Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BTT TẠI VIỆT NAM.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.02 KB, 15 trang )

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần triển khai DV BTT tại Sacombank

3.1 TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BTT TẠI VIỆT NAM
3.1.1 BTT nội địa
Thị trường Việt Nam là một thị trường tiềm năng, với dân số trên 80 triệu dân,
GDP tăng trưởng bình quân trên 7% năm từ năm 1995 đến nay. Các doanh nghiệp
Việt Nam luôn phải đối diện với một khó khăn rất lớn đó là nguồn vốn bị giới hạn
(chủ yếu là giới hạn vốn cứng). Nhu cầu vốn của các doanh nghiệp là rất lớn, tuy
nhiên NH và các tổ chức tín dụng vì biện pháp hạn chế rủi ro và những bất trắc có
thể xảy ra cho doanh nghiệp mình mà đã có những quy định, những thủ tục rườm rà
và cả việc yêu cầu thế chấp khi doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn. Vì vậy việc phát
triển BTT là một biện pháp rất tốt có thể giúp cho doanh nghiệp lẫn NH có thể cởi
mở trong những hình thức tín dụng.
Thêm vào đó, Việt Nam cũng là một quốc gia có khả năng thu hút vốn FDI
vào loại lớn nhất trên thế giới. Tuy vậy, nguồn vốn này để đến các doanh nghiệp tư
nhân dường như là một điều không thể. Trong khi đó quỹ bảo lãnh tín dụng đã có
quyết định thành lập nhưng hoạt động còn non kém chưa thực sự là chỗ dựa tín
dụng cho các doanh nghiệp. Vì thế, để giải quyết vấn đề vốn cho các doanh nghiệp,
các NH cần phải có những nghiệp vụ NH mới giúp các doanh nghiệp có thể mở
rộng phạm vi huy động vốn, giúp cho vòng quay vốn nhanh từ đó mở rộng đầu tư.
Đó cũng là một biện pháp giúp sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả hơn.
Hiện nay Việt Nam đã trở thành viên chính thức của WTO, các doanh nghiệp
Việt Nam đứng trước những vận hội mới nhưng cũng lắm những thách thức mới.
Liệu các doanh nghiệp Việt Nam có cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp nước
ngoài hay là chấp nhận thua ngay trên sân nhà. Điều đó phụ thuộc rất lớn vào quy
mô vốn của cá doanh nghiệp Việt Nam. Trong điều kiện thiếu vốn chung đó thì
BTT tỏ ra là một trong những kênh tài trợ vốn linh hoạt. Sử dụng BTT có thể cung
cấp một nguồn tài trợ linh hoạt vì nguồn vốn của doanh nghiệp không bị cột chặt
vào các khoản phải thu, mà hoàn toàn có thể sử dụng nó cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình. Chính cái lợi này mà trong tương lai có lẽ các doanh nghiệp
Việt Nam sẽ chọn BTT như một hình thức tín dụng mới trong huy động vốn.


SVTH: Nguyễn Thanh Tú -61-
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần triển khai DV BTT tại Sacombank

