Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Tài liệu TÌM HIỂU VỀ HÔN ƯỚC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC Ở VIỆT NAM pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.62 MB, 72 trang )









BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
***



PHẠM THỊ LINH NHÂM



TÌM HIỂU VỀ HÔN ƯỚC VÀ
KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC Ở VIỆT NAM




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP








HÀ NỘI - 2010



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI




PHẠM THỊ LINH NHÂM
DS31B



TÌM HIỂU VỀ HÔN ƯỚC VÀ
KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hôn nhân và gia đình


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan







HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC

Mục lục
trang
LỜI MỞ ĐẦU
1
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN ƯỚC – ĐẶC TRƯNG CỦA
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN ƯỚC ĐỊNH
1.1. Hôn ước và các chế độ tài sản
3
1.1.1. Khái niệm hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng 3
1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành của hôn ước 4
1.1.3. Đặc điểm của hôn ước 8
1.2. Pháp luật Việt Nam với việc qui định về hôn ước
9
1.2.1. Hôn ước trong pháp luật thời kì Pháp thuộc 10
1.2.2. Hôn ước theo hệ thống pháp luật ở miền nam nước ta trước
ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975)
12
1.2.3. Hôn ước trong pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta
từ Cách mạng Tháng tám (1945) đến nay
14
1.3. Hôn ước trong pháp luật một số nước trên thế giới
16
1.3.1 Hôn ước theo pháp luật của Cộng hòa Pháp 16
1.3.2 Hôn ước theo pháp luật của Hoa Kì 19
1.3.3 Hôn ước theo pháp luật của Nhật Bản 21
1.3.4 Hôn ước theo pháp luật của Thái Lan 22

Chương 2 KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
2.1 Hôn ước phổ biến và là xu hướng của thế giới
25
2.1.1 Hôn ước trong tư pháp quốc tế 25
2.1.2 Hôn ước được áp dụng tại nhiều quốc gia 27
2.2. Hôn ước phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội Việt
Nam hiện đại
28
2.2.1. Sự thay đổi về yếu tố cá nhân và chức năng kinh tế trong gia đình 28
2.2.2 Tình trạng chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân để đầu tư
kinh doanh riêng.
31
2.2.3 Tình trạng li hôn gia tăng kèm theo vấn đề chia tài sản khi li hôn

33

2.2.4 Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài trở nên phổ biến 34
2.2.5 Dư luận xã hội 35
2.2.6 Quan điểm của các nhà nghiên cứu luật 35
2.3 Xu hướng tương thích của pháp luật Việt Nam với hôn ước
36
2.3.1 Qui định về công nhận và cho thi hành bản án của tòa án
nước ngoài
36
2.3.2 Những qui định cho phép vợ chồng được thỏa thuận làm thay
đổi về căn cứ xác lập tài sản
39
2.4 Một số kiến nghị về việc áp dụng hôn ước tại Việt Nam
47

2.4.1 Hoàn thiện các qui định về các vấn đề về tài sản vợ chồng mà
vợ chồng được thỏa thuận và lộ trình áp dụng hôn ước
47
2.4.2 Hình thức và nội dung của các qui định kiến nghị áp dụng 50
LỜI KẾT
55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Phụ lục 1
Phụ lục 2


1

LỜI MỞ ĐẦU

Khi chưa bước vào hôn nhân, hai người nam nữ là những người có tài sản
riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào hôn
nhân, điều đó đã khác. Tất cả các vấn đề về tài sản của họ được điều chỉnh bởi
một qui chế pháp lí có tên là “chế độ tài sản vợ chồng”. Theo một logic đơn
thuần: khi chưa bước vào hôn nhân, từng cá nhân được tự do định đoạt tài sản của
mình thì trong hôn nhân hai cá nhân đó cũng được thỏa thuận định đoạt chế độ tài
sản vợ chồng. Có lẽ vì thế mà hầu hết các quốc gia trên thế giới cho phép những
người sắp kết hôn tự thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng bằng một văn bản có
tên là “hôn ước”. Việt Nam thì không như vậy: chế độ tài sản vợ chồng chỉ do
pháp luật qui định.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội, chế độ tài sản vợ chồng của
Việt Nam đã có những sự thay đổi đáng kể, từ chỗ không chấp nhận bất cứ thỏa
thuận nào của vợ chồng về việc xác lập tài sản (như qui định trong Luật hôn nhân
và gia đình năm 1959) đến chỗ cho phép vợ chồng được thỏa thuận về việc chia

tài sản chung trong thời kì hôn nhân thậm chí thỏa thuận cả về hậu quả của việc
chia tài sản này (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định 70/2001/NĐ-
CP). Sự thay đổi đó phải chăng đã khiến cho các qui định pháp luật tiến gần hơn
tới chỗ chấp nhận hôn ước? Vì thế nghiên cứu về hôn ước là điều cần thiết để giải
đáp câu hỏi này. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, các quan hệ hôn nhân có yếu
tố nước ngoài ngày một nhiều, điều đó khiến chúng ta không thể thờ ơ trước vấn
đề hôn ước bởi hôn ước được pháp luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi
nhận. Vì vậy, người viết đã chọn đề tài “Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp
dụng hôn ước ở Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, người viết mong muốn khái quát được
nội hàm, đặc điểm của hôn ước và nêu ra xu hướng áp dụng hôn ước của xã hội
Việt Nam hiện đại, người viết cũng mong muốn đề nghị một lộ trình phù hợp cho
việc áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam.

2

Ở nước ta, từ sau khi thống nhất (1975), hôn ước ít khi trở thành đối tượng
chính của các công trình nghiên cứu khoa học. Dù khi đề cập đến chế độ tài sản
vợ chồng hầu như các nghiên cứu khoa học đều có nói đến hôn ước; song theo
người viết tìm hiểu thì hôn ước chỉ được coi là đối tượng nghiên cứu chính trong
hai bài báo “Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam” của ThS Nguyễn Hồng Hải và “Chế độ tài sản theo thỏa
thuận của vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam” của
ThS Bùi Minh Hồng. Tuy nhiên với phạm vi của một bài báo khoa học, hai bài
nghiên cứu này chưa thể đề cập một cách tổng quan và đầy đủ về hôn ước cũng
như khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.
Vì vậy, khóa luận này, với đề tài đã chọn sẽ cố gắng đưa ra những điểm
mới sau đây:
 nghiên cứu khái quát về hôn ước bao gồm lược sử, nội hàm và đặc điểm
của hôn ước;

 nghiên cứu và bình luận về hôn ước ở Việt Nam qua từng thời kì lịch sử;
 tìm hiểu về hôn ước ở các nước có các đặc điểm hình thái xã hội và pháp
luật khác nhau;
 nghiên cứu về sự phù hợp của hôn ước với xu hướng phát triển của xã hội
Việt Nam;
 nghiên cứu một giải pháp phù hợp cho việc áp dụng hôn ước ở Việt Nam.
Về phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng kết hợp phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, phương pháp
phân tích – tổng hợp, phương pháp Luật học so sánh và phương pháp thu thập
thông tin để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
Về bố cục, khóa luận kết cấu thành hai chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản
ước định.
Chương 2: Khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.

3

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN ƯỚC – ĐẶC TRƯNG CỦA
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN ƯỚC ĐỊNH

1.1. HÔN ƯỚC VÀ CÁC CHẾ ĐỘ TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng
1.1.1.1. Chế độ tài sản vợ chồng
Do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân mà các vấn đề về quyền sở
hữu đối với tài sản của vợ chồng không thể chỉ điều chỉnh bằng các qui định
chung về sở hữu tài sản thông thường. Tất cả các quốc gia trên thế giới dù chế
độ xã hội khác nhau, trình độ phát triển kinh tế khác nhau, điều kiện về phong
tục tập quán, truyền thống văn hóa khác nhau, tất cả các quốc gia đó dù đã qui
định về quyền sở hữu tài sản thông thường nhưng ít hay nhiều cũng đều có qui

định riêng về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng.
“Tổng hợp các qui định của pháp luật về căn cứ xác lập tài sản, quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng, nguyên tắc phân
chia tài sản vợ chồng là chế độ tài sản của vợ chồng”
1
. Nói đến chế độ tài sản
vợ chồng là nói đến vấn đề sở hữu đối với tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản
của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kì hôn nhân (từ khi kết hôn cho đến khi hôn
nhân chấm dứt) và cũng do đó chế độ tài sản vợ chồng không bao gồm các vấn
đề thừa kế tài sản giữa vợ và chồng, vấn đề cấp dưỡng của vợ chồng.
1.1.1.2. Chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản ước định
Về hình thức pháp lí, chế độ tài sản vợ chồng có thể được xác định theo
căn cứ pháp luật (chế độ tài sản pháp định) hoặc theo thỏa thuận của vợ chồng
(chế độ tài sản ước định).
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu về
căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản của vợ
chồng. Chế độ tài sản pháp định được pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế
giới dự liệu.

