MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hiện nay hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra nhiều thời cơ và thách thức với các
nước đang phát triển, trong đó quan hệ thương mại quốc tế của một quốc gia có ý
nghĩa quan trọng. Một quốc gia thiết lập được các quan thương mại tốt với các
quốc gia và tổ chức trên thế giới sẽ góp phần tận dụng được lợi thế so sánh trong
các hoạt động thương mại quốc tế, nâng cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong
nước, giúp mở rộng thị trường, tiếp nhận được các kinh nghiệm của các quốc gia
và tổ chức khác nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đạt được các mục tiêu phát
triển xã hội.
Malaysia được biết đến là một đất nước ổn định, thân thiện và khá phát triển trong
khu vực Đông Nam Á. Nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế bền vững và ổn định đã
đưa Malaysia trở thành một trong những đất nước năng động và giàu có của khu
vực này, chuẩn bị gia nhập hàng ngũ các nước công nghiệp mới. Đây là quốc gia
đã có những chính sách thương mại quốc tế khá thành công trong thời gian gần đây
và thiết lập được các mối quan hệ thương mại tốt đẹp bền vững với các quốc gia và
tổ chức trong khu vực và trên thế giới. Sau khi dành được độc lập (1957), Malaysia
lúc đó là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc
vào Anh, nguồn thu chính là từ xuất khẩu cao su tự nhiên và thiếc. Các chính sách
thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Malaysia được thực hiện từ sau năm
1970 và việc thiết lập quan hệ thương mại quốc tế của Malaysia chỉ thật sự được
thực hiện kể từ năm 1990.
Thành công của Malaysia trong thiết lập các quan hệ thương mại quốc tế có ý
nghĩa quan trọng đối với Việt Nam trong việc học tập kinh nghiệm để có những
định hướng phát triển riêng của quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
2
đang ngày càng diễn ra sâu sắc và nhanh chóng, tìm hiểu kinh nghiệm của
Malaysia là nước đã có những thành công nhất định trong quan hệ thương mại
quốc tế có ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận và thực tiễn đối với Việt Nam nhằm
định hướng phát triển quan hệ thương mại quốc tế một cách thích hợp. Vì vậy,
nhóm em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Quan hệ thương mại quốc tế của Malaysia:
thực trạng phát triển và bài học cho Việt Nam.”
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Từ việc nghiên cứu thực trạng phát triển quan hệ quốc tế của Malaysia, rút ra một
số kinh nghiệm về việc thực hiện các chính sách thương mại quốc tế và thiết lập
các quan hệ quốc tế của Malaysia có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: thực trạng phát triển quan hệ thương mại quốc tế của
Malaysia
- Phạm vi nghiên cứu: những chính sách thương mại quốc tế, phối hợp luật pháp-
chính sách của Malaysia. Thời gian nghiên cứu từ sau khu Malaysia giành được
độc lập đến nay. Tuy nhiên để làm rõ vấn đề nghiên cứu, nhóm tập trung vào làm
rõ quan hệ thương mại quốc tế của Malaysia từ năm 1990 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở những số liệu, bảng biểu thu thập được nhóm chúng tôi đã sử dụng
phương pháp phân tích thực chứng để phân tích về các hoạt động thương mại và
thiết lập quan hệ thương mại quốc tế của Malaysia. Dựa vào kết quả của phân tích
thực chứng,dùng phương pháp phân tích chuẩn tắc đưa ra những kết luận, những
đánh giá của mình về các những vấn đề được đặt ra trong đề tài.
3
5. Kết cấu đề tài:
Tên đề tài: “Quan hệ thương mại quốc tế của Malaysia: thực trạng phát triển và bài
học cho Việt Nam”. Ngoài lời mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, bài viết được kết cấu làm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về quan hệ thương mại quốc tế của Malaysia
Phần 2: Thực trạng phát triển quan hệ thương mại quốc tế của Malaysia
Phần 3: Bài học rút ra cho Việt Nam
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA
MALAYSIA
1.1 Một số khái niệm
- Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và
hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm
đưa lại lợi ích cho các bên. Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát
triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và
xu hướng thuê nhân lực bên ngoài. Việc tăng cường thương mại quốc tế thường
được xem như ý nghĩa cơ bản của "toàn cầu hoá".
(Nguồn: wikipedia.org)
- Quan hệ thương mại quốc tế là sự tương tác giữa các quốc gia về quá trình trao
đổi hàng hoá dịch vụ thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế. muốn có quan hê
Thương mại quốc tế thì một mặt phải khai thác được mọi lợi thế tuyệt đối của đất
nước phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác, phải tính
4
đến lợi thế tương đối có thể được theo quy luật chi phí cơ hội. Phải luôn luôn tính
toán cái có thể thu được so với cái giá phải trả khi tham gia vào buôn bán và phân
công lao động quốc tế để có đối sách thích hợp. Vì vậy để phát triển thương mại
quốc tế có hiệu quả lâu dài cần phải tăng cường khả năng liên kết kinh tế sao cho
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn.
1.2. Tổng quan về Malaysia
- Diện tích: 329.758 km2 thủ đô: Kuala Lumpur
- Dân số: 28 triệu người (ước tính năm 2010), mật độ dân số 86 người/km2
- GDP theo PPP (năm 2010) là 193 tỷ USD, GDP bình quân đầu người:
7000USD/người
- Tôn giáo: Malaysia là một quốc gia đa tôn giáo và đạo Hồi là tôn giáo chính thức
của Malaysia với xấp xỉ 60.4% dân số theo Đạo Hồi; 19.2% theo Phật giáo; 9.1%
theo Ki-tô giáo; và 6.3% theo Hindu giáo. 5% còn lại được tính vào các đức tin
khác.
- Văn hoá: Malaysia là một xã hội đa sắc tộc, đa văn hóa và đa ngôn ngữ, gồm
52% người Malay và các bộ tộc bản xứ khác, 30% người Trung Quốc, 8% người
Ấn Độ. Người Mã Lai, là cộng đồng lớn nhất, được xác định là những tín đồ Hồi
giáo trong Hiến pháp Malaysia. Người Mã Lai đóng vai trò thống trị trong chính trị
và được tính gộp trong một nhóm gọi là bumiputra. Tiếng mẹ đẻ của họ là tiếng
Mã Lai (Bahasa Melayu). Tiếng Mã Lai là ngôn ngữ chính thức quốc gia.
