Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Quan hệ việt nam australia giai đoạn 2011 2020 thực trạng và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 25 trang )







QUAN HỆ VIỆT NAM - AUSTRALIA GIAI ĐOẠN 2011-2020: TÌNH
HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG
Nguyễn Minh Giang
Khoa Đông phương học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
ĐHQG-HCM
Tóm tắt: Cho đến nay, Việt Nam và Australia đã có mối quan hệ bang
giao 47 năm. Trong đó, với mục tiêu trở thành cường quốc tầm trung, giữ vững
trật tự khu vực do thế giới tự do phương Tây lãnh đạo, Australia mong muốn
thắt chặt quan hệ hợp tác với Việt Nam, thơng qua Việt Nam có thể tăng cường
khả năng kiểm soát sự trỗi dậy của Trung Quốc, thắt chặt các thỏa thuận hợp
tác với ASEAN, đồng thời cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực chứa
đựng lợi ích cốt lõi của Australia. Bài viết tập trung phân tích những nét chính
về quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế, và quan hệ giáo dục - khoa học kĩ thuật
giữa Việt Nam và Australia trong thập niên thứ hai của thế kỷ 21.
Từ khóa: quan hệ Việt Nam - Australia; Việt Nam; Australia
Abstract: Up to now, the Vietnam - Australia relations has been gone 47
years.Particularly, in order to becoming a middle power, remaining the
regional order driving by the liberal Western countries; Australia has
tightened the cooperationship to Vietnam, therefore, to enhance the ability in
controlling the China’s rising, to tighten the agreements with ASEAN, and to
improve the relations with countries within the region having Australia’s core
interests. This article forcuses on the key features of political relations,
economics relations, educational - sciences and technological relations
between Vietnam and Australia in the second decade of the twentieth century.
Keywords: Vietnam - Australia relations; Vietnam; Australia


MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh giai đoạn 2011-2020 là một giai đoạn đầy biến động trên
biển Đơng của Việt Nam nói riêng và cả khu vực Đơng Nam Á nói chung,Việt
Nam và thế giới bị đặt trước yêu cầu cấp thiết đối phó với sự trỗi dậy mạnh mẽ
của Trung Quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tăng cường quan hệ
hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn
tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên
quan trên cơ sở luật pháp quốc tế và quy tắc ứng xử của khu vực. Xây dựng
đường biên giới hịa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.”1 Đây là hướng

Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc
khóa 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.139
1

+ Để ghi xuất xứ (nguồn), sử dụng footnote, số thứ thứ đánh theo trang, quy
cách trình bày thơng tin trong footnote như sau:




Đối với sách: Tác giả, Tác phẩm, Nhà xb (viết tắt là Nxb), nơi xuất bản, năm
xb, trang trích dẫn (viết tắt là tr.)
Đối với bài tạp chí: Tác giả, “Bài tạp chí”, Tên tạp chí, số, năm, tr.


ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại Việt Nam nhằm tạo mơi trường
hịa bình, ổn định cho đất nước Thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa,
đa dạng hóa, “thêm bạn bớt thù”, “sẵn sàng là đối tác tin cậy của các nước trên
thế giới”, Việt Nam đã thắt chặt quan hệ hợp tác với Australia - đồng minh
chiến lược truyền thống của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương đồng thời tăng

cường quan hệ đối tác tồn diện Việt Nam-Australia và nâng tầm trong bối
cảnh mới, tầm nhìn mới thành quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2018. Từ đó,
quan hệ hợp tác song phương với Australia trở thành kim chỉ nam sáng suốt
dẫn dắt Việt Nam đẩy nhanh quá trình hiểu biết, tin cậy về lâu dài, thúc đẩy
chủ nghĩa đa phương với vai trò trung tâm “dẫn dắt” khu vực của ASEAN trở
thành hiện thực. Kết quả đạt được trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI đã
mở ra nhiều khả năng hợp tác giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực tại khu vực
cũng như nâng tầm vị thế cả hai nước trên trường quốc tế, đặc biệt với vai trò
là những trung cường có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy giải quyết các
vấn đề nan giải trên biển Đông. Sau khi Trung Quốc tổ chức Thế vận hội Bắc
Kinh 2008, đề ra sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) đã đặt ra ngày càng
nhiều thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đối với hai nước
Việt Nam, Australia nói riêng và cả thế giới nói chung. Việc nâng tầm quan hệ
đối tác chiến lược với Australia cũng là một bước đệm của Việt Nam thực hiện
chiến lược thiết lập chuỗi đối tác chiến lược với các nước đồng minh của Mỹ ở
châu Á-Thái Bình Dương nhằm liên kết sức mạnh với các trung cường
NỘI DUNG
1. Những nhân tố tác động thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam Australia (2011-2020)
Thứ nhất, về tình hình kinh tế - xã hội, quan hệ Việt Nam - Australia phát
triển trong bối cảnh xu thế tồn cầu hóa, khu vực hóa của thế giới đang vấp
phải sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc dân túy, chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa
Hồi giáo cực đoan. Đây cũng là giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ 4.0
phát triển mạnh mẽ với tốc độ mau chóng chưa từng thấy. Đó là điều kiện chín
muồi cho sự gia tăng ảnh hưởng đáng kể của các tổ chức khu vực và quốc tế,
đặc biệt trên lĩnh vực truyền thơng, văn hóa và chính trị. Tuy nhiên, các chủ thể
quốc gia, nhất là các nước lớn vẫn đóng vai trị chi phối, quyết định nhất đến
đời sống chính trị quốc tế, trong đó có các cuộc cạnh tranh chiến lược tranh
giành ảnh hưởng ở những khu vực nóng trên thế giới như biển Đơng, làm ảnh
hưởng không nhỏ đến sự vận động của cục diện khu vực và thế giới. Trong quá
trình cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở khu vực, kinh tế và khoa học

công nghệ được xem là hai trụ cột quan trọng nhất mà điển hình gần đây nhất
chính là cuộc thương chiến Mỹ-Trung ảnh hưởng không nhỏ đến khu vực kinh
tế năng động nhất thế giới. Đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy sự gia tăng mức độ



Đối với sách có từ hai tác giả trở lên, dùng dấu gạch ngang giữa tên các tác giả;
nếu có chủ biên hoặc tổng chủ biên thì ghi (chủ biên), (Tổng chủ biên)
Đối với bài viết trong cơng trình tập thể: Tác giả, Tên bài viết, trong tác giả,
tác phẩm, nhà xuất bản (Nxb), nơi xuất bản, năm xuất bản, trang đến trang (tr.)