1
TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Tư pháp,
2008, tr 8.

4

Khác với chế độ tài sản pháp định, chế độ tài sản ước định là chế độ tài
sản mà trong đó căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài
sản của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận.

1.1.1.3. Hôn ước
Khi áp dụng chế độ tài sản ước định, vợ chồng được tự do thỏa thuận
về chế độ tài sản trong thời kì hôn nhân. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận đó
là hôn ước.
Hôn ước là văn bản do hai bên nam nữ lập trước khi kết hôn theo thể
thức nhất định trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của họ về chế độ tài sản vợ
chồng được áp dụng trong thời kì hôn nhân và chỉ phát sinh hiệu lực trong thời
kì hôn nhân.
1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành của hôn ước
Theo quan điểm thịnh hành của các luật gia Việt Nam, hôn ước ra đời do
quan điểm của các nhà lập pháp phương Tây, theo họ hôn nhân thực chất chỉ là
một loại hợp đồng dân sự chỉ khác ở sự trang trọng khi thiết lập và trong việc
chấm dứt; bên cạnh đó, các nhà làm luật của phương Tây cũng đề cao quyền tự
do cá nhân, quyền định đoạt tài sản của vợ chồng
2
. Tuy nhiên nếu tóm lược sự ra
đời của hôn ước như vậy sẽ không phản ánh được hết nguyên nhân khách quan
của sự tồn tại của hôn ước. Theo người viết, như các qui định khác, hôn ước có
nguồn gốc lịch sử lâu đời, có quá trình phát triển.
1.1.2.1. “Thỏa thuận hôn nhân” và “thỏa thuận về điều kiện của
hồi môn”
Có lẽ những hôn ước đầu tiên đã được xuất hiện từ thời La Mã cổ đại
dưới hình thức thỏa thuận hôn nhân (nuptias consensus facit)
3
trong hôn nhân

2
Dễ dàng tìm đọc quan điểm này tại các bài viết về chế độ tài sản vợ chồng. xin trích dẫn một vài tài liệu: Nguyễn
Hồng Hải, Xác định tài sản của vợ chồng một số vấn đề lí luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ trường Đại học Luật
Hà Nội, 2002; TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,

NXB Tư pháp, 2008; …
3
Tiếng Latinh, thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã (chủ biên
ThS Nguyễn Minh Tuấn), NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2001

5

không dưới quyền của người chồng (sine manu)
4
hoặc thỏa thuận về điều kiện
của hồi môn (stipuliatio)
5
.
 Thỏa thuận hôn nhân (nuptias consensus facit)
Dưới thời La Mã vợ chồng không có tài sản chung bởi quyền gia trưởng
của người chồng gần như tuyệt đối, đặc biệt trong hôn nhân dưới quyền của
người chồng (cum manu
6
), tất cả tài sản của gia đình đều bị coi là tài sản của
người chồng, thậm chí vợ con cũng được coi là tài sản của chồng, người chồng
có thể kiện đối với vợ theo hình thức kiện vật quyền (actio in rem). Hôn nhân
sine manu được đánh giá là một hình thức giải phóng người phụ nữ khỏi quyền
lực (manus) của người chồng. Sine manu được thiết lập trên cơ sở của nuptias
consensus facit
7
. Nuptias consentus facit thực chất chỉ là một thỏa thuận ghi
nhận và phân định khối tài sản riêng của người vợ có trước thời kì hôn nhân với
các tài sản khác (khối tài sản này được coi là tài sản của người chồng), theo đó
người vợ hoàn toàn được tự chủ trong quan hệ tài sản, người chồng chỉ có thể
thực hiện quản lí tài sản riêng của vợ trên cơ sở hợp đồng ủy quyền quản lí của

người vợ
8
. Nuptias consentus facit chỉ tồn tại trong hôn nhân sine manu và sine
manu được áp dụng khi con gái của một nhà giàu kết hôn với người nghèo.
 Thỏa thuận về điều kiện của hồi môn (stipuliatio)
Vào cuối thời Cộng hòa, để ngăn ngừa việc cưới vợ nhằm lấy của hồi
môn, sau đó li dị, luật La Mã đã qui định: trước khi kết hôn cho phép bố mẹ
hoặc người chủ hộ (Pater familias) của cô dâu thỏa thuận điều kiện về của hồi
môn nếu hai người li hôn hoặc người chồng chết trước thì của hồi môn được trả
lại cho vợ
9
. Thỏa thuận đó được gọi là stipuliatio, thỏa thuận stipuliatio thường
có nội dung sau:
 của hồi môn sẽ thuộc về chồng hoặc nhà chồng nếu như vợ chết
 hoặc của hồi môn sẽ được trả lại cho bố mẹ vợ nếu như vợ chết trước.

4
Hình thức hôn nhân này tồn tại trước thời hoàng đế Justinian, thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học
Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd.
5
Thỏa thuận này tồn tại vào cuối thời kì cộng hòa, khoảng thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, thuật ngữ tiếng Việt được
lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd
6
Thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 160
8
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 160
9
Có sự thay đổi thiên về phía bảo vệ quyền lợi cho người phụ này có lẽ bởi khi nhà nước La Mã mở rộng lãnh thổ,

người đàn ông thường phải xa nhà đi chiến đầu và có thể không quay trở về, người phụ nữ buộc phải học cách quản
lí gia đình và quyết định những việc mà trước kia người quyết định luôn là người đàn ông, chính vì vậy giá trị gia
đình đã thay đổi phần nào.

6

 trong trường hợp người chồng chết thì của hồi môn buộc phải trả lại
cho bố đẻ hoặc pater familias của vợ
10
.
 Nuptias consentus facit hay stiputliatio thực chất cũng chưa mang tất
cả những đặc điểm của hôn ước nhưng cũng mang những yếu tố sơ khai ban đầu
của hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản ước định.
1.1.2.2. Hôn ước là sản phẩm của một quá trình lịch sử lâu dài
Hôn ước ra đời từ quá trình đấu tranh và dung hòa của các truyền thống
văn hóa, quyền lực nhà nước, quyền tự do của con người và tư tưởng tôn giáo (ở
đây là ki tô giáo - tôn giáo có tầm ảnh hưởng lớn nhất từ trước tới nay
11
).
Vào thời kì khởi thủy của Ki tô giáo, quan niệm về hôn nhân chịu ảnh
hưởng của hai truyền thống: truyền thống Do Thái
12
và truyền thống Roma
13
.
Theo truyền thống Do Thái, tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng trong hôn nhân,
nó được thể hiện thông qua các nghi lễ, các lời chúc tốt lành. Người Do Thái cử
hành hôn nhân thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là lễ đính hôn việc cử
hành lễ đính hôn bao gồm cả việc đọc kinh chúc phúc; giai đoạn hai là hôn lễ,
cử hành khoảng một năm sau lễ đính hôn với những nghi lễ long trọng. Trong

khi đó truyền thống Roma lại coi trọng sự thỏa thuận, chính quyền Roma không
can thiệp vào sự cử hành các nghi lễ, họ tôn trọng các phong tục của các dân tộc
sống trên đế quốc La Mã
14
tuy nhiên các luật gia La Mã lại sớm ấn định các yếu
tố pháp lí phòng khi xảy ra các trường hợp kiện tụng
15
. Vì thế, ai muốn cử hành
hôn lễ theo nghi thức nào cũng được nhưng bắt buộc phải có sự thỏa thuận, nếu
như chưa có sự thỏa thuận công khai thì luật pháp coi như hai người chưa phải
là vợ chồng của nhau. Thời kì đầu này có lẽ ki tô giáo chịu ảnh hưởng của
truyền thống Do Thái nhiều hơn
16
nên Ki tô giáo không đề cập đến vấn đề thỏa
thuận trong hôn nhân, theo kinh Tân ước: người chồng không được đối xử với