- Chính trị: Malaysia giành được độc lập ngày 31/8/1957 là một liên bang quân
chủ theo bầu cử lập hiến. Quốc gia này có một nền chính trị khá ổn định
- Kinh tế: Malaysia là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên khoáng sản: thiếc, bô
xít, sắt, vàng, dầu lửa… Đất đai phì nhiêu, chủ yếu là đất đỏ và laterit thích hợp
5
trồng những cây có giá trị cao. Điều này giúp Malaysia trở thành nước xuất khẩu
hàng đầu thế giới về cao su, dầu cọ, gỗ… Malaysia đạt được tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhanh chóng và các chỉ tiêu kinh tế cơ bản
rất khả quan nhưng không bị các vấn đề xã hội (như Thái Lan hay Indonesia). Tỷ
lệ lạm phát của quốc gia này có phần khá ổn định, chính phủ tỏ ra khá thành công
trong việc kiềm chế lạm phát. Malaysia có ngành công nghiệp chế tạo phát triển
mạnh, là ngành mang lại ngoại tệ lớn nhất cho đất nước. Malaysia là một nền kinh
tế mở, hội nhập kinh tế quốc tế sâu sắc.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI QUỐC
TẾ CỦA MALAYSIA
2.1. Giai đoạn trước 1970
Những năm đầu sau khi dành độc lập, Sau khi dành được độc lập (1957), Malaysia
lúc đó là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc
vào Anh, nguồn thu chính là từ xuất khẩu cao su tự nhiên và thiếc.
Malaysia đã thực hiện phát triển kinh tế với mục tiêu thay thế nhập khẩu, đây là
thời kỳ tiền chính sách kinh tế mới với mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông
thôn, đẩy mạnh xuất khẩu và định hướng công nghiệp hóa. Malaysia đề ra sách
lược này là nhìn về phương Tây (Anh, Mỹ, Đức, Pháp…) Nhìn chung, các chính
sách thương mại của Malaysia giai đoạn này mang tính bảo hộ nhiều hơn là mở
cửa, chủ yếu hướng nội. Chính phủ đã sử dụng hệ thống bảo hộ thuế quan làm
công cụ khuyến khích khu vực chế tạo. Tuy nhiên trên thực tế chính sách này
không tạo ra được những thay đổi tích cực. Nền kinh tế Malaysia vẫn phụ thuộc
chủ yếu vào xuất khẩu cao su tự nhiên và dầu cọ. . .
Năm 1967, Malaysia cùng 4 nước thành viên khác là Thái Lan, Singapo, Indonesia,
Phillipin đã thành lập nên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN với 3
6
mục tiêu là chống cộng, xây dựng đất nước để hạn chế sự ảnh hưởng của các
cường quốc lớn bên ngoài và phát triển kinh tế. Tuy nhiên các mối liên hệ của
ASEAN trong giai đoạn này còn khá lỏng lẻo và các mối quan hệ thương mại còn
chưa rõ nét.
Nhìn chung, quan hệ thương mại quốc tế của Malaysia không phát triển rõ rệt
trong giai đoạn này.
2.2 Giai đoạn 1970-1989
2.2.1. Bối cảnh:
Bốn quốc gia Châu Á bao gồm Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan đạt
được những bước tiến lớn trong phát triển kinh tế khi có thể duy trì tốc độ tăng
trưởng cao và công nghiệp hóa nhanh giữa thập niên 1960. Các quốc gia này được
thế giới biết đến với cái tên “Bốn con hổ Châu Á” hay “Bốn con rồng nhỏ Châu
Á”.
Trong thập kỷ 1970, Malaysia bắt đầu bắt chước “Bốn con hổ Châu Á”. Với đầu tư
từ Nhật Bản, các ngành công nghiệp nặng nhanh chóng phát triển trong vài
năm. Xuất khẩu của Malaysia trở thành khu vực mang lại tăng trưởng chủ yếu.
Malaysia liên tục đạt mức tăng trưởng GDP hơn 7% với tỷ lệ lạm phát thấp trong
thập niên 1980 và 1990.
2.2.2. Chính sách Thương mại quốc tế của Malaysia
2.2.2.1. Mô hình chính sách :
· Thực hiện mô hình chính sách thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng khai thác lợi thế
về điều kiện tự nhiên và lao động : dệt may, da giầy, gỗ, dầu cọ, cao su là các mặt
hàng xuất khẩu chiến lược.
7
· Bên cạnh đó Malaysia thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch đối với các
ngành công nghiệp non trẻ, bây giờ là 1 trong những sản phẩm xuất khẩu mũi
nhọn:máy giặt, điều hoà,tivi…(công nghiệp chế tạo)
2.2.2.2. Biện pháp thực hiện
- Cho phép áp dụng chế độ khấu hao nhanh đối với các công ty xuất khẩu
chiếm từ 20% giá trị sản lượng trở lên.
Giá trị sử dụng = 10 năm
Giá trị = 10.000USD là giá trị khấu hao 1 năm = 1000 USD.
Khấu hao nhanh 5 năm thì 1 năm = 2000 USD.
Vì trong giai đoạn đầu sẽ giảm bớt gánh nặng thuế, còn phần lợi nhuận để doanh
nghiệp đầu tư tái sản xuất.
- Áp dụng chính sách miễn phí giảm thuế : thuế đầu vào sản xuất và thuế thu
nhập doanh nghiệp đối với các công ty sản xuất và kinh doanh xuất khẩu(cơ
hội để doanh nghiệp giảm giá bán sản phẩm và nâng cao khả năng cạnh
tranh vì thuế đánh bao nhiêu thì cộng vào giá thành sản phẩm.
- Tăng cường việc thành lập các khu chế xuất để khuyến khích thu hút đầu tư
nước ngoài bổ sung nguồn tài chính đổi mới công nghệ đồng thời từng bước
xây dựng thương hiệu cho sản phẩm hàng hoá được sản xuất tại Malaysia.
- Chính phủ Malaysia tiến hành đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ
thống kho hàng miễn phí tại những khu vực có quy mô sản xuất hàng xuất
khẩu lớn, đặc biệt là đối với hàng hoá xuất khẩu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào
điều kiện tự nhiên cần có chế độ bảo quản đặc biệt:rau quả, thuỷ sản… Hệ
thống kho sẽ đảm bảo đầu mối, tiêu thụi sản phẩm kịp thời, đảm bảo chất
lượng sản phẩm.
- Năm 1980, 70% hàng chế tạo xuất khẩu là sản phẩm của các khu chế xuất.