mâu thuẫn, căng thẳng giữa Mỹ-Trung ngày một nghiêm trọng và đẩy cả hai
nền kinh tế lớn nhất thế giới nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung chìm
sâu vào cuộc khủng hoảng, suy thối kinh tế - chính trị sâu sắc đặc biệt chưa
từng thấy. Trái ngược với giai đoạn 2001-2009 khi Mỹ ra sức sử dụng chủ
nghĩa đa phương để giương cao ngọn cờ tập hợp lực lượng lãnh đạo thế giới
chống lại chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan trên toàn cầu, giai đoạn 2011-2019
chứng kiến hàng loạt tập hợp lực lượng mới do Trung Quốc đứng đầu từ sáng
kiến Một vành đai Một con đường (OBOR) phát triển thành Vành đai và Con
đường (BRI) đến tập hợp lực lượng trong Cộng đồng vận mệnh chung, và gần
đây nhất là sử dụng ngoại giao vaccine để chống lại sự lây lan chóng mặt của
đại dịch Covid-19.
Thứ hai, trong chính sách đối ngoại Hướng Á của Australia, Việt Nam là
ưu tiên hàng đầu, là một đối tác chủ chốt trong chính sách đối ngoại ở khu vực
Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và ln được mong muốn sớm nâng cấp
quan hệ lên Đối tác Chiến lược tồn diện.2 Dưới góc nhìn biện chứng, Australia
cũng có vai trò quan trọng giúp Việt Nam mở rộng các mối quan hệ tại châu Á
Thái Bình Dương. Đồng thời, trong chính sách đối ngoại của Việt Nam,
Australia là đồng minh quan trọng hàng đầu của Mỹ tại châu Á - Thái Bình

Dương, có vị trí địa chiến lược đặc biệt trong khơng gian châu Á - Thái Bình
Dương. Việc vị thế của Australia gắn bó chặt chẽ với Hoa Kỳ chính là cơ sở
quan trọng để gắn kết quan hệ Việt Nam - Australia trở thành điều kiện nền
tảng thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ nhằm cân bằng động với sự trỗi dậy
của Trung Quốc mạnh mẽ ở biển Đơng. Để đảm bảo tồn vẹn lợi ích quốc gia,
nhận thức đúng đắn của Australia về quan hệ giữa Australia và các nước Đông
Nam Á là vô cùng quan trọng. Việc Australia tham gia tích cực vào các vấn đề
hợp tác an ninh, củng cố an ninh hàng hải mạnh mẽ không chỉ tạo nền tảng
vững chắc cho sự đẩy mạnh, cụ thể hóa tư duy đối ngoại “Hướng Á” của
Australia mà cịn góp phần khẳng định quan điểm về cường quốc tầm trung. Đó
là cơ sở lý luận và thực tiễn cho các hoạt động ngoại giao linh hoạt trong từng
thời kỳ lịch sử cụ thể của Australia.3 Nhu cầu hội nhập và hợp tác của Australia
với các nước châu Á Thái Bình Dương chính là cơ sở vững chắc để Australia
củng cố, tăng cường quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á. Thực tiễn quan hệ
quốc tế đã chứng minh các quốc gia thường gắn vấn đề an ninh quốc gia với an
ninh khu vực lân cận. Đó là nguyên nhân lý giải cho sự hiện diệncủa Australia
trong hầu khắp các vấn đề an ninh của Đơng Nam Á nói riêng và khu vực Nam
Thái Bình Dương nói chung như khủng bố, cướp biển, bn lậu, buôn bán ma
túy, môi trường, nhập cư, sự cố trên biển, tìm kiếm cứu hộ cứu nạn. Sự hiện
diện đó đã đặt những viên gạch đầu tiên để Australia đóng góp vào an ninh khu
vực.4
Thanh Thanh (05/11/2020), “Australia đặt ưu tiên cao với Việt Nam trong chính sách đối ngoại”, Thanh tra, truy cập ngày 31/12/2020
3
Nguyễn Đình Chiến, Quan hệ Việt Nam - Australia 2001-2011, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM, Tp.Hồ Chí
Minh, 2016, tr.22-24
4
Stewart Firth (2005), Australian in International Politics: An Introduction to Australian foreign policy, Sydney:
Southwood Press, pp.8
2



Các công nghệ và thách thức mới cũng đã vượt qua khả năng kiểm sốt của
số đơng. Khơng một quốc gia đơn lẻ nào thích một trật tự siêu cường mà nước
Mỹ đã kiến tạo vào năm 1945. Trong khi đó, việc kêu gọi người dân Mỹ nhìn
nhận nhiệm vụ giải quyết những vấn đề tồn cầu đó như một trọng tâm của
chính sách đối ngoại sẽ tiếp tục là một cuộc mặc cả dai dẳng. Vì thế, có thể thế
giới hậu đại dịch sẽ không diễn ra giống giai đoạn sau Thế chiến thứ hai mà lại
giống giai đoạn sau Thế chiến thứ nhất: Một kỷ nguyên mà sự can dự của Mỹ
ngày càng giảm và biến động quốc tế gia tăng. Một sự thay đổi như vậy sẽ bao
gồm các dự án hợp tác lớn hơn để theo dõi sự bùng phát của các bệnh truyền
nhiễm và giải quyết hậu quả của chúng, cũng như việc sẵn sàng để giải quyết
vấn đề biến đổi khí hậu, đặt ra các quy tắc cho khơng gian mạng, hỗ trợ các
nhóm người bị buộc phải di cư, giải quyết tình trạng phổ biến hạt nhân và vấn
đề khủng bố.5
2. Quan hệ hợp tác chiến lược Việt Nam - Australia (2011-2020)
Nội hàm của mối quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam-Australia được hai
nước xác định rõ trong Tuyên bố chung về thiết lập đối tác chiến lược Việt
Nam-Australia (năm 2018) là “mối quan hệ vững chắc và thực chất trên cơ sở
tơn trọng lẫn nhau và các lợi ích chung”6. Hai nước cũng xác định nội dung
hợp tác chủ yếu là “tăng cường tiếp xúc giữa các quan chức cấp cao nhằm đẩy
mạnh hơn nữa hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế và thương mại, ngoại giao,
quốc phòng, an ninh, khoa học, công nghệ, nông nghiệp, sáng tạo, giáo dục, và
các lĩnh vực khác như pháp luật và tư pháp, lao động và du lịch”.7 Như vậy,
quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Australia gồm ba trụ cột chính là kinh tế,
chính trị, khoa học cơng nghệ-giáo dục.
2.1. Quan hệ chính trị Việt Nam - Australia (2011-2020)
Hai bên đã tiến hành hàng năm Đối thoại chính thức về an ninh khu vực,
Trao đổi tùy viên quân sự và hợp tác chống tội phạm ma túy.8 Từ khi quan hệ
Việt Nam - Australia được nâng lên tầm đối tác toàn diện, nhiều lãnh đạo cấp

cao Australia đã sang thăm Việt Nam. Điển hình là chuyến thăm của Ngoại
trưởng Kelvin Rudd (tháng 4/2011), Toàn quyền Queentin Bryce, Ngoại trưởng
Bob Carr (tháng 3/2012), Bộ trưởng Quốc phòng Stephen Smith (tháng 8/2012),
Chủ tịch Hạ viện Anna Burke (tháng 5/2013). Bên cạnh những chuyến thăm
tiêu biểu trên, nhiều nhà lãnh đạo đến từ hầu hết các tiểu bang của Australia
cũng thường xuyên thăm Việt Nam, từ đó, bức tranh quan hệ song phương rõ
nét và tồn diện hơn. Đó khơng chỉ là sự nhận ra tiềm năng phát triển của Việt
Richard N.Haass (07/04/2020), “Tồn cảnh trật tự thế giới mới hình thành sau dịch COVID-19”, Foreign Affairs,
truy cập ngày 31/12/2020
6
Thế giới & Việt Nam (15/03/2018), “Tuyên bố chung về thiết lập Đối tác chiến lược Việt Nam - Australia”, Thế
giới & Việt Nam, 7
Thế giới & Việt Nam (15/03/2018), “Tuyên bố chung về thiết lập Đối tác chiến lược Việt Nam - Australia”, Thế
giới & Việt Nam, 8
Lê Bá Khởi, Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của Australia cho Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Trường Đại học Kinh tế ĐHQG-HN, Hà Nội, 2012, tr.27
5