10
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 162
11
Almanach những nên văn minh thế giới, NXB Văn hóa thông tin 1996, tr. 1043
12
Bởi đạo ki tô phát sinh từ trong lòng đạo Do Thái.
13
Đạo Ki tô ra đời tại vùng đất của đế chế La Mã đến năm 61 thì đạo ki tô trở nên phổ biến ở La Mã
14
Khi đó đế quốc La Mã đã rất rộng lớn bao trùm phần lớn châu Âu hiện nay và có nhiều dân tộc sinh sống và các
nghi lễ là vô cùng đa dạng, việc không thể thống nhất nghi lễ kết hôn là điều tất yếu.
15
Kiện tụng có thể xảy ra bởi dưới thời La Mã một thời gian dài người vợ được coi là tài sản của người chồng, tính
chất giống như tài sản của người vợ cũng được biểu hiện ở nghi lễ kết hôn: Ví dụ: nghi lễ Coemptio (nghi lễ này

giống như một hình thức mua vợ), nghi lễ Usus (nghi lễ này có nội dung là hôn nhân xác lập trên thời hiệu kết hôn,
người nam và người nữ theo nguyên tắc consensus chung sống với nhau một năm, chỉ khi trọn 1 năm chung sống thì
mới dược coi là kết hôn và manus của người chồng mới được thiết lập)
16
Bởi có lẽ lúc đó ki tô giáo chưa phát triển mạnh, nó chỉ ở trong phạm vi hạn hẹp của vùng Jerusalem và cũng chưa
được chính quyền dùng đến nhiều

7

người vợ như là một món đồ sở hữu theo quan điểm Roma, vợ chồng phải chung
thủy với nhau, việc li hôn bị cấm.
Thế kỉ thứ II trở đi lãnh thổ của La mã không những không được mở rộng
thêm nữa mà còn luôn bị đe dọa. Giữa thế kỉ thứ IV các bộ lạc người Giéc
Manh
17
đã tràn vào xâm lược La Mã, đến thể kỉ thứ V trên sự tan rã của đế quốc
La Mã người Giéc manh đã thiết lập được một số đế quốc phong kiến ở Tây
Âu
18
. Ở giai đoạn này các cơ cấu xã hội bị đảo lộn, quyền lực chuyển dần về tay
giáo hội. Lúc này các giám mục không những chỉ phải giảng giải về đạo đức
trong hôn nhân, không phải chỉ lo khuyên bảo, răn dạy cho các cặp đôi mà nhiều
lần phải đảm đương vai trò của pháp luật. Thêm vào đó để dung hòa xung đột
với dân truyền thống của dân Giecmanh, sự thỏa thuận trong hôn nhân đã được
khẳng định rõ ràng trong giáo luật. Và để sự thỏa thuận này được thực hiện
nghiêm túc, giáo luật cho rằng sự thỏa thuận cần diễn ra theo thể thức pháp định
thì mới có giá trị.
Sang thế kỉ 13, quan điểm của tôn giáo lại cho rằng sự thỏa thuận là
nguyên nhân tác thành của hôn nhân nhưng nhưng bản chất của sự tác thành nên
hôn nhân lại không phải là một sự thỏa thuận. Đối tượng của sự thỏa thuận

chính là sự kết hợp của vợ chồng mang theo những nghĩa vụ và quyền lợi căn
bản của hôn nhân, vì thế thỏa thuận này đã bao hàm cả những vấn đề quyền lợi
và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, thời kì mà chỉ có điểm bắt đầu
chứ không có điểm kết thúc nếu như một người không qua đời. Có lẽ từ đây mới
xuất hiện một loại khế ước về quyền lợi và nghĩa vụ giữa vợ chồng (bao gồm cả
vấn đề tài sản của vợ chồng) được lập trước khi kết hôn. Loại khế ước này đã
mang đầy đủ hơn các yếu tố của một hôn ước. Giá trị pháp lí của hôn ước đã
được ghi nhận trong Bộ Luật dân sự đầu tiên trên thế giới – Bộ luật dân sự
Napoleon 1804.
Một nguyên do nữa mà theo người viết cũng là lí do khiến cho hôn ước
trở nên phổ biến đối với những người theo công giáo, đó là theo quan niệm của
công giáo thì hôn nhân là một vợ một chồng và bất khả phân li nên giáo hội
không cho phép việc li hôn. Dưới thời trung cổ do giáo hội nắm quyền nên

17
Lúc đó người Giec Manh vẫn chưa có nhà nước, sau khi xâm lược La Mã họ đã có bước nhảy vọt chuyển từ xã hội
thị tộc sang xã hội phong kiến, không qua giai đoạn xã hội chủ nô.
18
Vương quốc Vi di gôt gồm Tây Ba Nha và miền tây nam Gô lơ, Vương quốc Buyếc gông ở miền nam Gô lơ,
Vương quốc Frăng ở Bắc Gô lơ, vương quốc Xắc xông ở Anh, vương quốc Ôxtorogot ở Italya…

8

pháp luật các nước cũng không cho phép vợ chồng li hôn. Tuy nhiên trong đời
sống chung vợ chồng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn và nhiều trường
hợp mâu thuẫn đó dẫn đến tình trạng vợ chồng không muốn chung sống hay
không thể chung sống với nhau nữa. Lúc đó cần có một giải pháp để giải tỏa
xung đột giữa vợ chồng và việc sống li thân cùng với sự biệt lập về tài sản là
cần thiết. Vậy nên việc qui định trước về vấn đề tài sản của vợ chồng là cần
thiết để đảm bảo tự do cho cá nhân.

 Theo người viết, có nhìn nhận về sự ra đời của hôn ước như trên
mới thấy được tính khách quan của sự tồn tại của hôn ước, của chế độ tài
sản ước định.
1.1.3. Đặc điểm của hôn ước
 Về chủ thể: Hôn ước chỉ phát sinh hiệu lực giữa những người có
quan hệ hôn nhân hợp pháp (có làm các thủ tục cần thiết để đăng kí kết hôn với
cơ quan có thẩm quyền). Do hôn ước có tính hoạch định cao nên các cặp vợ
chồng thuộc trường hợp hôn nhân thực tế, chung sống như vợ chồng dù được
công nhận là hợp pháp cũng không được coi là chủ thể của hôn ước. Hôn nhân
thực tế hay việc công nhận tính hợp pháp của các quan hệ chung sống như vợ
chồng không phải là lạc hậu và chỉ tồn tại ở một số quốc gia đang phát triển.
Hôn nhân thực tế (cohabition) được ghi nhận và thậm chí việc công nhận hôn
nhân thực tế còn là xu hướng của pháp luật các quốc gia phương Tây đặc biệt là
các quốc gia theo thông luật (common law).
 Về mục đích: Hôn ước tạo điều kiện cho vợ chồng tự chủ hơn trong
việc quản lí tài chính, hoạch định tương lai (thậm chí tương lai đó bao gồm cả
việc li hôn). Mặc dù không hoàn toàn, nhưng hôn ước và cả chế độ tài sản ước
định cũng xuất phát từ lợi ích chung của gia đình và có mục đích là góp phần
vào sự vững bền của hạnh phúc gia đình.
 Về hình thức: Hôn ước buộc phải được lập bằng văn bản có chữ kí
của hai bên nam nữ sắp trở thành vợ chồng
19
. Pháp luật của nhiều nước thường
qui định hôn ước phải được công chứng và cơ quan có thẩm quyền xác nhận tính

19
Công ước Lahaye năm 1978 về lựa chọn luật áp dụng với chế độ tài sản vợ chồng chỉ yêu cầu hôn ước phải được
lập bằng văn bản và có chữ kí của cả hai người, Đạo luật thống nhất về hôn ước của Hoa Kì (đã được chấp nhận ở đa
số các bang của Hoa Kì) cũng qui định hôn ước chỉ cần được lập bằng văn bản và có chữ kí của hai bên và không
cần thêm bất cứ một sự xác thực nào khác.


