của doanh nghiệp liên doanh đi nơi khác. Các nhà đầu tư còn hạn chế chuyển giao
những kỹ thuật tiên tiến cho Trung Quốc, khống chế kỹ thuật của doanh nghiệp liên doanh, hạn chế khả
năng học tập kỹ thuật của phía Trung Quốc khiến cho Trung Quốc không có cách nào đạt được mục đích
cải tiến kỹ thuật. Đa số những kỹ thuật do FDI mang lại chỉ phù hợp với nhu cầu Trung Quốc, mà không
có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các sản phẩm xuất khẩu được chủ yếu là do giá rẻ, tỷ giá hối
đoái thấp.
Ở các ngành chế tạo đồ điện, máy móc, thiết bị điện tử thông tin, chế tạo nguyên liệu hoá học, sản
phẩm hoá học, sản xuất ô tô, xe máy tuy FDI có mang lại kỹ thuật nhưng phía nước ngoài quản lý rất
chặt và rất ít chuyển nhượng kỹ thuật. Ở đây, mục đích của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các
công ty xuyên quốc gia hùn vốn bằng kỹ thuật không phải để cạnh tranh trên thị trường quốc tế mà nhằm
chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc với lợi nhuận khổng lồ của thị trường này. Do vậy, nếu để Trung Quốc
nắm được kỹ thuật thì họ không còn thị trường to lớn này nữa. Vì vậy, sau hơn 20 năm mở cửa, Trung
Quốc tạo ra được rất ít ngành nghề mũi nhọn có khả năng đứng vững trên thị trường quốc tế.
2.2.5. Chưa thực sự coi trọng chất lượng của FDI
Trong quá trình thu hút FDI, đã có thời gian Trung Quốc chỉ tập trung về số lượng FDI mà không
quan tâm đến chất lượng của nó. Điều này gây không ít ảnh hưởng bất lợi cho nền kinh tế trên nhiều mặt,
trong đó đáng chú ý là:

- Kết cấu ngành nghề không hợp lý, mất cân đối nghiêm trọng. Trong 3 ngành lớn của nền kinh tế
quốc dân, đầu tư vào nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ, trong khi các ngành khác chiếm tỷ trọng rất cao.
- Ô nhiễm môi trường sinh thái. Đây chính là hậu quả trực tiếp của việc coi nhẹ vấn đề bảo vệ môi
trường. Trong nhiều năm thu hút FDI, Trung Quốc đã tiếp nhận nhiều hạng mục gây ô nhiễm môi trường
sinh thái. Các hạng mục gây ô nhiễm chủ yếu là các ngành nhựa, cao su, ngành công nghiệp hoá chất (sơn
dầu, thuốc sâu, thuốc tẩy ), in nhuộm, làm sạch, mạ điện, chế tạo giấy, đồ hoá trang, chế biến thuốc,
khoáng sản, năng lượng…
* Nhận xét chung:
19
Tóm lại, bằng những biện pháp linh hoạt trong việc tạo dựng môi trường pháp lý, chủ động trong
xây dựng cơ sở hạ tầng, đúng đắn trong việc tạo lập chiến lược thu hút FDI, Trung quốc đã rất thành công
trong thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư quan trọng này mặc dù còn một vài hạn chế. Trên thực tế, FDI
đóng vai trò quan trọng trong công cuộc cải cách và phát triển kinh tế Trung Quốc. Không phải ngẫu nhiên
mà có sự trùng lặp giữa sự gia tăng nhanh chóng của FDI với sự tăng trưởng kinh tế tốc độ cao trong
những năm qua. Với đà tăng trưởng như vậy, nhiều chuyên gia dự đoán rằng, thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của
nền kinh tế Trung Quốc.
20
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC
3.1. Những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc
3.1.1. Những nét tương đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc:
 Về tư tưởng văn hoá
Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia đều chịu những tác động tư tưởng, văn hóa lịch sử
truyền thống tương tự nhau. Đây là kết quả của hàng ngàn năm quan hệ gần gũi, giao lưu văn hoá
hay nói đúng hơn là kết quả của hơn một nghìn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc ở Việt
Nam. Cả hai quốc gia cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Khổng giáo do đó cách suy nghĩ, cách
làm của người Việt Nam và người Trung Quốc có nhiều nét tương đồng.
Nho giáo được chủ nghĩa phong kiến Trung Quốc và Việt Nam tôn thờ làm hệ tư tưởng
thống trị. Nho giáo đề cao giáo dục, tri thức, đạo đức, có nhiều ý tưởng tốt đẹp về văn hoá, về
quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Đó là những di sản quí đối
với con người trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, các nhà Nho giáo ghét việc buôn bán, chỉ coi