Nam mà còn là nền tảng và động lực cho các cuộc gặp gỡ và tiếp xúc gia tăng
về số lượng và tần suất.9
Trong quá trình phát triển quan hệ chính trị, Australia và Việt Nam đã ký
một số hiệp định và thỏa thuận quan trọng như Bản ghi nhớ về hợp tác trong
lĩnh vực kỹ thuật và dạy nghề (25/01/2011), Tuyên bố chung Kỳ họp thứ 10
của Uỷ ban hỗn hợp Hợp tác Thương mại - Kinh tế Australia - Việt Nam
(13/12/2011). Tuyên bố chung thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược đã mang lại
những biến đổi cả về lượng và chất, góp phần nâng tầm quan hệ hai nước. Nét

nổi bật là một loạt các cuộc gặp gỡ, chuyến thăm các cấp giữa hai nước thể
hiện sự gia tăng lợi ích tương đồng và tin cậy lẫn nhau. Về phía Việt Nam, có
các chuyến thăm của Phó chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh (tháng 4 năm
2018), Bộ trưởng Quốc phịng Ngơ Xn Lịch (tháng 11 năm 2018), Phó thủ
tướng Trịnh Đình Dũng (tháng 11 năm 2019). Về phía Australia có các chuyến
thăm của Tồn quyền Australia (tháng 5 năm 2018), Ngoại trưởng Julie Bishop
(tháng 5 năm 2018), Chủ tịch Hạ viện Australia (tháng 7 năm 2018), Chủ tịch
Thượng viện Australia (tháng 1 năm 2019), Ngoại trưởng Marise Payne (tháng
7 năm 2019). Các cơ chế đối thoại thường niên cấp Bộ trưởng cũng được triển
khai nhanh chóng như Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao (tháng 3 năm 2018),
Hội nghị cấp Bộ trưởng Quốc phòng (tháng 11 năm 2018). Đặc biệt, về hoạt
động trao đổi đoàn giữa các bộ, ngành, địa phương hai nước có thành phố Hồ
Chí Minh vừa thiết lập quan hệ hợp tác - kết nghĩa với bang New South Wales
nhân dịp Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong thăm
New South Wales tháng 4 năm 2019. Bên cạnh đó, Australia cịn tích cực hỗ
trợ đào tạo tiếng Anh cho qn nhân Việt Nam và là nước đầu tiên hợp tác với
Việt Nam trong vận chuyển lực lượng gìn giữ hịa bình Liên Hợp Quốc ra nước
ngồi khi hỗ trợ chuyển bệnh viện dã chiến cấp 2 sang Nam Sudan. Hai bên
cũng tăng cường trao đổi chính sách, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ huấn luyện đào tạo và thăm tàu. Trong năm 2018 đến 6 tháng đầu năm 2019, 3 tàu Hải
quân Hoàng gia Australia đã cập cảng thành phố Hồ Chí Minh và lần đầu tiên 2
tàu thăm cảng Cam Ranh. Hai bên cũng tích cực hỗ trợ tìm kiếm quân nhân
mất tích trong chiến tranh. Lần đầu tiên, hai nước đã thiết lập cơ chế Đối thoại
an ninh thường niên cấp Thứ trưởng họp lần thứ nhất vào tháng 11 năm 2018.
hợp tác giữa hai nước tại các diễn đàn đa phương ngày càng hiệu quả, nhất là
Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phịng ASEAN
mở rộng (ADMM+), Cấp cao Đơng Á (EAS), Diễn đàn Kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương (APEC), Hội nghị Á - Âu (ASEM).10
Ngày 5/11/2020, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã cùng Bộ
trưởng Ngoại giao Australia Marise Payne đồng chủ trì Hội nghị Bộ trưởng
Ngoại giao thường niên Việt Nam-Australia lần thứ hai. Bộ trưởng Ngoại giao

Australia khẳng định Australia luôn sát cánh và sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam khắc
Huỳnh Tâm Sáng, “Quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam-Australia: thành tựu và triển vọng”, Nghiên cứu Ấn Độ
và châu Á, 2017, tr.89-91

9

Thế giới & Việt Nam (22/08/2019), “Việt Nam - Australia: Hướng tới đối tác thương mại hàng đầu”,
Thế giới & Việt Nam, 10


phục hậu quả thiên tai, tăng cường hợp tác phòng chống dịch Covid-19, khuyến
khích các doanh nghiệp Australia tăng cường đầu tư vào những lĩnh vực hai
bên quan tâm như viễn thông, hạ tầng, nông nghiệp công nghệ cao, tài chính ngân hàng, khai khống, năng lượng, và tạo điều kiện cho sinh viên Việt Nam
sớm quay lại Australia học tập. Hai bộ trưởng cũng nhất trí tăng cường hợp tác,
ủng hộ nhau tại các cơ chế, diễn đàn khu vực và quốc tế như tại Liên Hợp Quốc,
ASEAN, EAS, Tiểu vùng Mekong, Bộ trưởng Ngoại giao Australia khẳng định
sẽ tiếp tục tích cực hợp tác hỗ trợ các nước tiểu vùng Mekong thông qua các cơ
chế Những người bạn của Mekong (FLM), ACMECS nhằm nâng cao năng lực
phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Kết thúc hội nghị, hai bên đã ký kết
Chương trình hành động triển khai quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam Australia giai đoạn 2020-2023.11
2.2. Quan hệ kinh tế Việt Nam - Australia (2011-2020)
Tính đến tháng 8/2011, Australia có 243 dự án tại Việt Nam với tổng vốn
đầu tư 1,23 tỷ USD, đứng thứ 20/92 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt
Nam. Trong đó, đầu tư của Australia tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực bưu
chính viễn thơng, cơng nghiệp nặng, cơng nghiệp thực phẩm, giáo dục, tài
chính, y tế, …12 Trong năm tài khóa 2011-2012, Australia đã dành cho Việt
Nam 137,9 triệu AUD. Một số dự án lớn khác do Australia viện trợ như dự án
xây cầu Mỹ Thuận (68 triệu AUD), dự án cấp nước cho 5 thị xã Bắc Ninh Bắc Giang - Hà Tĩnh - Vĩnh Long - Long An (25 triệu AUD), các dự án cấp
nước sạch và chăm sóc sức khỏe, bảo vệ nguồn nước và môi trường. Phát triển