9

hợp pháp (bằng các hình thức công chứng và đăng kí hôn ước cùng với thời
điểm đăng kí kết hôn).
 Về nội dung: Trong hôn ước, vợ chồng tối thiểu phải thỏa thuận về
phương thức hay qui định về việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của mình.
Những thỏa thuận trong hôn ước không được trái với trật tự công cộng và đạo
đức xã hội. Trong hôn ước vợ chồng chỉ có thể thỏa thuận về vấn đề tài sản và
không thể thỏa thuận hay làm khác đi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng hay
các quan hệ nhân thân khác đã được pháp luật qui định.
 Về hiệu lực: Hôn ước phải được lập trước khi kết hôn, để đảm bảo
phát sinh hiệu lực, hôn ước phải được lập theo thể thức mà pháp luật nội địa
(luật nơi vợ chồng cư trú và có quốc tịch) hoặc pháp luật nơi lập hôn ước qui
định
20
. Hôn ước phát sinh hiệu lực kể từ khi hai bên nam nữ trở thành vợ chồng
hợp pháp.
 Về vấn đề sửa đổi, hủy bỏ: việc thay đổi hay chấm dứt hiệu lực của
hôn ước phải theo một thể thức nhất định, việc thay đổi thường được tiến hành
theo hình thức lập hôn ước. Trước đây hôn ước là bất di bất dịch tuy nhiên qui
định này đã trở nên lỗi thời, hiện nay các quốc gia cho phép vợ chồng thay đổi
hoặc hủy bỏ hôn ước nhưng thường đặt điều kiện về thời gian có hiệu lực của
hôn ước trước hoặc điều kiện về hình thức, về sự phê chuẩn.
1.2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI VIỆC QUI ĐỊNH VỀ HÔN ƯỚC
Không giống như các chế định pháp luật khác, hôn ước “nhập cư”, “tồn
tại” và bị “trục xuất” khỏi pháp luật Việt Nam một cách lặng lẽ, không dựa vào
cơ sở xã hội nào
21
.

Mặc dù trong xã hội phong kiến Việt Nam, các qui định về hôn nhân gia
đình chiếm một vị trí quan trọng trong các văn bản pháp luật song tuyệt nhiên
chế độ tài sản vợ chồng không được qui định như một chế định riêng rẽ và cụ
thể
22
. Pháp luật thời kì phong kiến lại càng không hề biết đến một qui định mang

20
Điều 12 Công ước Lahaye 1978, điều này cũng là nguyên tắc chung.
21
Trên thực tế, hôn ước chưa từng được áp dụng ở Việt Nam và gần như tất cả các qui định trong pháp luật Việt
Nam về hôn ước đều là sự sao chép. Vấn đề này sẽ được làm rõ trong phần 1.2.
22
TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, sđd, tr. 50

10

nội hàm như hôn ước đang nói tới ở đây
23
. Đến thời thực dân Pháp xâm lược,
hôn ước mới cùng thiên chúa giáo lần đầu du nhập vào Việt Nam.
1.2.1. Hôn ước trong pháp luật thời kì Pháp thuộc
Trong thời kì Pháp thuộc, với chính sách “chia để trị” thực dân Pháp chia
nước ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng
để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình.
 Ở Bắc kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 (Dân luật Bắc kì)
 Ở Trung kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 (Dân luật Trung kì)
 Ở Nam kì cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (Dân luật
giản yếu Nam kì)
Hôn ước được ghi nhận trong Dân luật Bắc kì, Dân luật Trung kì, riêng

tập Dân luật giản yếu Nam kì không có ghi nhận về hôn ước cũng như vấn đề tài
sản vợ chồng
24
tuy nhiên án lệ ở Nam kì trong thời kì này lại “luôn luôn nhắc lại
nguyên tắc tự do lập hôn ước mà các tòa án Pháp coi là lẽ đương nhiên được áp
dụng trong khi không có luật viết”
25
.
Điều 104 Tiết thứ IV thiên thứ V quyển thứ nhất Dân luật Bắc kì qui định
rằng: “Về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến toàn thể vợ chồng là khi
nào vợ chồng không có tùy ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn là ước riêng
ấy không được trái với phong tục và trái với quyền lợi người chồng là người chủ
trương trong đoàn thể”. Điều 105 lại qui định rằng: “Phàm tư ước về tài sản giá
thú phải làm thành chứng thư tại trước mặt “no-te”
26
, hoặc do Lý trưởng thị
thực, mà phải làm trước khi khai giá thú. Đã khai giá thú rồi thì không được
thay đổi gì nữa. Hôn ước phải do các người có quyền ưng thuận trong việc giá
thú ký nhận cho mới được. Phàm tư ước về tài sản giá thú, phải biện chú vào
chứng thư giá thú thì mới có thể đem đối dụng với người ngoài được. Ai muốn
xin trích lục chứng thư giá thú về khoản biên chú các tư ước ấy, thì sẽ do bộ lại
cấp phát cho”. Có thể thấy hôn ước đã được thừa nhận trong Dân luật Bắc kì với

23
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam (tập 1 Hôn sản – Tư sản), Sài Gòn tháng 2 năm 1960 tr. 39
có đoạn viết: “Trong cổ luật của ta như luật Hồng Đức, không hề thấy nói đến hôn ước hay hôn khế: vợ chồng lấy
nhau, đương nhiên theo chế độ hôn sản do tục lệ hay pháp luật ấn định và hình như trong thời kì hôn thú họ có thể
làm giấy tờ để thỏa thuận hay ấn định lại sự quản trị của một vài thứ của. Nhưng luật cũ không biết đến hôn ước
theo nghĩa chuyên môn của luật pháp hiện đại. Điều 94 luật Gia Long có nói đến hôn thư mà hai bên vợ và chồng
trao đổi trước khi cưới, nhưng hôn thư không có liên lạc gì tới hôn ước hiện nay”.

24
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr 4 có đoạn viết: “riêng về tài sản trong gia đình tập
Giản yếu không nói gì đến hôn sản, di sản và tự sản”.
25
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr 39.
26
Văn bản đã phiên tâm từ “notaire” trong tiếng Pháp có nghĩa là công chứng viên thành “no-te”.

11

đầy đủ các đặc điểm, tiêu chí cần có của một hôn ước. Về hình thức, hôn ước
dưới thời này cũng buộc phải lập bằng văn bản và được xác nhận bởi công
chứng viên hoặc lí trưởng; hôn ước phải lập trước khi kết hôn và không thể thay
đổi trong suốt thời kì hôn nhân. Về nội dung, hôn ước không được trái với
phong tục tập quán và quyền lợi của người chồng, trong giai đoạn này, quyền
gia trưởng của người chồng được coi là một thứ trật tự công cần được bảo vệ.
Dân luật Trung kì cũng qui định về hôn ước, nhưng cách sắp xếp cũng
như nội dung đã chép theo bộ Dân luật Bắc kì, cả những nét chính và những
nguyên tắc vẫn được giữ nguyên. Điều 102 và 103 của Dân luật Trung kì có nội
dung hệt như Điều 104 và 105 Dân luật Bắc kì, có chăng là chỉ khác nhau về
ngôn từ và sự khác nhau này không ảnh hưởng gì đến nội dung của qui định
27
.
 Mặc dù là qui định của pháp luật Việt Nam, nhưng những qui định này
đã chép gần như nguyên văn điều 1387 dân luật Pháp. Hôn ước và nguyên tắc tự
do lập hôn ước không hề xuất phát từ nhu cầu của xã hội Việt Nam thời bấy giờ
mà được du nhập vào Việt Nam dưới sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp. Sự cấy
ghép pháp luật không có tính toán này đã khiến cho các qui định về hôn ước trở
nên thừa và vô tác dụng. Hầu như dân chúng đều chưa biết gì đến qui định pháp
lí mới mẻ này

28
. Hơn nữa, dưới chế độ phong kiến dẫu có quan tâm đến tài sản
trong hôn nhân thì người ta cũng chỉ quan tâm đến sự môn đăng hộ đối của hai
gia đình chứ không hề đề cập đến quyền lợi vật chất một cách quá rõ ràng và
thiếu tinh thần giao hiếu như những gì qui định trong hôn ước.
Mặt khác có lẽ cũng vì hôn ước không phù hợp với tình hình xã hội Việt
Nam đương thời nên các nhà làm luật cũng chỉ qui định một cách “lấy lệ” khiến
cho chúng ta dễ dàng thấy được tính không hoàn chỉnh, không chặt chẽ của qui
định hôn ước khi xem xét toàn bộ các qui định về chế độ tài sản vợ chồng ở đây.
Theo qui định thì khi sử dụng quyền tự do lập hôn ước, hai vợ chồng có thể tùy

