Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vấn đề nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.9 KB, 20 trang )

Đề tài: Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vấn đề
nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong thời kỳ hội nhập

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa
kiệt xuất của dân tộc ta và của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh
thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đồn
kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân
tộc ta và của tồn nhân loại. Đấy là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư
duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến
lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay, để “tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong
cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã
hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh”. Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, Cách mạng nước ta đang trên đường đổi mới , với nhiều thách thức đặt ra.
Chỉ có thể huy động sức mạnh đại đồn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta
mới đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng dân giàu nước mạnh , xã
hội cơng bằng văn minh, dân chủ. Vì vậy, việc hiểu rõ và vận dụng tư tưởng đại
đồn kết Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay là vấn đề hết sức quan
trọng, có ý nghĩa hết sức to lớn. Vì vậy, em chọn đề tài : “Tư tưởng Hồ Chí
1


Minh về đại đoàn kết dân tộc và vấn đề nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự
lực, tự cường trong thời kỳ hội nhập” làm đối tượng nghiên cứu.


2


PHẦN NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1. Những cơ sở hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu
tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận
dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và
điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
a-Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân
tộc Việt Nam.
Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh viết: ” Dân ta
có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành
một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với
ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình
thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm
ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho vận
mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống cịn và
phát triển của dân tộc. Nó là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần
dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá
trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá
trình dựng nước và giữ nước, làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết của dân
tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết
của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm
qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo

3


vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng
đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
b- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân
dân là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vơ sản muốn thực hiện vai trị là lãnh đạo
cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực
lượng to lớn của cách mạng. Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp
bức con đường tự giải phóng. Lê-nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là
liên minh giai cấp công nhân với nông dân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho
thắng lợi của cách mạng vơ sản. Rằng nếu khơng có sự đồng tình và ửng hộ của
đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vơ sản, thì
cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện được.
Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa
học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong
các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước
Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
c- Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong
trào cách mạng Việt Nam và thế giới.
Khơng chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất
phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bơn ba khảo nghiệm ở nước
ngịai của Hồ Chí Minh.
*-Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc
đấu tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết

4


của ông cha ta với tư tưởng “Vua tôi đồng lịng, anh em hịa thuận, cả nước góp
sức” và “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”.
Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và
bề dày của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người
ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn cơng bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu
nước , chống pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Hồ
Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng
của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan
của lịch sử trong giai đọan này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để
Người quyết tâm từ Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.
*- Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo
nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực:
“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ
chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có
sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có
tổ chức và chưa biết tổ chức…”
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến
bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc,
giành dân chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười theo
cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách mạng
Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã
mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động,
tập hợp, đồn kết lực lượng quần chúng cơng nơng binh đơng đảo để giành và
giữ chính quyền cách mạng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc

5


Tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những
luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng và
tiến bộ, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói
một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
a- Đại đồn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách
mạng.
Với Hồ Chí Minh, đồn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta.
Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động
phải tự mình cứu lấy mình bằng cách mạng vô sản. Trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương
pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại
đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người coi là vấn đề sống cịn của cách mạng.
- Đồn kết khơng phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất
quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Đồn kết quyết định thành cơng cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh, là
then chốt của thành cơng. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng
đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất.
Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mơ của đồn kết quyết
định quy mơ,mức độ của thành cơng.
- Đồn kết phải ln được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
Tại sao Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại
lại phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là
vì đồng bào Việt Nam đã đoàn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tồn
dân Việt Nam chỉ có một lịng: Quyết khơng làm nơ lệ. Chỉ có một chí: Quyết
khơng chịu mất nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ

6


thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một
bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt
đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Chính
sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn kết làm nên thắng lợi của Cách Mạng
Tháng Tám. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “ Vì sao có cuộc thắng lợi
đó"? Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của
tồn dân đồn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo
đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc.Lực
lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó”.
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc
nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc
nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”. Và Người khuyên dân ta
rằng: “Dân ta xin nhớ chữ đồng, đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng
minh” Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.
b- Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng “ Đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi
vì, đại đồn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì
quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành
sức mạnh vơ địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân, hạnh phúc cho con người.
c-Đại đoàn kết dân tộc là đại đồn kết tồn dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu
tiên, không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người khơng tín
ngưỡng, khơng phân biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đồn kết dân
tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh
chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “ ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và