trọng nông nghiệp. Những điều đó cũng đã gây nhiều cản trở đến quá trình phát triển kinh tế của
hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
 Về thể chế chính trị xã hội
Không giống như các nước láng giềng trong ASEAN và các nước khác trong khu vực, Việt
Nam và Trung Quốc là hai trong số ít các quốc gia trên thế giới không thực hiện chế độ đa
nguyên, đa đảng mà chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo - Đảng Cộng sản. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, hai nước đang hướng tới xây dựng đất nước mình theo con đường XHCN. Hai nước đều đặt
mục tiêu là xây dựng một nền kinh tế thị trường, lấy khu vực kinh tế nhà nước làm trung tâm đóng
vai trò chủ đạo thúc đẩy sự phát triển và phát huy thế mạnh của các khu vực kinh tế khác, nhằm
tạo nên một sức mạnh tổng hợp đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
 Về cải cách kinh tế & trình độ phát triển kinh tế
* Về cải cách kinh tế
Cả hai nước trước khi cải cách kinh tế đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá với sự kiểm
soát quá mức của Trung ương. Sau cải cách, cả hai nước đều chủ trương xây dựng một mô hình
kinh tế khá giống nhau. Hiện nay cả hai nước đều trong quá trình thực hiện mục tiêu chuyển từ
nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
21
Cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc bắt đầu từ năm 1978. Mục tiêu của cuộc cải cách này,
như Hội nghị Trung ương 3 khoá XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra là xây dựng chủ
nghĩa xã hội có đặc sắc Trung Quốc. Đồng thời cho rằng Trung Quốc hiện nay đang ở giai đoạn
sơ cấp của chủ nghĩa xã hội, đã cho phép nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, cho phép sự tồn
tại của xí nghiệp tư nhân và phát triển kinh tế tư hữu, về sau lại nêu lên xây dựng nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa.
Còn cuộc cải cách của Việt Nam thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, thừa nhận Việt Nam hiện nay vẫn chưa phải là chủ nghĩa xã hội, hoặc nói rằng vẫn chưa
đạt đến chủ nghĩa xã hội, chỉ là quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Dù theo cách gọi nào thì cả hai nền kinh tế này đều có những điểm giống nhau sau đây:
- Nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước ở tầm vĩ mô
- Chế độ sở hữu quốc doanh với 2 hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể làm chủ đạo.
- Chế độ phân phối lao động là chính, các hình thức phân phối khác chỉ là hỗ trợ.

Đây là điểm tương đồng nổi bật nhất giữa hai quốc gia, nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc
hoạch định chính sách, đường lối mở cửa và phát triển ngoại thương.
* Trình độ phát triển của nền kinh tế
Trung Quốc ở giai đoạn đầu của cải cách mở cửa cũng có những điểm giống Việt Nam và
hầu hết những nước đang phát triển khác ở Châu Á trong thời kỳ trước cất cánh. Đi lên từ một nền
nông nghiệp lạc hậu, sản xuất manh mún, phân tán, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông sản và
nguyên liệu thô. Thu nhập bình quân đầu người thấp. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng thấp kém.
Công nghiệp chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ, nông nghiệp chiếm ưu thế nhưng lại hết sức lạc hậu. Trình độ
sản xuất thấp kém, lạc hậu nhiều năm so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
* Quan điểm về chính sách phát triển quan hệ thương mại quốc tế
Sau một thời gian dài đóng cửa, Việt Nam cũng giống như Trung Quốc đều nhận thấy rằng
một quốc gia không thể phát triển kinh tế bằng cách đóng cửa, tự lực cánh sinh mà không liên hệ
với bên ngoài. Hơn nữa, mô hình kinh tế cũ mà cả hai nước áp dụng đã chứng minh điều này là
đúng đắn. Vì thế, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên phát
triển mới của đất nước. Đảng và Chính phủ Việt Nam tuyên bố mở cửa hội nhập với thế giới
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, hợp tác,
22
cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và công việc nội bộ của nhau. Trong giai đoạn mới, Việt Nam
xây dựng nền kinh tế theo mô hình “hướng về xuất khẩu” do vậy ngoại thương mà đặc biệt là
hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu được đề cao, coi đó là một trong ba chương trình kinh tế
trọng điểm của đất nước. Hệ thống chính sách pháp luật ngày càng thông thoáng hơn tạo điều kiện
cho phát triển quan hệ thương mại quốc tế.
*Lợi thế so sánh về vị trí địa lý và nguồn nhân công
Nằm trong khu vực tăng trưởng năng động nhất của thế giới, Việt Nam và Trung Quốc đều
có rất nhiều lợi thế về vị trí địa lý để phát triển kinh tế hướng ngoại. Nằm ở cửa ngõ của Đông
Nam Á,Việt Nam còn có rất nhiều lợi thế về vị trí địa lý để phát triển kinh tế hướng ngoại.Việt
Nam là đầu mối giao lưu kinh tế của khu vực Đông Nam Á với các khu vực khác trên thế giới.
Đường bờ biển kéo dài suốt từ bắc xuống nam với nhiều cảng biển quan trọng là những ưu thế
của Việt Nam trong giao thương quốc tế.
Bên cạnh lợi thế so sánh về vị trí địa lý, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có nguồn nhân