27
Điều 102: “Về đường tài sản của vợ chồng chỉ khi nào vợ chồng không có tùy ý lập ước riêng với nhau thời
pháp luật mới can thiệp đến; lời ước riêng ấy cốt không trái với phong hóa và không trái với quyền lợi của người
chồng, là người chủ trong gia thất”; Điều 103: “Phàm lời ước riêng của vợ chồng phải làm bằng giấy trước khi
khai, trước việc giá thú, giấy ấy phải do lý trưởng nhận thực, hoặc làm trước mặt viên quản lý thơ khế. Sau khi
đã khai trước giá thú rồi, thời lời ước riêng ấy không thể thay đổi điều gì nữa. Phàm hôn khoản của vợ chồng
phải có những người có quyền ưng thuận trong việc giá thú thuận y. Muốn cho điều khoản trong hôn khoản của
vợ chồng đối với người ngoài có giá trị và muốn cho hôn khoản ấy lâm thời có thể viện ra mà chống cãi với
người ngoài, thời trong chứng thơ giá thú phải minh chú rằng việc giá thú nầy có hôn khoán mà bản sao hôn
khoán ấy lại phải đính theo chứng thư giá thú mới được. Ai muốn xin trích lục chứng thư giá thú và lời ước riêng
ấy, thời hương bộ sẽ cấp phát cho”.
28
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr. 40

12

ý ấn định điều lệ mà sau này hai bên sẽ phải theo, song luật Việt Nam không nói
rõ rằng: nếu không theo chế độ pháp định thì họ có thể chọn theo chế độ tài sản
nào, mà tự bắt họ phải xây dựng toàn bộ qui định điều chỉnh tài sản của mình;

thêm nữa là không hề có hướng dẫn thêm nào về hôn ước trong toàn bộ các qui
định pháp luật thời đó. Trong khi bộ luật dân sự của Pháp thì có rất nhiều chế độ
tài sản về nội dung cho vợ chồng lựa chọn nếu như vợ chồng lựa chọn chế độ tài
sản ước định. Chỉ việc qui định bỏ lửng đó của pháp luật Việt Nam đã khiến cho
hôn ước vốn đã chẳng phù hợp với xã hội Việt Nam lại càng trở thành một chế
định bất khả thi trong hệ thống pháp luật.
1.2.2. Hôn ước theo hệ thống pháp luật ở miền nam nước ta trước
ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975)
Trong thời gian cầm quyền ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Ngô
Đình Diệm đã thông qua hai văn bản pháp luật mang tính pháp điển đó là Luật
Gia đình năm 1959 và Bộ luật Dân sự năm 1972.
 Luật Gia đình năm 1959
Mặc dù trong phiên họp thông qua Luật Gia đình năm 1959, các nghị viên
cũng đề cao tính mẫu mực của dân luật Pháp, song Luật Gia đình 1959 khác biệt
đáng kể so với Dân luật Bắc kì và Dân luật Trung Kì. Lần đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam có một văn bản pháp luật chỉ qui định riêng về Gia đình
29
và kết cấu
cũng không hoàn toàn giống với dân luật Pháp.
Điều 45 Luật Gia Đình 1959 qui định: “Luật lệ chỉ qui định phu phụ tài
sản khi nào vợ chồng không có lập hôn ước mà họ muốn làm ra sao cũng được
miễn là không trái với phong hóa, trật tự công và quyền lợi của con”. Nguyên
tắc luật chỉ can thiệp vào chế độ tài sản vợ chồng khi vợ chồng không lập hôn
ước đã được thể hiện ngay tại đây, đây cũng là một qui định tương đối tiến bộ
bởi quyền gia trưởng của người chồng đã không còn là một trật tự công cần
được bảo vệ
30
mà thay vào đó là quyền của con
31
.


29
Thật ra cũng có những văn bản qui định riêng về gia đình nhưng nó không thông qua bởi Nghị viện và không có
tầm vóc như Luật ví dụ Quy điều hộ tịch An Nam tại Bắc Kì cũng qui định riêng về vấn đề hộ tịch, liên quan tới gia
đình, tuy nhiên đây chỉ là Nghị Định.
30
Theo người viết, ngoài những tiến bộ do nguyên nhân khách quan thì việc không thừa nhận chế độ gia trưởng
trong Luật Gia đình còn có nguyên nhân chủ quan khác nữa đó là dự án luật “Luật Gia đình” này do Trần Lệ Xuân
– vợ Ngô Đình Nhu trình lên nghị viện (trong các biên bản thông qua sự án luật đã ghi rõ đây là dự án luật “Gia
Đình” của bà dân biểu Ngô Đình Nhu).
31
Luật dân sự Nhật Bản hiện nay cũng qui định là hôn ước không được trái với quyền lợi của người thừa kế hàng
thứ nhất.

13

Hôn ước trong Luật Gia Đình 1959 đã được qui định một cách tỉ mỉ hơn.
Hôn ước phải được lập bằng văn bản trước khi kết hôn, được công chứng và
phải được công bố. Điều 46 Luật Gia Đình qui định: “hôn ước phải làm bằng
chứng thư trước mặt trưởng khế hay một viên chức có thẩm quyền thị thực”,
việc thị thực ở đây thực chất là công chứng
32
. Hôn ước phải được lập trước khi
kết hôn và phải được ghi vào trong giấy giá thú, vì như thế mới đảm bảo cho
hôn ước có giá trị với người thứ ba. Riêng đối với những người buôn bán, thì
hôn ước của họ phải được niêm yết tại tòa thương mại và chủ cước vào sổ
thương mại do phòng lục sự tòa này giữ
33
. Luật Gia đình còn qui định cả về sự
vô hiệu của hôn ước, hôn ước sẽ vô hiệu nếu như không đảm bảo các điều kiện

về nội dung và hình thức; hôn ước không công bố thì không vô hiệu, nó chỉ
không có hiệu lực với người thứ ba mà thôi; khi hôn ước vô hiệu thì chế độ tài
sản của vợ chồng sẽ là chế độ tài sản pháp định (cộng đồng toàn sản); sự vô hiệu
của hôn ước không ảnh hưởng tới việc kết hôn, nhưng ngược lại nếu việc kết
hôn bị vô hiệu thì đương nhiên hôn ước cũng vô hiệu, Luật cũng qui định là hôn
ước chỉ có hiệu lực trong thời kì hôn nhân. Trong suốt thời kì hôn nhân, hôn ước
không thể được sửa đổi. Khác với Dân luật Trung kì và Bắc kì, Luật Gia đình
1959 qui định tương đối kĩ về vấn đề li thân, Luật Gia đình 1959 cấm li hôn (chỉ
được li hôn khi được sự chấp thuận của tổng thống) và qui định tương đối tỉ mỉ
về chế định li thân cho nên có thể coi rằng hôn ước là một giải pháp để cho
những cặp đôi sống li thân có điều kiện để tiếp tục sống thoải mái.
 Bộ luật dân sự năm 1972
Ngày 20/12/1972 chính quyền Việt Nam cộng hòa có ban hành Bộ luật
Dân sự năm 1972 trong đó phần phu phụ tài sản cũng dành các Điều từ 144 đến
149 để qui định về hôn ước với những qui định tương đối chung chung và không
được tỉ mỉ như Luật Gia đình năm 1959. Bộ luật này cũng chỉ được áp dụng

32
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr. 42 viết “thể thức thị thực khác với sự nhận thực
chữ kí. Khi nhận thực chữ kí, cơ quan hành chánh hay cơ quan tư pháp chỉ chứng nhận rằng về phương diện vật
chất chữ kí trên giấy tờ quả thật là chữ kí của người kí, giấy tờ có chữ kí được nhận thực là một tư chứng thư. Trái
lại, khi thị thực một chứng thư, viên chức can thiệp vào việc lập chứng thư bằng cách đích thân ghi chép lời giao
ước của đương sự hoặc bằng cách hỏi lại để biết đích rằng chứng thư nhận đúng lời giao ước của người kí. Chứng
thư thị thực là một công chứng thư”.
33
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr. 43