- Áp dụng chính sách bảo lãnh vay và cho vay với lãi suất ưu đãi để hỗ trợ
cho hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu.
8
- Chính phủ xây dựng và đưa ra thực hiện các biện pháp khuyến khích, tăng
cường thu hút đầu tư nước ngoài nhằm thu hút vốn, công nghệ và liên kết
thương hiệu để phát triển khả năng sản xuất hàng xuất khẩu đồng thời từng
bước tạo lập uy tín và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm sản xuất từ
Malaysia ra thị trường thế giới.
- Áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch đối với các ngành công nghiệp non trẻ
chủ yếu thông qua công cụ thuế quan và hạn chế về mặt số lượng. Bên cạnh
đó đối với những sản phẩm làm nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất các
sản phẩm công nghiệp chế tạo hay hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu được áp
dụng miễn giảm thuế nhập khẩu.
Xuất khẩu chủ yếu vào các nước phát triển:Mỹ, Nhật Bản, Tây âu.
2.2.3. Phối hợp luật pháp – chính sách và tác động:
Với chính sách thúc đẩy xuất khẩu như ở trên, khu vực xuất khẩu đã được tự do
hóa thông qua các biện pháp khác nhau bao gồm loại bỏ các yêu cầu cấp phép xuất
khẩu, loại bỏ thuế xuất khẩu và bãi bỏ thuế xuất khẩu đối với một số sản phẩm.
Thuế suất trên nhiều sản phẩm tiêu dùng cũng giảm
Biểu thuế quan của một số quốc gia ASEAN từ năm 1975-1990
Năm Malaysia Singapore Thailand Indonesia
1975 10.25 1.32 13.80 10.02
1980 9.79 0.90 11.18 7.39
1985 9.12 0.72 13.51 5.97
1990 4.78 0.34 11.58 6.92
Nguồn: Kawai
9
Trong giai đoạn này, Malaysia chủ yếu xuất khẩu những mặt hàng chính: cao su,
gỗ, dầu cọ, dầu thô. Những năm 1970 đã cho thấy sự cải thiện bền vững trong lĩnh
vực xuất khẩu bởi tầm quan trọng của dầu mỏ và khí đốt ngày càng tăng mà đây lại
chính là nguồn thu lớn trong xuất khẩu. Theo kết quả đó, tổng tỷ lệ tiết kiệm quốc
gia đã cải thiện 30,6%. Do đó, Malaysia đã có thể để duy trì mức độ tương đối cao
của đầu tư công, mà không duy trì thâm hụt trong tài khoản vãng lai hoặc phải
dùng đến phương thức vaytừ nước ngoài.
Tuy nhiên trong những năm 1980, giá của các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu chính
nhì chung cho thấy một sự xuống dốc liên tục. Qua những báo cáo thể hiện sản
lượng xuất khẩu cao su giảm từ 1215 triệu USD năm 1980 đến 976,84 triệu USD
Mỹ vào năm 1981. Giá cao su tiếp tục không mấy khả quan trong những năm
1990. Khi giá cao su tiếp tục không đem lại lợi nhuận, những người trồng và các
hộ sản xuất nhỏnản chí và chính vì điều này đã không còn khuyến khíchhoạt động
khai thác nữa, đặc biệt làđối với các hộ sản xuất nhỏ, lực lượngsản xuất chiếm gần
80% của các nhà sản xuất cao su của nước. Việc xuất khẩu thiếc còn phải đối mặt
với một tình trạng thảm hại hơn nữa với sự sụt giảm mạnh kim ngạch xuất khẩu
mặt hàng này từ 0,421 tỷ USD trong năm 1985 đến 171,05 triệu USD vào năm
1986. Điều này gây ra bởi vì giá của thiếc đã giảm mạnh từ7,81 USD/ kg (1985)
4,05 USD/kg (1986). Lợi nhuận trong xuất khẩu gỗ cũng giảm trong những năm
1980 mặc dù đã có thểbán với giá cao hơn cho mỗi mét gỗ. Điều này là bởi vì sản
xuất trong hai mặt hàng này đã bị chậm lại do cả thiếc và gỗ đều chịu sự suy giảm
ngày càng lớncủa các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Giá dầu cọlúc đó lạibiến động khá thất thường để đáp ứng với sựdao động giá thị
trường thế giới. Giá giảm từ trung bình 423,95 USD mỗi tấn vào năm 1984 289,47
USD vào năm 1985. Trong năm 1986, giá đã giảm xuống thấp hơn nữa để khoảng
47% thấp hơn mức giá năm 1985, do đó đãtiếp tục ảnh hưởng xấu đến thu nhập
của các hộ sản xuất nhỏ. Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào dầu cọ của Malaysia tiếp tục
10
tăng khi mà lợi nhuận từ mặt hàng này đạt được khá là khả quan hơn so với các
loại cây công nghiệp khác.Đc biệt là khi dầu khí được quan tâm ngày càng nhiều
hơn trên thế giới, khối lượng xuất khẩu thực tế đã tăng 12% trong năm 1986 lên
4,92 triệu USD/tấn. Tuy nhiên, sự sụp đổ giá dầu thế giới đã làm ra mức giá bình
quân của dầu thô giảm 46% trong năm 1986 lên 14,82 USD một thùng so với
27,60 USD vào năm 1985. Bởi thế kim ngạch xuất khẩu dầu đã giảm hơn 0,789 tỷ
đồng USD vào năm 1986. Tiền thu được từ dầu mỏ đã giảm từ2299,2 triệu USD
vào năm 1984 trị giá khoảng 1436,05 USD vào năm 1986. Một loại mặt hàng
chính quan trọng khác đó là khí thiên nhiên hóa lỏng cũng phải chịu đựng việc suy
giảm trong giá cả. Sau khi trải quasự gia tăng trong doanh thu được từ218,7 triệu
USD (1983) lên tới 0,605 tỷ USD (1985), giá trị xuất khẩu đã bị giảm đến 0,5
tỷUSD (1986). Mặc dù có sự gia tăng đáng kể trong khối lượng xuất khẩu từ4,5
triệu tấn trong 1985 đến 5,2 triệu tấn vào năm 1986, việc giảm giá 29% đã làm thu
nhập từ xuất khẩu giảm từ 134,47 USD về 95,79 USD/ tấn vào năm 1986. Trong
khi giá trị xuất khẩu các mặt hàng thiết yếu đang trên đà giảm, kim ngạch xuất
khẩu của hàng hóa sản xuất đồng thời cho thấy dấu hiệu tích cực. Điều này chủ yếu
là do việc mở rộng xuất khẩu các sản phẩm điện và điện tử. Là một nền kinh tế mở,
Malaysia không thể tránh được nhưng phải đối mặt với môi trường thương mại thế
giới khó khăn của chủ nghĩa bảo hộ ngày càng tăng của các nền kinh tế công
nghiệp.