nông nghiệp - nông thôn và quản lý nhà nước - giáo dục vẫn là những lĩnh vực
trọng tâm trong chương trình hợp tác phát triển Việt Nam-Australia.13
Thương mại song phương đã phát triển mạnh mẽ từ sau khi hai nước ký
kết thiết lập quan hệ đối tác chiến lược năm 2018. Theo Cục Thống kê
Australia, tổng đầu tư của Australia vào Việt Nam đã lần lượt tăng từ 500 triệu
AUD vào năm 2012 lên 1 tỷ AUD vào năm 2014 và đã đạt cột mốc 2 tỷ AUD
vào năm 2017 (Xem chi tiết ở biểu đồ 1). Tổng hàng hóa của Australia nhập
khẩu Việt Nam cũng đã tăng liên tục từ 2 tỷ AUD vào năm 2013 lên 3 tỷ AUD
vào năm 2014 và đạt 5 tỷ AUD vào năm 2018. (Xem chi tiết ở biểu đồ 2)
Trong đó, khối ngành liên quan đến công nghiệp dịch vụ luôn chiếm khoảng từ
30 đến 50% tổng đầu tư của Australia vào Việt Nam (Xem chi tiết ở biểu đồ 3).
Australia đầu tư tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực Chế tạo, Lữ hành, Xây
dựng - bất động sản, Nông nghiệp, Y tế, Khai khống, Giải trí, Giáo dục, Giao
thơng - vận tải logistic, Khoa học công nghệ. (Xem chi tiết ở bảng 2).
Biểu đồ 1. Tổng đầu tư của Australia vào Việt Nam giai đoạn 20032018 (đơn vị: Triệu AUD)
Anh Sơn (05/11/2020), “Việt Nam-Australia ký Chương trình hành động triển khai quan hệ Đối tác
Chiến lược giai đoạn 2020-2023”, Thế giới & Việt Nam, <url: />truy cập ngày 31/12/2020

11

12

/>
Lê Bá Khởi, Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của Australia cho Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Trường Đại học Kinh tế ĐHQG-HN, Hà Nội, 2012, tr.26 - 27

13


Nguồn: Cục Thống kê Australia (Australian Bureau of Statistics)

Biểu đồ 2. Dịch vụ của Australia nhập khẩu Việt Nam trong giai đoạn
2007-2018

Nguồn: Cục Thống kê Australia (Australian Bureau of Statistics)
Biểu đồ 3. Hàng hóa của Australia nhập khẩu Việt Nam giai đoạn
2008-2018


Bảng 1. Hàng hóa chủ yếu của Australia nhập khẩu Việt Nam năm
2018
(đơn vị: Triệu AUD)
Dầu khí

1178,2

Cotton

466,2

Bơng

314,2

Thịt cừu tươi sống

311,5

Nhơm

241,5


Rau củ quả

205,9

Kẽm

173,9

Đồng

162,5

Thịt bị

83,9

Chì

81,3

Giấy và phim

63,7

Alcohol (đồ uống có
cồn)

38,7



Sữa kem và yogurt

34,9

Nguồn: CTPP: Growing Autralia’s goods exports to Vietnam, tr.7
Bảng 2. Đầu tư của Australia vào Việt Nam theo lĩnh vực cụ thể tính
đến tháng 4/2019
Chế tạo

47,2%

Lữ hành

8,1%

Xây dựng - bất động sản

7,1%

Nơng nghiệp

6,4%

Y tế

6,1%

Khai khống


5,9%

Giải trí

5,5%

Giáo dục

4,1%

Giao thông - vận tải logistic

2,9%

Khoa học công nghệ

2,5%

Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư Việt Nam
(Vietnam Ministry of Planning and Investment)
Chuyến thăm chính thức Việt Nam của thủ tướng Australia Scott
Morrison từ ngày 22-24/8/2019 là một sự kiện quan trọng đối với quan hệ hai
nước. Thứ nhất, điểm nhấn quan trọng nhất trong, hai nước tiếp tục nâng tầm
quan hệ trên cơ sở tin cậy, gắn bó và cùng có lợi. Có thể nói, hai nước cịn rất
nhiều tiềm năng để cùng thúc đẩy hợp tác kinh tế mạnh mẽ, thắt chặt quan hệ
an ninh và phát triển đối tác đổi mới, sáng tạo. Thứ hai là hai bên sẽ phát triển
Chiến lược can dự kinh tế tăng cường với mục tiêu phấn đấu trở thành một
trong 10 đối tác thương mại hàng đầu của nhau. Hợp tác kinh tế trở thành trụ
cột của quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Australia. Với tổng kim ngạch
thương mại hai chiều năm 2018 đạt gần 7 tỷ USD, riêng 6 tháng đầu năm 2019

đạt hơn 3,2 tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2017, Australia là nhà đầu tư
nước ngoài lớn thứ 19 của Việt Nam với số vốn hơn 1,9 tỷ USD.14 Đặc biệt,
sau khi CPTPP mà Việt Nam và Australia là thành viên đi vào triển khai đầu
năm 2019, Việt Nam và Australia cùng tích cực phối hợp thúc đẩy hoàn tất
đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) theo lộ trình.
Tuy nhiên, quan hệ hai nước cịn tồn tại một số khác biệt, trong đó có mở cửa
thị trường đối với nông thủy sản. Những năm 2011-2015, ACIAR (Australian
Center of International Agricultural Reserch - Trung tâm Nghiên cứu Nông
nghiệp Quốc tế Australia) đã hỗ trợ ngành thủy sản Việt Nam nghiên cứu nhiều
đối tượng nuôi trồng thủy sản, nhất là những đối tượng có tính tương đồng giữa
Việt Nam và Australia như cá song, tôm hùm, hải sâm, bào ngư. Đây là những
14

/>

vật ni có giá trị kinh tế cao. Nhờ vậy, ngành thủy sản Việt Nam đã tranh thủ
được những thành tựu khoa học công nghệ của Australia chuyển giao.
Ngày 6/8/2020, lơ nhãn 7,5 tấn có xuất xứ từ các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long đã cập bến Australia, trong khi 9 tấn nhãn đầu mùa của tỉnh Hải
Dương cũng được đóng bao bì từ ngày 8/8/2020 để sang Australia tham gia
chương trình xúc tiến “Nhãn Việt Nam mình” do Thương vụ Việt Nam tại
Australia tổ chức nhằm thúc đẩy tiêu thụ vụ mùa nhãn lớn nhất trong năm của
Việt Nam.
Ngày 5/11/2020, trong khuôn khổ cuộc điện đàm giữa Bộ trưởng Ngoại
giao Phạm Bình Minh và Bộ trưởng Các vấn đề phụ nữ Australia Marise Payne,
Bộ trưởng Payne đã gửi lời chia buồn đến người dân Việt Nam về những mất
mát thương đau về người và của do lũ lụt và sạt lở đất gây ra. Đại sứ Australia
Robyn Mudie cũng cho biết Australia sẽ triển khai đóng góp khắc phục hậu quả
do lũ lụt gây ra tại các tỉnh miền Trung Việt Nam thông qua các đối tác đang
hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ nhân đạo, như Qũy Nhi đồng Liên Hợp Quốc