3.1.2 BTT xuất khẩu
Với xu thế hội nhập hiện nay, việc giao thương kinh tế giữa các nước sẽ diễn
ra ngày càng mạnh mẽ hơn, hoạt động XNK tăng mạnh. Trước thực trạng đó đòi hỏi
các doanh nghiệp không chỉ phát triển sản xuất chiếm lĩnh thị trường trong nước mà
còn mở rộng ra thị trường quốc tế. Khi đó nhu cầu tài trợ cho XK là rất lớn do đó
trong tình thế này BTT đã tỏ ra là một giải pháp hữu hiệu.
Để đạt được kết quả khả quan trong hoạt động XK thì hoạt động tín dụng đã
đóng góp một phần không nhỏ. Nếu hỗ trợ tín dụng của Nhà nước mang tầm vĩ mô
và tác động một cách gián tiếp thì hỗ trợ tín dụng XK của NH lại ảnh hưởng hoạt
động kinh doanh XNK của các doanh nghiệp một cách trực tiếp, tức thời và qua
từng thời vụ.
Hiện nay thiếu vốn đang là vấn đề lớn không chỉ của các doanh nghiệp XK mà
còn là của hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam. Vì vậy để huy động thêm vốn các
doanh nghiệp phải dựa vào các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, cầu tăng mà cung
có hạn thì tất yếu dẫn đến lãi suất cho vay tăng. Tình trạng này cũng làm cho các
doanh nghiệp XK gặp khó khăn. Sự ra đời của loại hình BTT XK sẽ giúp cho các
doanh nghiệp XK thu hồi được vốn nhanh mà thủ tục lại rất đơn giản. Hơn thế nữa
đưa ra loại hình tín dụng này chính là đa dạng hóa danh mục sản phẩm tín dụng của
các TCTD.
Về mặt pháp lý thì hiện nay NH Nhà Nước đã ban hành quy chế về hoạt động
BTT của các TCTD. Như vậy các TCTD đã có hành lang pháp lý để có cơ sở triển
khai dịch vụ này.
3.2 NHỮNG TỔN THẤT VÀ BẤT CẬP KHI ÁP DỤNG BTT TẠI
SACOMBANK
3.2.1 Những tồn tại và bất cập tại Việt Nam
Kể từ khi quyết định về quy chế hoạt động BTT được ban hành cho đến khi
nghiệp vụ bắt đầu được triển khai là cả một thời gian dài im hơi lặng tiếng, sau đó

là những hoạt động cầm chừng và nặng về hình thức hơn là chất lượng dịch vụ. Cho
SVTH: Nguyễn Thanh Tú -62-
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần triển khai DV BTT tại Sacombank

đến nay, theo như thống kê ở trên thì VN hiện nay chỉ mới có gần 20 tổ chức tín
dụng tham gia đăng ký cung cấp dịch vụ BTT, nhưng doanh số giao dịch vẫn còn
rất khiêm tốn, đối tượng khách hàng thì hạn chế trong phạm vi một số khách hàng
quen thuộc (hay còn gọi là khách hàng “ruột”) của ngân hàng.
Nghiệp vụ BTT ở VN theo định nghĩa của các văn bản là “việc cấp tín dụng
thông qua việc mua lại các khoản phải thu”, định nghĩa như vậy liệu có chính xác
không? Quan hệ tín dụng là một quan hệ tách bạch riêng, khác với quan hệ mua
bán, nếu trong khái niệm đưa ra hai cụm từ vừa là quan hệ tín dụng, vừa là quan hệ
mua bán thì sẽ rất nhập nhằng và gây khó hiểu cho người đọc cũng như người sử
dụng những thuật ngữ này. Ngoài ra, trong các văn bản pháp luật liên quan đều đề
cập chi tiết là việc thực hiện nghiệp vụ BTT phải được bên bán hàng và bên mua
hàng thỏa thuận từ trước trong hợp đồng, liệu điều này có hạn chế phạm vi hoạt
động của các tổ chức BTT cũng như quyền lợi được tham gia vào nghiệp vụ này
của những công ty bán hàng không có thỏa thuận từ trước không.
Một điểm còn yếu trong hệ thống luật của VN về hoạt động BTT được ông
Jeroen Kohnstamm nêu ra trong báo cáo của mình tại hội thảo đó là trong hoạt động
BTT sẽ diễn ra một bước quan trọng: “chuyển giao quyền đòi nợ” từ người bán
hàng sang đơn vị BTT nhưng lại không thấy có quy định liên quan nào xác lập mối
quan hệ này, như vậy việc chuyển giao này có được thừa nhận không, và trong
trường hợp không được thừa nhận thì phải xử lý như thế nào. Bên cạnh đó, sau khi
bên bán hàng và đơn vị BTT thỏa thuận, ký kết hợp đồng BTT sẽ phải “thông báo
bằng văn bản cho bên mua hàng”, liệu như thế đã đủ chưa, làm thế nào để biết được
rằng việc thông báo đã có hiệu lực thi hành cho tất cả các bên.
Hoạt động của nghiệp vụ BTT tại ngân hàng cũng chưa được tách bạch khỏi
hoạt động tín dụng mà hầu như theo sự quản lý thì lại gần như giống nhau hoàn
toàn. Trong khi đó, yêu cầu để phát triển dịch vụ BTT ở các nước trên thế giới là

việc tài trợ trong BTT sẽ “không thiên về khuynh hướng từng giao dịch cũng như
không phải là hoạt động “chiết khấu” từng khoản phải thu riêng biệt”, các đơn vị
SVTH: Nguyễn Thanh Tú -63-
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần triển khai DV BTT tại Sacombank