Tuy nhiên việc xuất khẩu những mặt hàng này lại chịu sự biến động giá trên thị
trường thế giới. Suy thoái kinh tế toàn cầu kéo dài của những năm 1980 và những
năm 1990 làm giảm nhu cầu và giá cho tất cả các mặt hàng xuất khẩu chính của
Malaysia. Các đối tác thương mại chính của Malaysia vẫn là các nước phát triển
như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu. Trong khu vực ASEAN, sau hội nghị Bali năm 1976,
ASEAN xúc tiến chương trình cộng tác kinh tế, nhưng các nỗ lực đều đi đến bế tắc
11
vào giữa thập niên 80, phải đến năm 1991, Thái Lan đề xuất thành lập khu vực
thương mại tự do thì khối mậu dịch ASEAN mới hình thành.
Trong giai đoạn 1970-1989, Malaysia có sự đột phá trong phát triển kinh tế nhờ
việc áp dụng chính sách kinh tế mới NEP với mục đích chính là hiện đại hóa, công
nghiệp hóa, tái cơ cấu nền kinh tế, tập trung hết vào việc làm tăng trưởng kinh tế.
Cùng với việc chính sách tự do hóa kinh tế thì Malaysia đã thu hút được một lượng
lớn đầu tư nước ngoài cũng như nhân công chất lượng tốt từ các nước trong khu
vưc. Tuy nhiên cũng do việc tập trung phát triển trong nước cho các ngành kinh tế
cho nên các quan hệ thương mại quốc tế trong thời gian này không có phần nổi bật.
Ngoài việc tập trung thực hiện công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu và áp dụng
các chính sách, hỗ trợ khuyến khích đầu tư thì Malaysia vẫn chưa tham gia vào các
tô chức quốc tế về thương mại nào đồng thời mới chỉ bắt đầu thiết lập các mối
quan hệ kinh tế chắt chẽ hơn với các nước trong khu vực và trên thế giới.
2.3. Giai đoạn 1990 – nay
2.3.1. Bối cảnh
2.3.1.1. Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế giới.
- Thương mại thế giới đã tăng 5 lần trong 23 năm (1948-1971), trong khi chỉ tăng
10 lần trong 100 năm trước đó (1850-1948). Thương mại thế giới tăng nhanh hơn
sự tăng trưởng của kinh tế thế giới. Từ những năm 50 đến những năm 70, tốc độ
phát triển kinh tế của thế giới là 5,9%, nhưng tốc độ phát triển của thương mại thế
giới từ 1948 đến 1971 là 7,3%. Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là nền kinh tế
của các nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa
của nền kinh tế thế giới tăng lên.
12
- Ngoại thương đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước
trên thế giới. Những nước xuất khẩu nhiều nhất thì cũng là những nước có nền
kinh tế phát triển nhất. 24 nước công nghiệp phát triển của Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) chỉ chiếm 14,5% dân số thế giới, nhưng sản xuất ra 71,4%
tổng sản phẩm thế giới và nắm 60% xuất khẩu thế giới. Ngoại thương chiếm từ 40-
60% tổng sản phẩm của các nước Tây Âu.
2.3.1.2. Tính quốc tế hoá cao của nền kinh tế thế giới
Các Công ty xuyên quốc gia (CTXQG) có vai trò ngày càng lớn. Năm 1960, 200
CTXQG lớn nhất thế giới chiếm 17% tổng sản phẩm của toàn thế giới, năm 1984,
200 Công ty này chiếm 26%, dự đoán đến năm 2000 các CTXQG sẽ chiếm 50%
tổng sản phẩm thế giới. Năm 1985 có 600 CTXQG có số vốn trên 1 tỷ đô la, với
tổng doanh số 3000 tỷ đôla, với tổng số công nhân là 50 triệu người. Xã hội thông
tin là một nội dung quan trọng của quốc tế hóa nền kinh tế thế giới.
Các CTXQG thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa trên thế giới, ngược lại quá trình toàn
cầu hóa lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến các CTXQG và chiến lược kinh doanh của họ,
kể cả đưa tới làn sóng sáp nhập chúng để trở thành các CTXQG siêu lớn với bao
hệ quả tích cực và tiêu cực. Gần đây, vào những năm cuối cùng của thế kỷ, làn
sóng sáp nhập của các CTXQG tăng lên nhanh chóng. "Nhờ cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ lần thứ ba với mũi nhọn là công nghệ tin học mà các CTXQG, đa
quốc gia được phát triển thành một hệ thống toàn cầu - tạo ra "cốt vật chất" cho xu
thế toàn cầu hóa"
Bên cạnh mặt quốc tế hóa, nền kinh tế thế giới còn có quá trình khu vực hóa trên
thế giới. Ngày nay hầu như ở khắp các lục địa, khu vực đều có các tổ chức liên
13
minh kinh tế với những quy mô lớn, nhỏ khác nhau. Ở châu Âu, Liên minh châu
Âu gồm 27 nước thành viên là một khối kinh tế mạnh và có sức ảnh hưởng lớn đối
với nền kinh tế thế giới. Ở châu Mỹ, thị trường tự do thương mại Bắc Mỹ
(NAFTA) được thành lập năm 1994 và dang mở rộng cả chây Mỹ thành một thị
trường tự do. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng đã hình thành khu vực hợp
tác kinh tế gồm 21 quốc gia, Đông Nam Á với tổ chức ASEAN đang ngày càng
phát triển và liên kết chặt chẽ hơn
2.3.1.3. Xu thế mở cửa hợp tác đồng thời cũng có xu hướng bảo hộ mậu dịch.
Cùng với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, hiện tượng nổi bật từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai là sự ra đời của các tổ chức quốc tế. Hiện nay trên thế giới có hơn
4000 tổ chức quốc tế, trong đó có khoảng 300 tổ chức liên quốc gia. Các tổ chức
quốc tế rất đa dạng, chức năng cũng không dừng lại ở việc giải quyết các cuộc
xung đột quốc tế và khủng hoảng.