công dồi dào, tuy nhiên, nếu xét về quy mô thì Trung Quốc vượt xa Việt Nam. Song nguồn nhân
công của hai nước đều có chung đặc điểm là giá rẻ, thuộc vào loại thấp nhất thế giới. Hàng năm,
ở hai nước có hàng triệu người gia nhập lực lượng lao động. Hầu hết, người lao động của cả hai
nước đều cần cù thông minh, nét đặc trưng của người Á Đông.
3.1.2. Những nét khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc:
Quy mô thị trường, nguồn tài nguyên:
Trung Quốc là một thị trường rộng lớn, nhiều ưu thế về tài nguyên hơn hẳn Việt Nam. Đây là
một quốc gia khổng lồ, có diện tích lớn thứ 3 thế giới, có nguồn tài nguyên phong phú đa dạng
bậc nhất thế giới. Chẳng hạn, TQ đứng đầu thế giới về sản lượng than nguyên khai, xi măng,
bông, vải bông, … Với 1,3 tỷ dân, TQ là một thị trường khổng lồ đầy hứa hẹn
Việt Nam có khoảng 90 triệu dân, diện tích chỉ bằng 1/30 của TQ. Nguồn tài nguyên của
chúng ta khá phong phú song lại không có loại nào có trữ lượng lớn ở tầm cỡ thế giới. Như vậy,
nếu so với TQ về qui mô thì chúng ta chỉ là một nước nhỏ.
Lực lượng Hoa kiều và Việt kiều:
Trung Quốc có một lực lượng đông đảo Hoa kiều sống ở nước ngoài, ước khoảng 57 triệu
người. Bên cạnh đó, tiềm lực của họ lại rất mạnh. Đây là một lực lượng mạnh cả về vốn lẫn khoa
23
học kỹ thuật với nhiều nhà tỷ phú và nhà khoa học đạt giải Nobel. Hơn nữa người Hoa ở nước
ngoài có tinh thần dân tộc rất cao.
Việt Nam có khoảng 3 triệu Việt kiều đang sống ở nước ngoài. Về tiềm năng kinh tế cũng như
trình độ khoa học kỹ thuật không thể bằng Hoa kiều. Hơn nữa, trong số Việt kều ở nước ngoài có
không ít người bỏ đi vì lý do chính trị.
3.2. Thực trạng thu hút FDI ở Việt Nam trong thời gian qua
Tình hình thực hiện FDI: Từ năm 2000, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt
Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi sau ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và tiền tệ châu Á.
Vốn đăng ký năm 2000 đạt 2,5 tỷ USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với
năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, năm 2003 tăng 6% so với năm 2002. Vốn FDI có xu
hướng tăng nhanh từ năm 2004, với tốc độ tăng 45,1% vào năm 2004 và 50,8% vào năm 2005.
Tổng vốn đăng ký thời kỳ 2001-2005 đạt 20,8 tỷ USD.
Năm Số dự án

Vốn đăng ký
(triệu USD)
Tổng số
vốn thực hiện
(triệu USD)
Qui mô bình
quân một dự án
Tổng số 8867 142401,9 29394,9 16,06
2000 391 2838,9 2413,5 7,26
2001 555 3142,8 2450,5 5,66
2002 808 2998,8 2691,0 3,71
2003 791 3191,2 2650,0 4,03
2004 8111 4547,6 2852,5 5,61
2005 970 6839,8 3308,8 7,05
2006 987 12004,0 4100,1 12,16
2007 1544 21347,8 8030,0 13,8
2008 1171 64011,0 11400,0 54,66
2009 839 21480,0 10000,0 25,60
2010 969 18600,0 11000,0 19,20
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê Việt Nam)
Kể từ năm 2006 đến 2008, dòng ĐTNN vào Việt Nam tăng đột biến, hàng năm luôn đạt kỷ lục
so với các năm trước. Năm 2006 vốn FDI đăng ký đạt 12 tỷ USD, năm 2007 đạt 21,3 tỷ USD,
năm 2008 con số này lên tới 71,7 tỷ USD, gấp hơn 3 lần so với năm 2007. Trong 2009 và 2010,
mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, cũng như những
24
vấn đề hậu khủng hoảng, vốn FDI đăng ký vẫn đạt khoảng 23,1 tỷ vào năm 2009 và 18,6 tỷ vào
năm 2010.
Vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỷ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỷ USD, năm 2008 đạt 11,5 tỷ
USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất nhiều so với các năm trước. Trong
năm 2009 và 2010, mặc dù vốn đăng ký giảm nhưng vốn FDI thực hiện vẫn đạt 10 tỷ USD vào

năm 2009 và khoảng 11 tỷ vào năm 2010, với tỷ trọng tương ứng trong tổng vốn đầu tư toàn xã
hội là 25,6% và 25,8%.
ĐỒ THỊ BIỂU THỊ SỐ VỐN FDI ĐĂNG KÝ VÀ GIẢI NGÂN (Giai đoạn 2000-2010)
Đơn vị triệu USD
(Nguồn: Số liệu Tổng Cục Thống Kê Việt Nam)
Nhìn chung, số lượng vốn FDI đăng ký cao với nhiều dự án có quy mô lớn, nhưng còn rất
nhiều vấn đề cần phải xem xét và cân nhắc về cơ cấu đầu tư theo ngành, mức độ cam kết
25

×