UNICEF, các tổ chức phi chính phủ trong khn khổ Nhóm Quan hệ đối tác
viện trợ nhân đạo của Australia. Australia cũng tái định hướng nguồn lực của
Chương trình Đổi mới Sáng tạo giữa Australia và Việt Nam (Aus4Innovation)
nhằm nỗ lực cứu trợ, từ đó hỗ trợ nhóm UTS Rapido Việt Nam cung cấp hệ
thống xử lý nước uống cho các cộng đồng cư dân có hồn cảnh khó khăn tại
các tỉnh miền Trung Việt Nam.15
Trong hai này 26 và 27 tháng 11 năm 2020, Ngày hội Hàng Việt Nam đã
hoan nghênh các doanh nghiệp của bang Victoria tăng cường đầu tư, kinh
doanh tại Việt Nam, đưa Victoria trở thành một trong những bang có quan hệ
thực chất, hiệu quả với các địa phương của Việt Nam. Phó thủ tướng Trịnh
Đình Dũng cũng hoan nghênh Đại học RMIT mở rộng đào tạo nhân lực trong
ngành hàng không, đồng thời khẳng định giáo dục đào tạo là quốc sách hàng
đầu của Việt Nam, do đó Việt Nam sẽ cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi để
các cơ sở giáo dục của Australia tiếp tục phát triển tại Việt Nam. Tại ngày hội
cũng đã chứng kiến Lễ ký thỏa thuận hợp tác giữa Bamboo Airway và sân bay
quốc tế Melbourne về hợp tác phát triển đường bay thẳng từ Việt Nam đến
thành phố Melbourne.16
Báo cáo nghiên cứu ngày 13/12/2020 của Trung tâm Nghiên cứu châu Á
và Trung tâm Nghiên cứu APEC thuộc Đại học RMIT đã đưa ra nhận định Việt
Nam là đối tác kinh tế hoàn hảo của Australia. Báo cáo chỉ ra những cơ hội lớn
cho các nhà xuất khẩu thịt bò, ngũ cốc, cây trồng, thực phẩm chế biến, dịch vụ
y tế - giáo dục của Australia. Theo nhận xét của báo cáo, Việt Nam luôn hoan
nghênh các doanh nghiệp Australia, và các thương hiệu doanh nghiệp Australia
Bình Châu (06/11/2020), “Australia viện trợ thêm 2 triệu AUD giúp miền Trung Việt Nam ứng phó
với thiên tai”, Thế giới & Việt Nam, 15

Ban Thời sự (27/11/2019), “Khuyến khích hợp tác giữa địa phương và doanh nghiệp Việt Nam Australia”, Báo điện tử VTV News, <url: Vtv.vn/trong-nuoc/khuyen-khich-hop-tac-giua-dia-phuong-vadoanh-nghiep-viet-nam-australia-20191127183307506.htm>, truy cập ngày 31/12/2020
16



cũng được đánh giá cao, dành nhiều cơ hội hơn. Cựu Bộ trưởng Thương mại
Australia Craig Emerson nhận xét, nền kinh tế của Việt Nam và Australia mang
tính bổ sung thực sự rất cao, đặc biệt trong lĩnh vực cung ứng các dịch vụ giáo
dục.17
2.3. Quan hệ khoa học công nghệ - giáo dục
Từ năm 2009, Australia cam kết tài trợ cho Việt Nam mỗi năm 30 học
bổng tại Học viện Hoàng gia Melbourne - cơ sở đào tạo cấp đại học nước ngoài
đầu tiên ở Việt Nam. Nhiều trường đại học của Việt Nam cũng đã có chương
trình liên kết đào tạo ở bậc đại học và sau đại học với các trường của Australia.
Từ năm 2010, tổng số học bổng Australia cam kết tài trợ cho Việt Nam mỗi
năm đã lên đến 398 suất, trong đó có 225 suất dành cho các chương trình học
sau đại học. Riêng năm 2011, để tạo nguồn nhân lực cơ sở tương lai Việt Nam,
Australia đã cấp 247 học bổng cho chương trình học sau đại học cho năm học
2012-2013.18Ngồi ra, theo thống kê, những người được nhận học bổng của
Australia gồm một số quan chức chính phủ được đào tạo dưới sự bảo trợ của
ODA Australia và có đóng góp quan trọng cho chính sách cơng của Việt Nam,
những người đứng đầu trong các khu vực tư nhân, và những sinh viên ở những
tỉnh nghèo nhất của Việt Nam. Trong đó, 2726 du học sinh Việt Nam hồn
thành chương trình đại học tại Australia theo học bổng chương trình viện trợ đã
trở lại Việt Nam.19 Chẳng hạn như:
Trường đại diện phía Việt Trường ký kết hợp tác phía
Nam
Australia
Đại học Monash
Học viện Cơng nghệ
Hồng gia Melbourne
Đại học
Victoria
Đại học quốc gia Hà Nội

(ĐHQGHN)

Cơng

nghệ

Đại học Canberra
Đại học Queensland
Đại học New England
Đại học New South Wales
Đại học Melbourne
Đại học Macquarie

TTXVN (13/12/2020), “Báo cáo nghiên cứu: Việt Nam là đối tác kinh tế hoàn hảo của Australia”,
Thế giới & Việt Nam, 17

Lê Bá Khởi, Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của Australia cho Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Trường Đại học Kinh tế ĐHQG-HN, Hà Nội, 2012, tr.26 - 27
19
Lê Bá Khởi, Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của Australia cho Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Trường Đại học Kinh tế ĐHQG-HN, Hà Nội, 2012, tr.59

18


Đại học La Trobe
Đại học Flinders
Đại học Adelaide
Đại học Charles Darwin

Đại học Griffith
Đại học Sunshine Coast
Đại học Queensland
Đại học quốc gia Hồ Chí
Minh

Đại học
Australia

Cơng

nghệ

Đại học Adelaide
Đại học Cơng nghệ Sydney
Đại học Macquarie
Đại học Western Sydney
Đại học Công
Queensland
Đại học Kinh tế TPHCM

nghệ

Đại học Monash
Đại học Macquarie
Đại học Curtin
Đại học Canberra
Đại học Melbourne
Đại học New England
Đại học Công nghệ Sydney

Đại học New South Wales

Đại học Nông lâm TPHCM Đại học Curtin
Đại học Newscatlle
Đại học Queensland
Đại học La Trobe
Đại học Southern Cross
Ngày 28/6/2013, GS TS Nguyễn Hữu Đức - Phó giám đốc Đại học quốc
gia Hà Nội (ĐHQGHN) và GS Michael Barber Hiệu trưởng Trường ĐH
Flinders đã tổng kết kết quả hợp tác song phương giai đoạn 2007-2012, trao đổi
để ký lại chương trình MoU về cơng nghệ nano - mơi trường - tài nguyên nước
- khoa học giáo dục. GS TS Nguyễn Hữu Đức cũng đề ra một số hoạt động hợp
tác cụ thể như thành lập nhóm nghiên cứu chung, các nhà khoa học của Trường
ĐH Flinders sẽ sang ĐHQGHN cùng tham gia và hỗ trợ nghiên cứu. GS


Michael Barber cho rằng hai bên có thể tăng cường hợp tác hiệu quả trong các
lĩnh vực như công nghệ nano, năng lượng nước, khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội, và y dược.20
Ngày 14/10/2013, ĐHQGHN và ĐH Canberra đã ký kết văn bản hợp tác
lựa chọn và thúc đẩy các chương trình như đào tạo tiến sĩ 2+2 về Quản trị
doanh nghiệp, nghiên cứu chung về Khoa học môi trường. Các hoạt động hợp
tác đa dạng về hình thức, từ các chương trình trao đổi sinh viên, giảng viên và
cán bộ đến các chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công
nghệ, liên kết đào tạo quốc tế, tổ chức hội thảo khoa học quốc tế, …21
Năm 2011, các thảm họa tự nhiên đe dọa cơ sở hạ tầng nhiều tỉnh thành
trên toàn Việt Nam, làm ngập hơn 450000 ngôi nhà, hơn 350000 héc-ta lúa,
làm chết 295 người, tổng thiệt hại lên tới 620 triệu USD. AusAID đã viện trợ
500000 AUD thông qua Hội Chữ thập đỏ Quốc tế để giúp nhân dân vùng lũ
giảm bớt khó khăn do thiên tai gây nên.22