Các tổ chức quốc tế quan trọng hàng đầu là Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Các tổ chức quốc tế có tiềm năng khó hình dung hết, vai trò của nó được mở rộng
ghê gớm. Lực lượng quốc tế tương đối mạnh lên, chủ quyền quốc gia dân tộc
tương đối yếu đi có thể là xu thế song hành trong một thời gian dài sắp tới. Đồng
thời trong quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế, không ít khó khăn và
thách thức đặt ra trước hết đối với các nước đang phát triển.
Quá trình toàn cầu hóa đã đưa tới sự phân công lao động có quy mô mới, rộng lớn
trên thế giới, nhưng sự phân công lao động giữa các nước giàu và nghèo chưa có
sự thay đổi căn bản. Các nước đang phát triển vẫn tiếp tục xuất khẩu nguyên nhiên
14
liệu, còn các nước phát triển tiếp tục xuất khẩu sản phẩm máy móc và phương tiện
vận tải. Sự phân công lao động vẫn không có lợi cho các nước đang phát triển. Các
công ty xuyên quốc gia siêu lớn củng cố sức mạnh của mình ở các nền kinh tế phát
triển và tiếp tục vươn tới các nền kinh tế kém phát triển hơn. Vì vậy, các nước kém
phát triển hơn đang được cảnh báo về nguy cơ các CTXQG siêu lớn trở thành
những tên thực dân về kinh tế trong thế kỷ XXI. Quá trình tập trung hóa thúc đẩy
xu thế toàn cầu hóa đồng thời sẽ có thể làm xói mòn chủ quyền các quốc gia.
Bàn cờ quốc tế đang sắp xếp lại với những thay đổi to lớn. Nhưng điều đáng lưu ý,
như một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh, trong mỗi xu thế lại thường có sự đối lập,
ngược chiều nhau được gọi là "cơ cấu song trùng", hơn nữa lại được xem như một
đặc trưng cơ bản trong quan hệ chính trị quốc tế hiện nay.
=>Làn sóng cải cách kinh tế sẽ nhanh chóng lan toả khắp thế giới sau cuộc đại
khủng hoảng và sự phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế hàng hoá có sự điều
tiết chặt chẽ hơn của Nhà nước sẽ trở thành trào lưu chung đối với tất cả các nước
trên thế giới.
- Cho tới năm 2030, nền kinh tế thế giới lúc này vẫn tiếp tục hình thành 3 vòng
tròn kinh tế lớn, đó là vòng tròn kinh tế Châu âu mà trung tâm là Liên minh Châu
âu; vòng tròn kinh tế Châu mỹ mà trung tâm là nước Mỹ và vòng tròn kinh tế
Châu á – Thái Bình Dương mà đi đầu là nước Nhật Bản. Ba vòng tròn kinh tế này
tiếp tục tác động và quyết định sự phát triển kinh tế thế giới trong những năm tới.
Bên cạnh đó, Trung Quốc mặc dù đang phải đối mặt với nhiều khó khăn về sự
nghèo khó và kém phát triển ở suốt dọc phía Tây của nước họ, đang bế tắc về mặt
lý luận học thuật và khủng hoảng về đường lối nhưng họ cũng đang hết sức nỗ
lực và cố gắng để có mặt và tham dự vào 3 vòng kinh tế này.
15
- Tự do hoá thương mại là xu thế tất yếu của sự phát triển kinh tế theo mô hình
mới, sự phát triển mậu dịch quốc tế được thúc đẩy mạnh mẽ; các công ty xuyên
quốc gia tiếp tục là chủ thể kinh doanh chủ đạo. Khu vực Châu á – Thái Bình
Dương sau khi vượt ra khỏi cơn bão táp tài chính, tiền tệ năm 1997 và sau khi
thoát khỏi ảnh hưởng khá nặng nề của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu và cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007, trong tương lai những năm trước mắt sẽ
đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển khoa học công nghệ và là động
lực thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển mạnh.
2.3.2. Các chính sách thương mại quốc tế
Từ năm 1990, Malaysia chuyển sang thúc đẩy các mặt hàng công nghiệp chế
tạo,đồng thời thực hiện chính sách đa dạng hóa thị trường –thay vì chỉ xuất khẩu
sang các nước phát triển .Malaysia quan tâm hơn đến thị trường các nước đang
phát triển ,trong đó đặc biệt tập trung hướng tới thị trường ASEAN và Trung
Quốc.
Để đạt được những mục tiêu mới chính phủ Malaysia đã thực hiện các biện pháp
sau :
- Ký kết các hiệp định song phương đa phương với nhiều nước như Nhật
Bản,New Zealand,Australia,….Năm 2008 Malaysia ký hiệp định song phương
với Việt Nam.
- Gia nhập các tổ chức liên kết kinh tế như ASEAN(1967), WTO (1995),thực
hiện cắt giảm thuế quan nhập khẩu theo quy định.
16
- Hỗ trợ thanh toán cho các doanh ngiệp xuất khẩu thông qua việc thỏa thuận ,ký
kết giữa ngân hàng trung ương Malaysia (BNM-Bank Negara Malaysia) với các
ngân hàng nước ngoài .
- Thành lập các trung tâm thông tin về thương mại và công nghệ để hỗ trợ các
công ty trong nước nghiên cứu và phát triển thị trường .
2.3.3. Phối hợp luật pháp – chính sách:
2.3.3.1. Các Hiệp định thương mại song phương đã ký với các nước và khu vực:
- Hiệp định thương mại tự do FTA (Free Trade Agreement) Malaysia đã ký
với các nước:
• Malaysia – Nhật Bản (MJEPA) – Hiệp định đối tác kinh tế, ký ngày
13/12/2005 và có hiệu lực ngày 13/7/2006. MJEPA là Hiệp định toàn diện đầu
tiên của Malaysia bao gồm: thương mại hàng hóa công nghiệp và nông nghiệp,
thương mại dịch vụ, đầu tư, quy tắc xuất xứ, thủ tục hải quan, tiêu chuẩn và sự
phù hợp, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, nâng cao môi trường kinh
doanh, các biện pháp tự vệ và giải quyết tranh chấp.
• Malaysia – Pakistan (MPCEPA) – Hiệp định đối tác kinh tế chặt chẽ hơn, ký
ngày 8/11/2007 và có hiệu lực ngày 1/1/2008. MPCEPA bao gồm tự do hóa
thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư, cũng như hợp tác kỹ thuật song
phương và xây dựng năng lực trong các lĩnh vực như các biện pháp vệ sinh và
kiểm dịch động thực vật, bảo vệ sở hữu trí tuệ, xây dựng, du lịch, y tế và viễn
thông.