BTT sẽ có những tiêu chí riêng để lựa chọn khách hàng và kiểm soát khách hàng,
không phải giống hoàn toàn như tiêu chí của ngân hàng khi cho vay (có thể dựa vào
tài sản đảm bảo và việc thẩm định người bán hàng), có rất nhiều yếu tố mà được các
đơn vị BTT xem xét trong khi những yếu tố đó thường không được các ngân hàng
để ý (ví dụ như rủi ro của đơn vị BTT không nằm ở chỗ người bán mà là ở chỗ khả
năng thanh toán tiền của những người mua cũng như mức độ phân tán giữa các
người mua).
Tóm lại, để VN có thể phát triển được một thị trường dịch vụ BTT hoàn thiện
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì sẽ cần sự cố gắng và nỗ lực
của rất nhiều bên, tuy nhiên cái gốc sẽ vẫn là những điều chỉnh phù hợp của các văn
bản pháp luật hiện hành sao cho vẫn giữ được những đặc trưng vốn có của loại
nghiệp vụ đặc biệt này và đồng thời phát huy hiệu quả trong quá trình triển khai
thực hiện nghiệp vụ. Một trong những đề xuất mà chúng tôi cũng đồng tình với các
chuyên gia đưa ra trong các cuộc hội thảo, đó là nên tách bạch hoạt động cho vay
với BTT, hai nghiệp vụ này không thể là một và không chịu chung sự kiểm soát
theo cùng một kiểu, cũng như nếu có thể thì bộ phận phụ trách dịch vụ BTT sẽ nằm
độc lập với các hộ phận cung cấp dịch vụ khác của ngân hàng, nhất là bộ phận tín
dụng để có thể tập trung vào những tiêu chuẩn thẩm định riêng của mình, từ đó tiến
tới là công ty BTT sẽ là một công ty độc lập và không chịu sự chi chối của luật các
TCTD hiện hành; chẳng hạn như việc hiện nay hoạt động BTT phải bảo đảm: “tổng
số dư BTT cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của đơn vị
BTT” là một điều hết sức phi lý, bởi rủi ro lúc này không phụ thuộc vào khách hàng
đó mà chỉ phụ thuộc vào “khách hàng của khách hàng” mà thôi.
Tuy vẫn còn những việc phải hoàn thiện, nhưng theo chúng tôi cần phát triển

nhanh nghiệp vụ BTT trong hệ thống ngân hàng thương mại VN, góp phần đa dạng
hóa sản phẩm ngân hàng, qua đó sẽ thúc đẩy thương mại phát triển, kinh tế sẽ tăng
trưởng nhanh.
SVTH: Nguyễn Thanh Tú -64-
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần triển khai DV BTT tại Sacombank