Là một trong những nước đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt
Nam ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, Australia còn là
nước tiên phong hỗ trợ Việt Nam nguồn nhân lực tái thiết quốc gia. Năm 2000,
cây cầu dây văng đầu tiên nối đôi bờ sông Tiền đã được người dân đồng bằng
sơng Cửu Long nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung đón nhận như một
tặng phẩm của tình hữu nghị thắm thiết từ nhân dân Australia. Kim ngạch
thương mại song phương năm 2017 đã đạt hơn 6,5 tỷ USD, ODA của Australia
dành cho Việt Nam thường niên đạt gần 90 triệu AUD là nguồn vốn q báu
xây dựng nên những cơng trình quan trọng như cầu Mỹ Thuận, cầu Cao Lãnh,
các dự án hỗ trợ phát triển cho người dân nghèo vùng xa, hàng vạn kĩ sư - nhà
khoa học Việt Nam tốt nghiệp các trường đại học tiên tiến của Australia, và
gần 300000 người Việt định cư tại Australia. Năm 2017, Việt Nam cũng đã thu
hút gần 400000 du khách Australia, đón nhận 800 sinh viên Australia đến học
tập lâu dài ở Việt Nam theo kế hoạch Colombo mới của chính phủ Australia.23
Năm 2010, ĐH Công nghệ ĐHQGHN và ĐH Công nghệ Sydney đã ký
thỏa thuận hợp tác trong đào tạo nghiên cứu sinh các lĩnh vực công nghệ thông
tin và điện tử viễn thơng cũng như xây dựng Phịng thí nghiệm hợp tác quốc tế
về công nghệ thông tin - truyền thông ra mắt đầu năm 2017.24 Ngoài ra, từ năm
2011-2013, Đại học Sydney đã phối hợp liên kết chặt chẽ với Trường Đại học
Kinh tế, ĐHQGHN thực hiện dự án Khởi dựng doanh nghiệp cho phụ nữ ở các
Sinh Vũ, “VNU-FU: Đổi mới hợp tác vì sự phát triển”,
truy cập ngày 31/12/2020

20

VNU

Media,



Sinh Vũ, “ĐHQGHN và ĐH Canberra: Tăng cường hợp tác trong đào tạo và nghiên cứu khoa học”,
VNU Media, 21

22

AusAid (2012), Vietnam Annual Programme Performance Report 2011

VGP (15/03/2018), "Australia tự hào có một người bạn là Việt Nam", Thế giới & Việt Nam, truy cập ngày
31/12/2020
23

Sinh Vũ, “Phát triển các mơ hình hợp tác trong nghiên cứu với ĐH Công nghệ Sydney, Australia”,
VNU Media, 24


doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các quốc gia châu Á do AUSAID (Cơ quan Phát
triển Quốc tế Australia) tài trợ. Đại học Sydney cũng là đơn vị đồng tổ chức
cuộc thi Genesis Start-up 2016 - 2017 cho sinh viên Trường Đại học Kinh tế,
ĐHQGHN. Đồng thời, Trường Đại học Kinh tế ĐHQGHN cũng là đơn vị đồng
tổ chức chương trình nghiên cứu chuyên sâu thường niên về doanh nghiệp xã
hội ở Việt Nam cho sinh viên Đại học Sydney.25
Ngày 7/4/2015, đại diện trường Nagle Catholic College, Australia gồm 2
giảng viên và 14 sinh viên đã có chuyến tham quan khn viên Trường Đại học
Cơng nghiệp TP. Hồ Chí Minh và giao lưu với một số sinh viên đang theo học
tại trường.26


Đại sứ Australia tại Việt Nam Craig Chittick và PGS Nguyễn Thị Quế
Anh đã trao 14 suất học bổng cho học viên khóa 5 chương trình thạc sĩ chun
ngành pháp luật về quyền con người của Khoa Luật ĐHQGHN (VNU-LAW).
(Nguồn: )
Sau 7 năm triển khai Khoa Luật đã đào tạo được 4 khóa học thạc sĩ
chuyên ngành về pháp luật về quyền con người với tổng số 93 học viên, trong
đó hơn 70 học viên đã tốt nghiệp. VNU-LAW cũng là đơn vị đầu tiên của Việt
Nam có chương trình đào tạo luật được đánh giá theo bộ tiêu chuẩn AUN
(Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á). Đây cũng là một trong những
trọng tâm xây dựng năng lực về quyền con người mà Australia cam kết thực
hiện khi được bầu vào Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc giai đoạn 20182020. Hỗ trợ cho VNU-LAW nâng cao chất lượng Chương trình đào tạo sau

Thùy Trang, “Mở rộng quan hệ hợp tác giữa ĐHQGHN và Đại học Sydney, Australia”, VNU Media,

25

Phòng Quản lý khoa học & hợp tác quốc tế (12/06/2015), “Cơ hội mở nhiều chương trình liên kết
đào tạo quốc tế”, Trường Đại học Cơng nghiệp TP. Hồ Chí Minh, truy cập ngày 31/12/2020
26


đại học về quyền con người còn là minh chứng cho sự nỗ lực thúc đẩy quyền
con người của Australia một cách thực tế và thiết thực nhất.27
Ngày 17/3/2017, Trường Đại học Công nghệ ĐHQGHN (VNU-UET) và
Đại học Công nghệ Sydney (UTS) đã ra mắt Trung tâm Nghiên cứu Hợp tác
thuộc Trường Đại học Công nghệ ĐHQGHN. Từ khi hai bên ký thỏa thuận vào
năm 2010 đến nay, Trường Đại học Công nghệ ĐHQGHN (VNU-UET) đã
phối hợp với Đại học Công nghệ Sydney đào tạo nghiên cứu sinh các lĩnh vực