• Malaysia –New Zealand (MNZFTA) – Hiệp định thương mại tự do song
phương, ký ngày 26/10/2009 và có hiệu lực ngày 1/8/2010. Các lĩnh vực mà
Malaysia và New Zealand đồng ý thực hiện bao gồm: Giáo dục, lâm nghiệp, y
tế, công nghệ sinh học, sản xuất công nghiệp (hợp tác trong sự phát triển của
liên doanh tư nhân và quan hệ đối tác thương mại, công nghệ kỹ thuật, thiết kế,
17
sửa chữa và bảo trì, phát triển sân bay và hệ thống kiểm soát mặt đất, cơ sở hạ
tầng, các dự án xây dựng thương mại và nhà ở)
• Malaysia - Ấn Độ (MICECA) – Hiệp định hợp tác kinh tế, ký ngày 24/9/2010
và có hiệu lực ngày 1/7/2011. MICECA là một hiệp định toàn diện bao gồm
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và chuyển động của
nhân. Giá trị gia tăng thêm những lợi ích được chia sẻ từ Hiệp định Thương
mại Hàng hóa ASEAN-Ấn Độ (AITIG) và sẽ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi và
tăng cường thương mại hai chiều, dịch vụ, đầu tư và các mối quan hệ kinh tế
nói chung.
• Malaysia – Chi Lê (MCFTA) – Hiệp định thương mại tự do, ký ngày
23/11/2010 và có hiệu lực ngày 25/2/2012. Hiệp định phác thảo cam kết từ cả
hai quốc gia về tự do hóa thương mại hàng hoá. Malaysia và Chile dần dần sẽ
làm giảm hoặc loại bỏ thuế quan đối với tương ứng các sản phẩm công nghiệp
và nông nghiệp.
• Malaysia – Australia (MAFTA) – Hiệp định thương mại tự do, ký ngày
30/3/2012 và có hiệu lực ngày 1/1/2013. MAFTA là một hiệp định toàn diện,
gồm 21 chương bao gồm thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư cũng như
hợp tác kinh tế.Nó cũng bao gồm các quy định quyền sở hữu, thương mại điện
tử và chính sách cạnh tranh. MAFTA đánh dấu một mốc quan trọng trong quan
hệ kinh tế Malaysia - Úc, bổ sung vào hiệp định thương mại tự do đã được
thành lập giữa ASEAN-Australia-New Zealand (AANZFTA).
2.3.3.2. Hiệp định thương mại đa phương, các tổ chức tham gia:
• Malaysia tham gia APEC ngày 7/11/1989
• Malaysia tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN vào năm 1992.
• Malaysia là thành viên thứ 85 của tổ chức kinh tế thế giới WTO năm 1995.
• AFTA – Hiệp định thương mại tự do ASEAN, được thống nhất tại hội nghị
cấp cao Singapo năm 1992. Khu vực 6 nước Malaysia, Singapo, Brunei,
18
Thái Lan, Indonesia, Phillipine đã trở thành một khu vực thương mại tự do
hoàn chỉnh vào ngày 1/1/2010.
• ASEAN – Trung Quốc: Hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc đã được nâng
lên một mức độ cao hơn với việc ký kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế
toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc vào ngày 04 tháng 11 năm 2002 tại
Phnom Penh, Campuchia. Sau hiệp định khung, các hiệp định ACFTA cũng
đã được ký kết nhằm sửa đổi hiệp định khung, cam kết thực hiện các cam
kết như giảm thuế, cải tiến các thủ tục thương mại, đầu tư, thực hiện tự do
hoá thương mại trong các lĩnh vực: Thương mại hàng hoá, thương mại dịch
vụ, đầu tư. Gần đây nhất, nghị định thư thứ hai sửa đổi Hiệp định về Thương
mại Hàng hóa thuộc Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế giữa Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á và Cộng hòa Nhân dân của Trung Quốc đc ký ngày
29 tháng Mười năm 2010.
• ASEAN – Nhật Bản: Hiệp định khung về quan hệ đối tác kinh tế toàn diện
(CEP) giữa ASEAN và Nhật Bản đã được ký kết bởi các nhà Lãnh đạo
ASEAN và Nhật Bản ngày 8 tháng 10 năm 2003 tại Bali trong Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN-Nhật Bản. Các cuộc đàm phán về Hiệp định AJCEP,
bắt đầu vào tháng 4 năm 2005, được ký kết trong tháng 12 2007. Các nước
thành viên ASEAN và Nhật Bản đã hoàn thành quá trình ký kết Hiệp định
AJCEP vào ngày 14 tháng 4 năm 2008, sau khi Malaysia ký kết.
• ASEAN – Hàn Quốc: Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế toàn diện giữa
ASEAN và Hàn Quốc đã được ký kết bởi các nhà lãnh đạo tại Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN-Hàn Quốc vào ngày 13 tháng 12 năm 2005 tại Kuala
Lumpur, Ma-lay-xi-a và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 7 năm 2006. Ngày
26 Tháng 8 năm 2006 tại Kuala Lumpur, Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Hàn
Quốc, ngoại trừ của Thái Lan, đã ký kết: Hiệp định về Thương mại Hàng
hóa thuộc Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và
Hàn Quốc.
19
• ASEAN - Ấn Độ: Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ dã được ký
kết tại Bangkok, Thái Lan ngày 13/8/2009 và có hiệu lực ngày 1/1/2010.
• ASEAN – Australia và New Zealand: Hiệp định thương mại tự do được ký
vào ngày 27/2/2009 tại Thái Lan nhằm tạo điều kiện tự do hoá thương mại
hàng hoá, dịch vụ và đầu tư giữa New Zealand, Australia và các nền kinh tế
ASEAN. Nó bao gồm các biện pháp cải thiện môi trường kinh doanh và thúc
đẩy hợp tác trong một loạt các lĩnh vực kinh tế mà hai bên cùng quan tâm.
Hiệp định có hiệu lực đối với Malaysia vào năm 2010.