14

trong thời gian rất ngắn. Hôn ước được qui định trong Bộ luật Dân sự 1972 với

những nét cơ bản sau:
 Luật pháp chỉ qui định chế độ phu phụ tài sản khi vợ chồng không
lập hôn ước.
 Vợ chồng được tự do lập hôn ước tùy ý muốn, miễn là không trái
với trật tự công cộng và thuần phong mĩ tục.
 Hôn ước phải được lập trước khi kết hôn và được công chứng
 Hôn ước không thể thay đổi trong thời kì hôn nhân
 Hôn ước có thể sửa đổi trước khi kết hôn nhưng bản sửa đổi cũng
phải được công chứng
 Hôn ước sẽ không có hiệu lực với người thứ ba nếu như không
được ghi và giấy đăng kí kết hôn.
1.2.3. Hôn ước trong pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta
từ Cách mạng Tháng tám (1945) đến nay
Như đã phân tích, những qui định về hôn ước trong Dân luật Bắc kì và
Dân luật Trung kì vốn không hề được người dân biết đến, bởi thế mà có lẽ sự
biến mất của nó khi thay đổi chế độ cũng là điều không được những người thời
đó để ý.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà nước ta đã ban hành hai sắc
lệnh đầu tiên qui định điều chỉnh một số quan hệ hôn nhân và gia đình: sắc lệnh
159/SL ngày 17/11/1950 qui định về vấn đề li hôn, sắc lệnh 97/SL ngày
22/5/1950 sửa đổi một số qui lệ và chế định trong dân luật. Sắc lệnh số 97-SL là
văn bản duy nhất điều chỉnh về vấn đề tài sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân
trước khi có luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Nói về quan hệ giữa vợ và
chồng sắc lệnh chỉ có qui định tại Điều 5 “Chồng vợ có địa vị bình đẳng trong
gia đình” và Điều 6 “Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ”. Sắc
lệnh này không hề đề cập đến việc công nhận hay không công nhận hôn ước.
Tuy nhiên Điều 1 Sắc lệnh qui định “Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ
khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân”, Điều 14 lại qui định
“Tất cả những điều khoản trong dân pháp điển Bắc kì, dân pháp điển Trung kì,
Pháp qui giản yếu 1883 (sắc lệnh ngày 3/10/1883) thi hành ở Nam kì, và những

luật lệ theo sau, trái với những điều khoản ở trên này đều bị bãi bỏ.” Vậy nên

15

nếu hôn ước được lập mà không trái với quyền lợi của người vợ, không trái với
quyền lợi của người chồng thì vẫn được coi là không trái với quyền bình đẳng
của vợ chồng và được công nhận là có hiệu lực. Vậy nên theo nguyên tắc, hôn
ước vẫn có thể được coi là không bị xóa bỏ trong pháp luật xã hội chủ nghĩa từ
năm 1945 tới năm 1959. Hoặc có thể nói rằng một chế định bất khả thi thì việc
xóa bỏ hay không xóa bỏ cũng không ảnh hưởng gì, nhưng điều đó cũng có
nghĩa là người ta không hề quan tâm đến sự tồn tại của hôn ước vốn có trong
dân luật và nếu như vậy thì càng có nghĩa rằng sự tồn tại của hôn ước không hề
mâu thuẫn với chế độ xã hội chủ nghĩa vì nếu nó mâu thuẫn về lí thuyết thì ngay
lập tức người ta sẽ xóa bỏ nó.
Từ khi có Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, pháp luật Việt Nam chỉ
thừa nhận chế độ tài sản pháp định, qui định về hôn ước hoàn toàn không còn
tồn tại trong pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều 15 Luật hôn nhân và gia
đình năm 1959 qui định “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử
dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” vậy là trong một
khoảng thời gian hơn 25 năm (thời gian Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có
hiệu lực), pháp luật Việt Nam không thừa nhận tài sản riêng của vợ chồng. Đến
khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời, chế độ tài sản vợ chồng ở Việt
Nam là chế độ cộng đồng động sản và tạo sản thì tài sản riêng của vợ chồng mới
được thừa nhận. Luật cũng cho phép vợ chồng được chia tài sản chung trong
thời kì hôn nhân (việc chia tài sản này phải có bản án của tòa án). Theo Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1986, vợ chồng cũng không được thỏa thuận bất cứ
vấn đề gì về sở hữu tài sản trừ vấn đề nhập tài sản riêng có trước hoặc trong thời
kì hôn nhân thành tài sản chung. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời
kèm theo đó là Nghị định số 70/2001/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành Luật Hôn
nhân và gia đình (sau đây gọi là Nghị định 70) đã tạo ra một sự thay đổi cơ bản

gây nhiều tranh cãi về chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì
hôn nhân. Theo những qui định này vợ chồng có thể thỏa thuận về việc chia tài
sản chung trong thời kì hôn nhân, thậm chí việc thỏa thuận chia tài sản này trong
nhiều trường hợp chỉ cần lập bằng văn bản không có sự công chứng, chứng thực.
Vợ chồng còn có thể thỏa thuận về hậu quả pháp lí của việc chia tài sản này, nếu
không thỏa thuận thì chế độ tài sản của vợ chồng dường như được đặt ở chế độ

16

biệt sản
34
. Qui định chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân theo Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn qui định về các thỏa thuận
trong vấn đề tài sản vợ chồng đã tạo nên một sự khác biệt đáng kể so với chế độ
tài sản pháp định thuần túy vẫn thường thấy.
1.3. HÔN ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1. Hôn ước theo pháp luật của Cộng hòa Pháp
Pháp là quốc gia đầu tiên thuộc hệ thống civil law chính thức ghi nhận giá
trị pháp lí của hôn ước trong văn bản qui phạm pháp luật
35
, đó là bộ luật dân sự
Pháp năm 1804 hay còn gọi là bộ luật Napoleon
36
. Là một sản phẩm của quá
trình pháp điển hóa giữa những qui định mang tính chuẩn mực trong pháp luật
La mã và một số tập quán đương thời, bộ luật dân sự Pháp thường được xem là
khuôn vàng thước ngọc để các quốc gia khác học tập khi xây dựng dân luật. Cho
đến ngày nay, chúng ta vẫn không thể phủ nhận tính mẫu mực của các qui định
trong dân luật Pháp.
Bộ luật dân sự Pháp dành riêng thiên V quyển thứ 3 để qui định về hôn

ước và các chế độ tài sản vợ chồng. Thiên thứ V được mở đầu bằng Điều 1378:
“pháp luật không điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ và chồng nếu giữa vợ
chồng đã có thỏa thuận riêng mà vợ chồng cho là phù hợp và không trái với
thuần phong mĩ tục hoặc với các qui định sau đây”. Vậy nên khi vợ chồng lập
hôn ước, chế độ tài sản của vợ chồng sẽ được điều chỉnh bằng hôn ước. Vợ
chồng có thể tự do thỏa thuận về vấn đề tài sản nhưng nó phải tuân theo pháp
luật cả về nội dung và thủ tục.
 Về thủ tục:
Việc lập ra, thay đổi, hủy bỏ hôn ước phải được tuân theo những thủ tục
chặt chẽ để đảm bảo sự tự nguyện và việc thực hiện bản hôn ước đó.
Lập hôn ước: Hôn ước phải do hai bên nam nữ thỏa thuận và phải được
lập ra trước khi kết hôn
37
. Về hình thức, nó phải được lập bằng văn bản trước
mặt công chứng viên với sự có mặt và thỏa thuận chung của cả hai bên hoặc

34
TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, sđd, tr. 253 có
đoạn viết: Đối với trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân thực chất là đã chấp nhận “chế
độ biệt sản” giữa vợ chồng sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
35
Là một bộ phần của vương quốc phong kiến Frăng, hôn ước đã là một trong những điều được coi là hiển nhiên
trong truyền thống của Pháp nên việc ghi nhận nó trong bộ luật dân sự đầu tiên cũng là đương nhiên.
36
Hôn ước được ghi nhận tại thiên thứ 5 quyến thứ 3 bộ luật dân sự Pháp năm 1804, xem