công nghệ thông tin và điện tử viễn thông, triển khai hướng nghiên cứu mới có
tính liên ngành như Big Data, Internet of Things (IoT), Cognitive
Communications, Natural Language Processing, IC Design. Trước đó, ngày
15/3/2017, Trường Đại học Cơng nghệ ĐHQGHN (VNU-UET) và Đại học
Công nghệ Sydney (UTS) đã phối hợp tổ chức chủ đề Trường nghiên cứu Công
nghệ tiên tiến cho các ứng dụng IoT (RS2017). Trong khuôn khổ lễ khai mạc
Trường nghiên cứu RS2017, hai bên đã kí kết văn bản hợp tác trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học công nghệ song phương và cam kết thành lập Trung tâm
Nghiên cứu Công nghệ và Hợp nhất JRC.28
3. Nhận xét
Thứ nhất, quan hệ Australia - Việt Nam là tấm gương điển hình phản ánh
xu hướng đối thoại - hợp tác vì sự hịa bình, ổn định và phát triển của khu vực
châu Á Thái Bình Dương nói chung và khu vực Đơng Nam Á nói riêng.
Thứ hai, quan hệ Australia - Việt Nam là quan hệ hợp tác chiến lược
thành cơng, điển hình giữa hai mơ hình chế độ chính trị - xã hội khác nhau,
giữa một trung cường29 truyền thống ở châu Á Thái Bình Dương và một trung
cường mới nổi ở Đông Nam Á nhằm thúc đẩy lợi ích chiến lược lẫn nhau thông
qua hợp tác song phương cũng như đa phương. Việt Nam có vị trí địa chính trị
đầy ý nghĩa chiến lược khi nằm ở ngay cạnh nền kinh tế lớn hàng đầu thế giới
là Trung Quốc và cũng nằm ở vị trí ban cơng hướng ra biển Đơng giàu tài
ngun khống sản, nhất là băng cháy khiến Australia luôn quan tâm định
hướng đến trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại, đặc biệt trong thiết
lập và cải thiện quan hệ với các nước láng giềng trong Đông Nam Á - khu vực
chứa đựng lợi ích cốt lõi của Australia. Ngược lại, Australia là một mắt xích
quan trọng trong cấu trúc đồng minh chiến lược truyền thống của Hoa Kỳ ở
châu Á Thái Bình Dương, một cấu trúc an ninh mà Việt Nam có thể dựa vào để
thúc đẩy hình thành một hệ thống cân bằng quyền lực với nền kinh tế Trung
Quốc. Vì vậy, quan hệ hợp tác chiến lược Việt Nam - Australia được thúc đẩy
là một điều kiện thuận lợi để tăng cường lợi ích chiến lược của mỗi nước nói
Ngọc Diệp - Ngọc Tùng (13/12/2017), “VNU-LAW: 14 học viện nhận tài trợ của Chính phủ

Australia”, Đại học Quốc gia Hà Nội, 27

28

/>
Một quốc gia có sức mạnh, tầm ảnh hưởng dưới siêu cường nhưng nhỉnh hơn phần cịn lại, có lối ứng xử ngoại
giao khơng q quyết liệt, tham vọng nhưng trên mức phòng thủ tiêu cực, có xu hướng coi trọng các dàn xếp đa
phương và tích cực can dự vào các giải pháp quốc tế đối với những vấn đề chung và đại diện cho một bản sắc nào
đó có thể được xem là cường quốc tầm trung (còn gọi là trung cường). (Dẫn theo Lê Đình Tĩnh, “Mục tiêu cường
quốc tầm trung và viễn cảnh ngoại giao Việt Nam sau năm 2030”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 113, tr.22-53)
29


riêng, cũng như lợi ích an ninh chiến lược, ổn định và phát triển của khu vực
nói chung.
Thứ ba, quan hệ kinh tế Australia - Việt Nam là lĩnh vực hợp tác đạt được
nhiều thành tựu đáng kể nhất trong quan hệ Australia - Việt Nam. Tuy nhiên,
quan hệ chính trị giữa hai nước mới là lĩnh vực Việt Nam giành được nhiều ưu
thế vượt trội nhất so với các quốc gia Đông Nam Á khác trong quan hệ hợp tác
với Australia. Vì vậy, có thể nói, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Australia
còn dư địa rất lớn để phát triển tương xứng với vị trí địa chính trị chiến lược
của Việt Nam đối với Australia.
Thứ tư, quan hệ Australia-Việt Nam là mối quan hệ đặc biệt trải qua
nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau; trong suốt giai đoạn sau chiến tranh lạnh
đến nay, nhãn quan chính trị của các thế hệ nhà cầm quyền Australia đã liên tục
thay đổi từ đối thoại sang đối thoại tích cực, từ hợp tác song phương đến hợp
tác toàn diện - hợp tác toàn diện tăng cường và đạt tầm cao mới gần đây nhất là
hợp tác chiến lược. Sự thay đổi mau chóng đó chịu ảnh hưởng phần nhiều bởi
nhân tố các nước lớn (Anh, Mỹ, và Trung Quốc) cũng như bởi chính sự chuyển

hướng nhận thức chiến lược của Australia về khu vực Đơng Nam Á nói riêng
và khu vực châu Á Thái Bình Dương nói chung. Đó là quá trình thay đổi chiến
lược phản ánh xu thế vận động không ngừng của cục diện thế giới và quan hệ
quốc tế trên thế giới luôn gắn liền với hệ thống các trung tâm quyền lực là các
chủ thể quốc gia trên trường quốc tế, luôn được chi phối và quyết định bởi
những nước lớn có tham vọng bá chủ tồn cầu và nắm những lợi ích kinh tế chính trị then chốt trên trường quốc tế.
Thứ năm, lợi ích quốc gia - dân tộc là nhân tố then chốt đóng vai trị
quyết định tác động và chi phối đáng kể đến sự phát triển của mối quan hệ
Australia - Việt Nam. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, lợi ích quốc gia - dân
tộc của Việt Nam gắn liền với mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
thốt khỏi mọi ách áp bức bóc lột, mọi âm mưu toan tính của chủ nghĩa thực
dân kiểu cũ cũng như chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ, từ đó hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó,
xét về nguồn gốc sâu xa, lợi ích an ninh kinh tế, đặc biệt là kinh tế đường biển
vẫn luôn chiếm giữ vị trí đáng kể, chi phối các lợi ích quốc gia khác của
Australia trong q trình hoạch định chính sách đối ngoại cũng như trong quá
trình thiết lập quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đó cũng là
một minh chứng cho sự chuyển hướng chiến lược chung trong quá trình vận
động của quan hệ quốc tế thời hiện đại từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay khi
mối quan tâm chủ yếu của các nước trên thế giới đã chuyển trọng tâm từ đối
đầu về ý thức hệ tư tưởng (trong Chiến tranh Lạnh) sang đối thoại vừa hợp tác
vừa cạnh tranh chiến lược đan xen xoay quanh lĩnh vực kinh tế (sau Chiến
tranh Lạnh). Từ đó, thế kỷ XXI đã mở ra bối cảnh mới tầm nhìn mới, dư địa
mới và vận hội mới trong quan hệ Australia - Việt Nam với tốc độ phát triển
mau chóng chưa từng thấy trong lịch sử.
4. Dự báo triển vọng