• Malaysia – GCC (Hội đồng hợp tác vùng vịnh): ngày 30-1-2011 Malaysia
và GCC đã ký hiệp định khung về hợp tác kinh tế, đầu tư, thương mại và
hợp tác kỹ thuật và hướng đến ký kết hiệp định thương mại tự do FTA
Thành viên của các tổ chức quốc tế: ADB, APEC, ARF, ASEAN, BIS, C, CICA
(observer), CP, D-8, EAS, FAO, G-15, G-77, IAEA, IBRD, ICAO, ICC, ICRM,
IDA, IDB, IFAD, IFC, IFRCS, IHO, ILO, IMF, IMO, IMSO, Interpol, IOC, IPU,
ISO, ITSO, ITU, ITUC, MIGA, MINURSO, MONUC, NAM, OIC, OPCW, PCA,
PIF (partner), UN, UNAMID, UNCTAD, UNESCO, UNIDO, UNIFIL, UNMIL,
UNMIS, UNMIT, UNWTO, UPU, WCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, WTO
Hiện tại, Malaysia đang tiến hành đàm phán một số hiệp định tự do thương mại
như Malaysia – Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia – Liên minh châu Âu (MEUFTA), Hiệp
định đối tác xuyên Đại Tây Dương (TPP), Hệ thống bảo hộ thương mại – Tổ chức
hội nghị Hồi giáo (TPS – OIC)
Nhìn chung, các hiệp định song phương hay đa phương này đều hướng đến tự do
hoá trong thương mại, xoá bỏ hàng rào thuế quan, hạn ngạch và đơn giản hoá các
thủ tục thương mại, đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để hàng hoá, dịch vụ, nguồn vốn
được lưu chuyển dễ dàng thuận lợi trong các lĩnh vực trong hiệp định giữa các
nước và khu vực tham gia ký kết hiệp định. Đối với các quốc gia và khu vực trong
20
các hiệp định đã được ký kết, Malaysia đã thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu
đối với các đối tác cũng như thực hiện các quy định của các tổ chức tham gia
(APEC, ASEAN, WTO)
Malaysia mục tiêu đàm phán FTA là:
Tìm kiếm sự tiếp cận thị trường tốt hơn bằng cách giải quyết vấn đề thuế quan và
các biện pháp phi thuế quan; Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy thương
mại, đầu tư và phát triển kinh tế; nâng cao khả năng cạnh tranh của các nhà xuất
khẩu của Malaysia; xây dựng năng lực trong các lĩnh vực cụ thể được nhắm mục
tiêu thông qua hợp tác kỹ thuật và hợp tác.
2.3.3.3. Lộ trình cam kết giảm thuế với các nước và khu vực
• Với khu vực AFTA, Malaysia xoá bỏ 98% tổng dòng thuế của mình đối với
các nước thành viên vào năm 2006
• Với Nhật Bản, các loại thuế đối với các mặt hàng trong cam kết được giảm
theo lộ trình và thực hiện mức thuế 0% vào ngày đầu tiên năm 2010
• Lộ trình giảm thuế đối với đối tác New Zealand được cam kết đến năm 2016
• Lộ trình giảm thuế đối với đối tác Ấn Độ được cam kết đến năm 2019
• Lộ trình giảm thuế với đối tác Chile được cam kết đến năm 2016
• Với đối tác Australia, Malaysia dần dần sẽ làm giảm hoặc loại bỏ thuế nhập
khẩu trên 99% các dòng thuế vào năm 2020.
Trong giai đoạn này, Malaysia đã tập trung thực hiện các biện pháp nhằm tăng
trường và phát triển kinh tế, đặc biệt là các biện pháp kinh tế đối ngoại. Định
hướng kinh tế của Malaysia trong giai đoạn này:
• Hợp tác kinh tế khu vực Đông Á ( Từ EAEG đến EAEC, ASEAN +3)
• Hợp tác phát triển khu vực – Tam giác tăng trưởng IMTGT, IMSGT, BIMP-
EAGA.
21
• Ngoại giao kinh tế - thu hút đầu tư phát triển từ những khu vực kinh tế thịnh
vượng lân cận, đối thoại quốc tế Langkawi (LID), Đối thoại quốc tế Nam
Phi (SAID)
Malaysia cũng tiếp tục tăng cường quan hệ đối tác với các nước trong khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương, Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latinh. Trong tháng 6
năm 2011, Malaysia đã tổ chức Đối thoại Quốc tế Langkawi 9 (LID) với chủ đề
"Tăng cường quan hệ đối tác thông minh cho chuyển đổi kinh tế - xã hội", cung
cấp nền tảng để khám phá các cơ hội kinh doanh và đầu tư giữa Malaysia và các
đối tác châu Phi.
Ở cấp độ khu vực, Malaysia tiếp tục hướng tới thành lập Cộng đồng ASEAN
2015. 2015 sẽ là năm quan trọng trong Cộng đồng ASEAN sẽ được thành lập và
Malaysia sẽ đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN. Malaysia cam kết nỗ lực xây
dựng cộng đồng ASEAN bao gồm cả việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hẹp
khoảng cách kinh tế giữa các nước thành viên và tăng cường ảnh hưởng của
ASEAN trên trường quốc tế.
Trước đây, Malaysia chỉ chủ yếu cung cấp nguyên vật liệu cho thế giới khả năng
cạnh tranh thấp, thì hiện nay Malaysia đã trở thành quốc gia thương mại công
nghiệp với các mục tiêu tăng năng suất, tăng sức cạnh tranh, tìm kiếm thị trường
mới cho các hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu. Malaysia đã triển khai một số chính sách
kinh tế đối ngoại mạnh mẽ, giúp nền kinh tế trở nên năng động, linh hoạt như:
Chính sách hướng về phía Đông (Look East Policy), Thu hút đầu tư từ các quốc
gia thịnh vượng lân cận (Reverse Investment – Prosper Thy Neighbour), Malaysia
kết hợp chặt chẽ (Malaysia Incorporated), South-South Cooperation, Chương trình
hợp tác kỹ thuật Malaysia MTCP (Malaysian Technical Cooperation Programme),
Đối thoại Quốc tế Langkawi
22
Malaysia duy trì quan hệ ngoại giao với các nước và các tổ chức quốc tế thông qua
105 cơ quan đại diện tại 83 quốc gia ở nước ngoài, bao gồm 66 đại sứ quan, 16 uỷ
ban cấp cao, 3 đại diện thường trực của liên hợp quốc và các nước ASEAN, 19 cơ
quan lãnh sự quan hệ đối tác và trung tâm thương mại của Malaysia (Friendship
anh Trade Center). Ngoài các đại sứ quán, uỷ ban cấp cao, tổng lãnh sự, lãnh sự,
Bộ ngoại giao Malaysia đã bổ nhiệm các cá nhân đặc biệt để hỗ trợ Malaysia trong
việc đạt được những chính sách nhằm thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp, tăng cường
thương mại, các hoạt động kinh tế và mở rộng sự trợ giúp của lãnh sự. Để thực
hiện điều này, bộ ngoại giao đã bổ nhiệm 50 lãnh sự danh dự tại các thành phố lớn
ở 39 quốc gia trên toàn thế giới để thực hiện các mục tiêu. Các lãnh sự danh dự hỗ
trợ nhiệm vụ của Malaysia tại nước ngoài.