37
Xem Điều 1395 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp

17


người được ủy quyền. Khi lập hôn ước công chứng viên cấp cho các bên giấy
chứng nhận có ghi rõ họ tên, nơi cư trú của công chứng viên, tư cách và nơi ở
của các bên kết hôn, ngày lập hôn ước, trong giấy chứng nhận cũng phải ghi rõ
là phải nộp giấy này cho viên chức hộ tịch trước khi đăng kí kết hôn
38
. Để đảm
bảo quyền lợi cho người thứ ba trong giao dịch với vợ chồng, việc lập hôn ước
có thể được ghi trong giấy đăng kí kết hôn hoặc ghi rõ trong các văn bản giao
dịch với người thứ ba nếu không thì với người thứ ba vợ chồng được coi như là
kết hôn theo chế độ pháp lí chung
39
.
Việc sửa đổi hôn ước: Sửa đổi trước khi kết hôn: việc sửa đổi thỏa thuận
về tài sản vợ chồng trước khi kết hôn phải do hai người nam nữ thỏa thuận, việc
thỏa thuận này phải có mặt của các bên tham gia hợp đồng và người được ủy
quyền. Bản hôn ước đã sửa đổi cũng phải đảm bảo những yêu cầu về hình thức
cũng như đảm bảo quyền lợi cho người thứ ba như bản hôn ước đã lập ban
đầu
40
. Sửa đổi sau khi kết hôn: sau khi kết hôn, hôn ước chỉ được sửa đổi sau 2
năm áp dụng, việc thay đổi phải được công bố cho người các con đã thành niên
và các chủ nợ, nếu những người được thông báo này phản đối thì việc sửa đổi
hôn ước sẽ phải thông qua thể thức phê chuẩn của tòa án nơi vợ chồng cư trú
41
.



38

Điều 1394 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp
39
Điều 1394 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp
40
Điều 1396 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp
41
Điều 1397 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp (đã sửa đổi năm 2006): “Sau hai năm áp dụng chế độ tài sản, vì lợi ích
của gia đình, vợ chồng có thể thỏa thuận sửa đổi hoặc thậm chí thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản bằng chứng thư
công chứng. Chứng thư thay đổi này phải bao gồm việc thanh toán chế độ tài sản bị thay đổi, nếu không sẽ bị vô
hiệu, khi việc thanh toán đó là cần thiết; Các bên trong hôn ước bị sửa đổi và các con đã thành niên của mỗi bên vợ
chồng được thông báo riêng về sự sửa đổi dự kiến. Mỗi người có thể phản đối sự thay đổi đó trong thời hạn ba
tháng; Các chủ nợ được thông báo về sự thay đổi dự kiến bằng việc công bố trên tờ báo tiếp nhận những thông báo
pháp lý trong huyện hoặc tỉnh nơi cư trú của vợ chồng. Họ có thể phản đối sự thay đổi trong thời hạn ba tháng kể từ
khi công bố; Trong trường hợp có phản đối, chứng thư công chứng phải tuân theo thể thức phê chuẩn của tòa án nơi
cư trú của vợ chồng. Yêu cầu và quyết định phê chuẩn được công bố theo những điều kiện và chế tài được dự liệu tại
Bộ luật tố tụng dân sự; Nếu một bên vợ, chồng có con chưa thành niên, chứng thư thay đổi bắt buộc phải tuân theo
thể thức phê chuẩn của tòa án nơi cư trú của vợ chồng; Sự thay đổi có hiệu lực đối với các bên kể từ ngày ra chứng
thư hoặc ngày ra bản án và đối với người thứ ba thì sau ba tháng kể từ ngày sự thay đổi được ghi chú bên lề giấy
chứng nhận kết hôn. Tuy nhiên, kể cả khi không có sự ghi chú, những thay đổi vẫn có hiệu lực đối với người thứ ba
nếu trong những giao dịch với họ, vợ chồng đã tuyên bố về sự thay đổi chế độ tài sản của mình; Trong trường hợp
vợ hoặc chồng đang trong quy chế được bảo trợ pháp lý theo những thể thức được quy định tại phần XI quyển I, sự
sửa đổi hoặc thay đổi chế độ tài sản phải được sự cho phép trước của Thẩm phán về giám hộ hoặc của Hội đồng gia
tộc nếu có; Phải ghi chú sự sửa đổi vào bản chính hôn ước bị sửa đổi; Các chủ nợ đã không phản đối, nếu thấy có sự
gian lận đến quyền của mình, có thể chống lại sự thay đổi chế độ tài sảncủa vợ chồng theo những quy định của điều
1167; Những thể thức áp dụng điều luật này được quy định trong sắc luật của Hội đồng nhà nước.” (Bản dịch từ văn
bản tiếng Pháp của ThS. Bùi Minh Hồng, giảng viên khoa Luật dân sự, trường Đại học Luật Hà Nội)

18

 Về nội dung:

Những chế độ tài sản vợ chồng có thể lựa chọn chế độ tài sản chung (có
thể lựa chọn chế độ cộng đồng toàn sản hoặc chế độ cộng đồng động sản và tạo
sản) và chế độ tài sản riêng (chế độ biệt sản, chế độ tài sản riêng tương đối). Có
thể thấy, việc thỏa thuận lựa chọn trong hôn ước của pháp là lựa chọn chế độ tài
sản, điều này sẽ làm mọi việc đỡ phức tạp và tiểu tiết hơn việc vợ chồng tự thỏa
thuận đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng và sự chuyển hóa của các khối tài
sản này như thế nào.
Với chế độ tài sản chung: Chế độ cộng đồng toàn sản: nếu vợ chồng
thỏa thuận chọn chế độ cộng đồng toàn sản: tất cả tài sản của vợ chồng sẽ có
và hiện có (bao gồm cả tài sản của riêng vợ hoặc chồng trước thời kì hôn nhân)
sẽ thuộc khối tài sản qui định tại Điều 1404 (đồ dùng, tư trang cá nhân…) Chế
độ cộng đồng động sản và tạo sản: về cơ bản sẽ gần giống với chế độ tài sản
pháp định nhưng cũng có một số điểm khác biệt, ví dụ như: vợ chồng có thể
thỏa thuận về việc phân chia tài sản không đều nhau, về việc trích khấu tài sản
có bồi thường
42

Với chế độ tài sản riêng: Chế độ biệt sản: nếu lựa chọn chế độ tài sản
này, vợ chồng không có tài sản cộng đồng, mỗi bên giữ quyền quản lí, hưởng
dụng và định đoạt đối với khối tài sản thuộc về mình. Mỗi bên vợ, chồng chịu
trách nhiệm về những khoản nợ riêng và có nghĩa vụ đóng góp vào nhu cầu
chung của gia đình. Việc thực hiện theo thoả thuận hoặc theo qui định của pháp
luật. Trong quan hệ với người thứ ba vợ chồng có thể dùng mọi cách để chứng
minh rằng mọi tài sản thuộc về mình
43
. Chế độ tài sản riêng tương đối: Đây
được coi là một chế độ tài sản hỗn hợp: tách riêng tài sản trong thời kỳ hôn nhân
và cộng đồng tài sản khi chấm dứt hôn nhân. Trong thời kì hôn nhân, vợ chồng
thực hiện chế độ tách riêng tài sản, mỗi bên giữ một phần tài sản riêng và quyền
quản lí, hưởng dụng và định đoạt. Vợ, chồng có trách nhiệm thực hiện những

nghĩa vụ riêng bằng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, khi chấm dứt hôn nhân,

42
Xem mục IV và mục V chương 2 thiên thứ V bộ luật dân sự cộng hòa Pháp
43
Điều 1538 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp

19

mỗi bên được hưởng một nửa những tài sản được tạo ra trong thời kì hôn nhân
mà hiện còn.
Ngoài những qui định chung về thủ tục và nội dung của hôn ước, hôn ước
dành cho các cặp vợ chồng có một trong hai người hoặc cả hai người là thương
nhân lại có những yêu cầu đòi hỏi khác do đặc thù của việc sản xuất kinh doanh
44
.
Hôn ước ở Pháp được qui định rất chặt chẽ về cả nội dung và thủ tục để
đảm bảo cho lợi ích của vợ chồng của người thứ ba và trật tự của xã hội. Nếu
nghiên cứu pháp luật về hôn ước mà không tìm hiểu về chế định hôn ước tại
Pháp thì là điều vô cùng thiếu sót.
1.3.2. Hôn ước theo pháp luật của Hoa Kì
Có thể nói rằng không có ở một quốc gia nào mà vấn đề lập hôn ước
lại trở nên phổ biến như ở Hoa Kì. Ở Hoa Kì, những người có mức sống cao
hoặc những người thừa kế giàu có thường gặp rất nhiều phiền toái với
vợ/chồng cũ của mình cũng như luật sư của cô/anh ta trong suốt thời kì giải
quyết việc li hôn. Thêm vào đó, những luật sư làm về luật gia đình đặc biệt
là giải quyết các vụ li hôn thường có thu nhập rất cao, tổng phí phải chi trả
cho một vụ li hôn thường không dưới 150.000 đô la Mỹ. Ngoài hôn ước
(prenuptial agreement), Hoa Kì còn cho phép các cặp vợ chồng lập một thỏa
thuận tương tự như hôn ước trong thời kì hôn nhân (postnuptial agreement

tạm dịch là hậu hôn ước). Trong suốt thế kỉ 18 thì thông luật (common law)
không cho phép vợ chồng lập hôn ước bởi vì họ cho rằng khi hai người kết
hôn thì họ đã hòa làm một và không thể có giao dịch khi chỉ có một chủ thể,
một lí do nữa là một người phụ nữ đã có chồng thì họ không được phép
tham gia kí kết các hợp đồng trừ khi đã li thân
45
. Đến khoảng giữa thế kỉ 19
thì một số án lệ ở Hoa Kì đã cho phép sự tồn tại của hôn ước, đến tháng 7
năm 1983 một đạo luật về hôn ước (Uniform premarital agreement Act gọi

44
Về vấn đề này, xem thêm tại Th.S Bùi Minh Hồng, Quan hệ về tài sản của vợ chồng trong hoạt động hợp tác sản
xuất, kinh doanh theo pháp luật của Cộng hòa Pháp, Đề tài khoa học cấp trường: Tài sản của vợ chồng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh (chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Phương Lan), Trường ĐH Luật Hà Nội, năm 2008
45
Ronald B. Standler (Copyright 2003), Prenuptial and Postnuptial contract Law in the USA, page 3
www.rbs2.com/dcontract2.pdf

20

tắt là UPAA
46
) đã được ban hành dựa trên kết quả của các án lệ, UPAA được
chấp nhận ở đa số các bang của Hoa Kì
47
, một số bang còn lại có những qui
định khác hay đặc biệt hơn so với UPAA. Theo UPAA hôn ước ở Mĩ có một
số đặc trưng sau:
Về nội dung: Các bên thỏa thuận trong hôn ước với các nội dung sau
 Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đổi với tài sản của một bên hoặc cả

hai, phát sinh tại thời điểm trước hôn nhân và sau hôn nhân.
 Quyền mua bán, sử dụng, chuyển nhượng, trao đổi, từ bỏ, cho thuê,
tiêu dùng, dùng làm tài sản bảo đảm, thế chấp, cầm cố, tự định đoạt hay các
quyền quản lí, kiểm soát khác đối với tài sản
 Định đoạt tài sản khi li thân, li hôn, khi qua đời, hoặc sự biến hay
bất kỳ sự kiện nào khác;
 Sự thay đổi hay chấm dứt việc cấp dưỡng giữa vợ chồng
 Lập chúc thư, uỷ thác, hay các biện pháp khác để thực hiện các nội
dung của thoả thuận này;
 Quyền sở hữu và chuyển nhượng từ tiền bảo hiểm tính mạng của
một người
 Vấn đề lựa chọn luật điều chỉnh
 Các vấn đề khác bao gồm quyền và nghĩa vụ cá nhân nhưng không
được trái với chính sách công và vi phạm pháp luật
Quyền được chu cấp của con cái không thể bị ảnh hưởng theo chiều
hướng bất lợi bởi hôn ước.
Về hình thức: hôn ước phải được lập bằng văn bản và được hai bên kí vào
và không cần thêm một sự xem xét nào với hôn ước.
Về hiệu lực: hôn ước chỉ có hiệu lực trong thời kì hôn nhân. Sau khi kết
hôn, hôn ước có thể được các bên sửa đổi bằng cách lập thêm một văn bản khác
và kí tên vào đó, sự sửa đổi này không cần thêm một sự xem xét nào cả.
Tuy nhiên theo luật một số bang, hôn ước còn có thể tự động hết hiệu lực
sau 7 năm áp dụng hoặc sau khi đứa con đầu tiên ra đời, hay hôn ước chỉ được
sửa đổi sau 1,5 năm áp dụng.

46
Xem văn bản tại đây:
47
Mahar, Heather, Why Are There So Few Prenuptial Agreements?. Harvard Law School John M. Olin Center for
Law, Economics and Business Discussion Paper Series. Paper 436, page 3


21

Mặc dù hôn ước ở Hoa Kì được qui định tương đối thoáng, nhưng trong
thực tế các bên lập hôn ước lại chi trả khá nhiều tiền cho luật sư để có một hôn
ước hợp pháp và chặt chẽ về thủ tục nhất.
1.3.3. Hôn ước theo pháp luật của Nhật Bản
Theo một cuộc khảo sát của tổ chức Master Card đã xếp loại tỉ lệ tiến bộ
của phụ nữ trong 13 quốc gia và vùng lãnh thổ dựa trên ý kiến của lực lượng lao
động nữ xem họ đã được học qua bậc tiểu học hay chưa, có bao nhiêu người giữ
các chức vụ quan trọng trong xã hội, và thu nhập trung bình của họ thế nào: với
tỉ lệ 55,5%, phụ nữ Nhật Bản được coi là kém bình đẳng giới so với các nước
khác, số phụ nữ Nhật là lao động chiếm 70,3%, số người giữ các chức vụ quan
trọng của nhà nước chiếm 62,2%, những người có thu nhập trung bình 51,3%
48
.
Nhật Bản là một quốc gia mang nặng nhiều biểu hiện phong kiến và bất bình
đẳng giới. Hôn nhân một vợ một chồng của Nhật Bản mới được ghi nhận
khoảng 100 năm trước vào đầu thời kì Minh Trị, ngay cả đến thời điểm hiện nay
Nhật Bản cũng chỉ cho phép phụ nữ được tái giá sau 6 tháng kể từ ngày cuộc
hôn nhân trước của họ chấm dứt
49
và người vợ khi kết hôn thì phải mang họ
chồng
50
, luật dân sự ở Nhật Bản được coi là một trong những sản phẩm của cuộc
cái cách Minh Trị 1868
51
. Hôn ước hay phần lớn những qui định trong bộ luật
dân sự Nhật Bản thường do được học tập từ dân luật Đức hoặc Pháp, tuy nhiên

đó là sự cấy ghép có chọn lọc chứ không phải là sự sao chép như trong dân luật
Việt Nam thời kì Pháp thuộc, nó thể hiện ở những nét đặc trưng riêng trong qui
định về hôn ước ở Nhật Bản.
Về hình thức, không giống như pháp luật các quốc gia khác, Nhật Bản có
riêng một văn bản pháp luật điều chỉnh về hình thức của hôn ước và vấn đề đăng
kí hôn ước
52
(Mặc dù tên tiếng anh của văn bản này được dịch theo các cách
khác nhau: “Family Registration Act” hay “Matrimonial property agreement
Registration Act” nhưng toàn bộ nội dung của nó chỉ nói về việc đăng kí hôn
ước và hình thức của hôn ước).

48
Xem: Phụ nữ Nhật Bản tụt hậu về bình đẳng giới, www.tienphong.vn ngày 15/3/2005
49
Điều 733 A Bộ luật dân sự Nhật Bản, Luật dân sự số 89 năm 1896 sửa đổi bằng luật số 78 năm 2006, tìm bản
tiếng anh tại link sau:
50
Điều 150 Bộ luật đân sự Nhật Bản,
51
Trong cuộc cải cách này họ đã chủ trương từ bỏ những tập tục có hại để học hỏi những tiến bộ của phương Tây
52
Tìm bản tiếng Nhật tại link sau: (Luật này chưa được dịch chính thức sang tiếng Anh)

×