3.2.1 Những tồn tại và bất cập tại Sacombank
Các doanh nghiệp vẫn còn quen sử dụng các phương thức thanh toán truyền
thống như: tín dụng thư (L/C), nhờ thu, hối phiếu…nên mặc dù đã ban hành quy
chế BTT xuất khẩu từ cuối 2005 nhưng cho đến nay vẫn chưa có đơn vị XK nào sử
dụng dịch vụ này.
Mặc dù đã ban hành những quy chế về BTT nội địa cũng như BTT XK từ năm
2005, nhưng cho đến nay HĐQT vẫn còn đang trong quá trình nghiên cứu và cải
tiến sản phẩm vì cho đến hiện tại thì số lượng doanh nghiệp tìm đến dịch vụ này
vẫn còn rất khiêm tốn.
Trên website www.sacombank.com.vn chỉ có giới thiệu về sản phẩm BTT nội
địa, nhưng không có giới thiệu về sản phẩm BTT quốc tế. Hơn nữa, những nội dung
giới thiệu trên trang web này vẫn không rõ ràng nên không gây được ấn tượng đối
với các doanh nghiệp khách hàng.
Theo quy trình bao thanh toán mới, Sacombank đã bỏ bớt một bước là không
phải ký hợp đồng liên kết với bên mua hàng. Điều này tạo thuận lợi rất nhiều cho
Ngân cũng như khách hàng khi áp dụng sản phẩm này.
Tuy nhiên, vì danh mục các bên mua hàng được Ngân hàng chấp nhận rất ít
(thực ra là chưa có công ty nào cả), do đó để triển khai các chi nhánh/sở giao dịch
vẫn phải đề cử danh mục các công ty mua hàng, rồi gởi về hội sở để họ thẩm định.
Và khó nhất là hội sở sẽ thẩm định bên mua hàng như một khách hàng vay mới.
Điều này rất khó thực hiện, đặc biệt là với các công ty hoặc tập đoàn lớn như
Vinamilk, Coopmart, Metro, vì các công ty này không đồng ý cung cấp các thông
tin tài chính và đồng ý cho Ngân hàng thẩm định tình hình tài chính của họ, nhất
là với các hợp đồng không lớn, hoặc bên bán là các công ty nhỏ.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú -65-
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần triển khai DV BTT tại Sacombank

3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TRIỂN KHAI DV BTT TẠI
SACOMBANK
Trên nền tảng Sacombank đang tiến hành lập danh mục các bên mua hàng, tạo
thuận lợi bước đầu cho việc triển khai DV BTT vào thực tế. Tuy nhiên, để góp phần
vào việc triển khai một cách hiệu quả, xin đưa ra một số kiến nghị sau:
3.3.1 Tạo nhận biết về sản phẩm cho người tiêu dùng
Trước tiên chúng ta cần xác định sản phẩm là một sản phẩm tài chính và khách
hàng là các DN hoạt động mua bán hàng hóa và có phát sinh các KPT.
Sản phẩm tài chính cũng giống như sản phẩm tài chính thông thường khác, chỉ
khác nhau một điểm là tính năng sử dụng. Vì thế, việc phát triển sản phẩm cũng có
nét tương đồng với việc phát triển hàng hóa thông thường khác. Bất cứ DN nào,
muốn phát triển sản xuất đều phải nghiên cứu cải tiến chất lượng và đa dạng hóa
sản phẩm để phục vụ người tiêu dùng . Để làm điều này các DN sẽ tiến hành nghiên
cứu sản phẩm mới và đưa sản phẩm vào thị trường và cho khách hàng làm quen với
sản phẩm mới. Thông thường các DN thực hiện việc quảng cáo sản phẩm để khách
hàng biết đến sản phẩm mới của mình.
Đối với sản phẩm BTT của NH cũng thế, người tiêu dùng hầu như chưa biết
đến sản phẩm này, vì thế, chưa biết được tính ưu việt của sản phẩm nên không thể
sử dụng sản phẩm. Do đó, để phát triển được nghiệp vụ này điều đầu tiên chúng ta
cần thực hiện là việc giới thiệu cho khách hàng làm quen với sản phẩm. Chúng ta có
thể giới thiệu dịch vụ thông qua hình thức quảng cáo, tổ chức các buổi hội thảo…
• Để giới thiệu nghiệp vụ này đến người có nhu cầu sử dụng, điều đầu tiên
mà các tổ chức BTT hay NH cần thực hiện là tổ chức các buổi tập huấn,
giới thiệu về nghiệp vụ này cho các cán bộ công tác tại NH về ưu nhược
điểm và nội dung nghiệp vụ. Khi các nhân viên đã biết được thế nào là
nghiệp vụ BTT, họ sẽ thực hiện việc giới thiệu dịch vụ với khách hàng để
khách hàng làm quen với nghiệp vụ này. Đây là một việc làm rất cần thiết

SVTH: Nguyễn Thanh Tú -66-

×