Trong năm 2013, Malaysia đã lên kế hoạch thực hiện 136 hoạt động xúc tiến
thương mại sau khi tham khảo ý kiến và thu được phản hồi từ khu vực tư nhân.
Các chương trình xúc tiến thương mại sẽ được xây dựng để tiếp tục chiến lược và
chỉ đạo của chương trình xúc tiến thương mại năm 2012, tập trung vào xuất khẩu
các mặt hàng giá trị cao theo các khu vực quốc tế trọng điểm, nhằm thực hiện mục
tiêu thị trường phát triển nhanh trong khu vực châu Á, tận dụng lợi thế trên thị
trường FTA và mở ra những cơ hội tại các thị trường mới nổi ở Trung Á, Đông Âu
và châu Phi
2.3.4. Tác động của các quan hệ TMQT đối với hoạt động thương mại Malaysia:
Có thể nói trong giai đoạn 1989 – nay, khu vực ngoại thương trở thành khu vực
mang lại tăng trưởng chủ yếu cho nền kinh tế Malaysia. Malaysia từ một quốc gia
có nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào các ngành công nghiệp khai thác mỏ và nông
nghiệp trong giai đoạn trước năm 1989, đã dần trở thành quốc gia có nền công
nghiệp chế tạo phát triển, có thể nói là phát triển mạnh nhất trong khu vực
23
ASEAN. Và cũng sau năm 1989 Malaysia cũng đã có sự chuyển hướng về các thị
trường xuất khẩu chính, chuyển từ thị trường các nước phát triển như Mỹ, Nhật
Bản, Eu sang các nước đang phát triển, điển hình là Trung Quốc, khu vực ASEAN.
Đến năm 2000, Malaysia đã ký kết hiệp định thương mại với 50 quốc gia trên thế
giới .Thị trường của Malaysia ngày càng được mở rộng nhờ vào sự tìm kiếm của
các tổ chức xúc tiến thương mại .Các đối tác thương mại hàng đầu của Malaysia
hiện nay đều là những thị trường lớn và phát triển như Mỹ, Nhật Bản,
Singapo,Trung Quốc ,Hàn Quốc … Do vậy,qua đó cũng có thể trao đổi công nghệ
cao ,tiết kiệm quá trình nghiên cứu .Hay tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài.
Biều đồ: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Malaysia giai đoạn 1989 – 2011
(tỷ USD)
Nguồn />Trong giai đoạn 1989 – 1997, cán cân của Malaysia khá cân bằng. Trong giai đoạn
này, nền kinh tế Malaysia đã trải qua một giai đoạn đa dạng hóa rộng rãi và đã duy
trì được một tỷ lệ tăng trưởng 9% mỗi năm, kim ngạch của cả xuất khẩu và nhập
khẩu tăng nhanh, nhằm thực hiện các mục tiêu đổi mới kinh tế và đáp ứng được
nhu cầu trong nước do sự bùng nổ kinh tế. Đây là quãng thời gian Malaysia chuyển
tiếp từ nền kinh tế nông nghiệp và công nghiệp mỏ sang công nghiệp chế tạo. Giá
trị xuất khẩu của Malaysia năm 1997 là 93 tỷ USD, gấp 3,32 lần giá trị xuất khẩu
năm 1989 (28 tỷ USD), giá trị nhập khẩu năm 1997 là 93 tỷ USD gấp 3,72 lần giá
trị xuất khẩu năm 1989 (25 tỷ USD). Chỉ trong vòng 9 năm, kim ngạch của cả xuất
khẩu và nhập khẩu đều gia tăng khá mạnh mẽ và là sự gia tăng ổn định. Trung bình
24
trong 9 năm này, kim ngạch xuất khẩu đạt 59,1 tỷ USD một năm, kim ngạch nhập
khẩu đạt 59,2 tỷ USD một năm
Từ năm 1997 đến nay, Malaysia là nước xuất siêu, kim ngạch thương mại luôn
dương với giá trị xuất khẩu lớn và có xu hướng tăng dần qua các năm. Hàng năm,
ngoại thương đóng góp trung bình khoảng 20% vào GDP của Malaysia, đây là một
tỷ lệ đóng góp khá lớn của TMQT đến nền kinh tế Malaysia. Giai đoạn năm 2005
đến nay, giá trị xuất nhập khẩu của Malaysia tăng khá nhanh, khác với giai đoạn
trước đó (từ năm 2000 – 2004) giá trị xuất nhập khẩu thương giữ ở mức khá ổn
định và có xu hướng giảm nhẹ. Điều này có thể được lý giải bởi việc tỷ giá hối
đoái cố định của Malaysia đã được bãi bỏ vào tháng 7-2005 nhằm tạo thuận lợi
cho một hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý trong thời điểm Trung Quốc công bố
cùng động thái, và trong khi đó đồng ringgit của Malaysia tăng giá so với hầu hết
các đồng tiền tệ chính, vì thế thúc đẩy xuất khẩu. Trung bình trong giai đoạn này,
kim ngạch xuất khẩu đạt 154,6 tỷ USD một năm gấp 2,6 lần so với giai đoạn trước;
kim ngạch nhập khẩu đạt 126,5 tỷ USD một năm gấp 2,1 lần so với giai đoạn
trước. Malaysia thiết lập quan hệ tự do với nhiều nước và tăng cường hợp tác kinh
tế với nhiều quốc gia, thương mại quốc tế đang ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế Malaysia, đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng GDP cũng như
đến các mục tiêu phát triển xã hội khác
Việc ký kết các hiệp định song phương cũng như các hiệp định đa phương, tham
gia các tổ chức khu vực và quốc tế kết hợp các chính sách đã đưa ra đã khiến nền
kinh tế Malaysia có độ mở khá rộng, do đó những biến động trên thế giới đã tác
động không nhỏ đến tình hình xuất nhập khẩu của đất nước này. Đặc biệt trong các
cuộc khủng hoảng kinh tế của khu vực và thế giới như cuộc khủng hoảng kinh tế
châu Á năm 1997 và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, giá trị xuất khẩu
và nhập khẩu của Malaysia suy giảm rõ rệt. So với năm 1997, kim ngạch xuất khẩu
25