Thứ nhất, trong kim ngạch thương mại song phương giữa Australia và
Trung Quốc, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Australia. Chính

nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc, đặc biệt là về khoáng sản và nhiên liệu, là
một yếu tố quan trọng giúp cho Australia trở thành một trong những nền kinh
tế phát triển hiếm hoi duy trì được mức tăng trưởng dương và vượt qua được
cuộc suy thối kinh tế thế giới 2008. Chính vì vậy Australia sẽ lâm vào một thế
lưỡng nan khi vừa phải bảo vệ các lợi ích kinh tế trong quan hệ với Trung
Quốc, vừa phải thực hiện những biện pháp chiến lược về chính trị và an ninh
nhằm kiểm sốt sự trỗi dậy của Trung Quốc. Trong trường hợp Australia nhận
thấy lợi ích từ hợp tác với Trung Quốc quá lớn khơng thể hi sinh thì Australia
sẽ phải điều chỉnh chiến lược, và khi đó quan hệ Việt Nam – Australia có thể bị
ảnh hưởng tiêu cực.
Thứ hai, vẫn cịn tồn tại những khác biệt giữa hai nước liên quan đến dân
chủ, nhân quyền. Tuy nhiên dường như đây không phải là một vấn đề quá lớn
khi Australia không quá nhấn mạnh vấn đề này trong quan hệ song phương với
Việt Nam. Mặt khác, áp lực của cộng đồng người Việt lên chính phủ Australia
liên quan đến vấn đề dân chủ, nhân quyền khơng lớn như ở Mỹ. Chính vì vậy,
trong khi hai bên tiếp tục duy trì các cuộc đối thoại về nhân quyền như là một
cơng cụ nhằm hóa giải khác biệt, nâng cao hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thì
nhiều khả năng Australia sẽ khơng để vấn đề này phủ bóng đen lên triển vọng
lâu dài của mối quan hệ chiến lược song phương. Tóm lại, về lâu dài triển vọng
quan hệ chiến lược Việt Nam – Australia có nhiều cơ hội để tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên những thách thức đặt ra cho cả Việt Nam và Australia là
không nhỏ khi mà cả hai nước đều phải cân bằng lợi ích an ninh với lợi ích
kinh tế, đồng thời điều chỉnh quan hệ song phương trong mối tương tác với
Trung Quốc. Tuy nhiên có thể nói chiến lược tăng cường quan hệ với những
cường quốc tầm trung trong khu vực như Australia cũng như Nhật Bản, Ấn Độ
hay Hàn Quốc là một lựa chọn khả dĩ và khôn ngoan đối với Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay nhằm đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, đặc biệt là
trên khu vực Biển Đông.30
KẾT LUẬN
Quan hệ Việt Nam - Australia đã và đang ngày càng được thắt chặt, nâng

tầm lên cao hơn bao giờ hết. Bên cạnh những nhân tố khách quan có tác động
chi phối đến quan hệ hợp tác chiến lược giữa hai nước (tình hình kinh tế - xã
hội khu vực và thế giới, nhân tố các nước lớn như Mỹ-Trung, vị trí địa chiến
lược và sự vận động địa chính trị của hai nước), những nhân tố chủ quan như
nhãn quan chính trị và sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của giới lãnh đạo
cầm quyền của hai nước cũng đóng vai trị khơng nhỏ. Sự gặp gỡ giữa đường
lối đối ngoại đa phương toàn diện của Việt Nam và tư tưởng Hướng về châu Á
trong Thế kỷ Châu Á của Australia đã củng cố thêm quan hệ song phương giữa
hai nước trong giai đoạn 2011-2020, mở ra thêm nhiều vận hội, dư địa mới cho
Le Hong Hiep (21/03/2012), “Australia and Vietnam deepen their strategic relationship”,
EastAsiaForum,30


các lĩnh vực mà hai nước có thể bổ sung cho nhau, đặc biệt như lĩnh vực khoa
học công nghệ - giáo dục, khai khống, chế biến nơng thủy sản. Về tương lai
gần, sự hợp lưu trong lợi ích quốc gia giữa hai nước trên lĩnh vực kinh tế và địa
chính trị, đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến an ninh khu vực Đông Nam Á
sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Australia phát triển tích cực để đảm
bảo khơng chỉ lợi ích của hai nước mà cả môi trường ổn định và hợp tác phát
triển ở khu vực chứa đựng lợi ích cốt lõi của cả Australia và Australia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Thời sự (27/11/2019), “Khuyến khích hợp tác giữa địa phương và
doanh nghiệp Việt Nam - Australia”, Báo điện tử VTV News, Vtv.vn/trong-nuoc/khuyen-khich-hop-tac-giua-dia-phuong-va-doanh-nghiepviet-nam-australia-20191127183307506.htm>, truy cập ngày 31/12/2020
Bình Châu (06/11/2020), “Australia viện trợ thêm 2 triệu AUD giúp miền
Trung Việt Nam ứng phó với thiên tai”, Thế giới & Việt Nam, truy cập ngày 31/12/2020
Nguyễn Đình Chiến (2016), Quan hệ Australia - Việt Nam giai đoạn
2001-2011, Luận văn thạc sĩ Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
Ngọc Diệp - Ngọc Tùng (13/12/2017), “VNU-LAW: 14 học viện nhận tài
trợ của Chính phủ Australia”, Đại học Quốc gia Hà Nội, truy cập ngày 31/12/2020
Le Hong Hiep (21/03/2012), “Australia and Vietnam deepen their
strategic
relationship”,
EastAsiaForum,Lê Bá Khởi (2012), Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức của Australia cho Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Trường Đại học Kinh tế
ĐHQG-HN, Hà Nội
Nguyễn Văn Khu (2020), Hợp tác quốc phòng đa phương ở châu Á Thái
Bình Dương từ năm 1994 đến nay, Luận án tiến sĩ Trường Đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
Phòng Quản lý khoa học & hợp tác quốc tế (12/06/2015), “Cơ hội mở
nhiều chương trình liên kết đào tạo quốc tế”, Trường Đại học Công nghiệp TP.
Hồ Chí Minh, <url: />truy
cập
ngày
31/12/2020
Richard N.Haass (07/04/2020), “Tồn cảnh trật tự thế giới mới hình thành
sau
dịch
COVID-19”,
Foreign
Affairs,
truy cập ngày 31/12/2020



Anh Sơn (05/11/2020), “Việt Nam-Australia ký Chương trình hành động
triển khai quan hệ Đối tác Chiến lược giai đoạn 2020-2023”, Thế giới & Việt
Nam, Stewart Firth (2005), Australian in International Politics: An Introduction
to Australian foreign policy, Sydney: Southwood Press
Thanh Thanh (05/11/2020), “Australia đặt ưu tiên cao với Việt Nam trong
chính sách đối ngoại”, Thanh tra, Thế giới & Việt Nam (15/03/2018), “Tuyên bố chung về thiết lập Đối tác
chiến lược Việt Nam - Australia”, Thế giới & Việt Nam, truy cập ngày 31/12/2020
Thế giới & Việt Nam (22/08/2019), “Việt Nam - Australia: Hướng tới đối
tác thương mại hàng đầu”, Thế giới & Việt Nam, truy cập ngày 31/12/2020
Sinh Vũ, “VNU-FU: Đổi mới hợp tác vì sự phát triển”, VNU Media, truy cập ngày 31/12/2020
Thùy Trang, “Mở rộng quan hệ hợp tác giữa ĐHQGHN và Đại học
Sydney,
Australia”,
VNU
Media,
truy cập ngày 31/12/2020
TTXVN (13/12/2020), “Báo cáo nghiên cứu: Việt Nam là đối tác kinh tế
hoàn hảo của Australia”, Thế giới & Việt Nam, Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
VGP (15/03/2018), "Australia tự hào có một người bạn là Việt Nam", Thế
giới & Việt Nam, Sinh Vũ, “ĐHQGHN và ĐH Canberra: Tăng cường hợp tác trong đào tạo


nghiên
cứu
khoa
học”,
VNU
Media,
truy cập ngày 31/12/2020
Sinh Vũ, “Phát triển các mơ hình hợp tác trong nghiên cứu với ĐH Công nghệ
Sydney, Australia”, VNU Media, truy cập ngày 31/12/2020


×