7


độc lập tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có
sức, có lịng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đồn kết với họ”.
Muốn thực hiện đại đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống u nướcnhân nghĩa- đồn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với
con người. Xác định khối đại đồn kết là liên minh cơng nơng, trí thức. Tin vào
dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh
công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đồn kết tồn dân, nền tảng
được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, khơng
e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
d- Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt
trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:
- Trên nền tảng liên minh công nông (trong xây dựng chế độ xã hội mới có
thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất
lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và khơng ngừng mở rộng.
- Đồn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ
Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế
cái riêng, cái khác biệt.
Đầu năm 1951, tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc, Người
vạch rõ: “ Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại
đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác… Bất kỳ
ai mà thật thà tán thành hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những
người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với
họ”. Người chỉ rõ: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, khơng phải là một thủ
đoạn chính trị. Ta đồn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta
8



cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng
phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”. Người cịn nhấn
mạnh: ”Đồn kết rộng rại, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có vững, nhà
mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đồn kết phải
chống hai khuynh hướng sai lầm: cơ độc, hẹp hịi và đồn kết vơ ngun
tắc”. Cũng tại Đại hội đó, Người chỉ rõ: “Tơi rất sung sướng được lãnh cái trách
nhiệm kết thúc lễ khai mạc của Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt. Lịng
sung sướng ấy là của chung tồn dân, của cả Đại hội, nhưng riêng cho tôi là một
sự sung sướng không thể tả, một người đã cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu
năm cho khối đại đoàn kết tồn dân. Hơm nay, trơng thấy rừng cây đại đồn kết
ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu lan rộng khắp tồn dân, và nó
có một cái tương lai “trường xn bất lão”. Vì vậy cho nên lịng tơi sung sướng
vơ cùng.” Người đã nói lên khơng chỉ niềm vui vơ hạn trước sự lớn mạnh của
Mặt trận dân tộc thống nhất, mà còn là sự cần thiết phải mở rộng và củng cố Mặt
trận cũng như niềm tin vào sự phát triển bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc
lâu dài về sau. Điều này được thể hiện trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt
Nam.
II. Vấn đề nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong thời
kỳ hội nhập.
1. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc
- Từ thuở bình minh, sơ khai trong lịch sử dân tộc, các thế hệ ông cha ta
sớm đã hình thành ý chí, khát vọng phát triển quốc gia, dân tộc. Trải qua quá
trình lịch sử, ý chí, khát vọng độc lập và hùng cường dân tộc đã được nuôi
dưỡng, hun đúc trở thành giá trị truyền thống, lẽ sống và sức mạnh Việt Nam, là
cơ sở để khơi dậy, phát huy, nhân lên sức mạnh tổng thể, sự nỗ lực của cả dân
9



tộc trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ thời các vua Hùng dựng nước, đến Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa
“đền nợ nước, trả thù nhà”, ước vọng của Triệu Thị Trinh “đánh đuổi quân Ngô
giành lại giang sơn”... Hay qua lời tuyên ngôn “Nam quốc sơn hà” của Lý
Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngơ đại cáo” của
Nguyễn Trãi, những chiến thắng vang dội 20 vạn quân Thanh dưới thời đại
Quang Trung...
- Kế thừa truyền thống lịch sử - văn hóa của dân tộc, tinh thần độc lập tự
chủ, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc ở Hồ Chí Minh ln bắt nguồn từ nhận thức đúng đắn về con người, hạnh
phúc của người dân, của quốc gia dân tộc, ở Việt Nam nói riêng và trên tồn thế
giới nói chung.
- Người quan niệm chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất mang lại hạnh
phúc cho mọi người. Hạnh phúc ấy do chính con người tạo dựng với sự lãnh đạo,
định hướng của đảng cộng sản, đảng cách mạng chân chính. Hạnh phúc ấy bắt
đầu từ những mục tiêu căn bản nhất, mọi người đều thốt cảnh đói nghèo, được
ăn, ở, học hành, có đời sống văn hóa vật chất, tinh thần tốt đẹp, lành mạnh. Từ
hạnh phúc căn bản đó mà tạo ra từng gia đình hạnh phúc, nhân rộng thành cộng
đồng hạnh phúc, đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng dân tộc
đã đạt nhiều kỳ tích chói lọi, làm nên Cách mạng tháng Tám, khai sinh nền độc
lập, mở ra thời đại mới, kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã
hội, khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng của Đảng và dân tộc ta là
đúng đắn, phù hợp quy luật khách quan, thực tiễn đất nước và xu hướng phát
triển của thời đại.
- Hiện nay, công cuộc đổi mới đã và đang mang lại những thay đổi lớn
lao, mà một trong những nguyên nhân căn bản là do chúng ta biết quy tụ, khơi
10



dậy, phát huy ý chí tự cường và khát vọng phát triển của toàn dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng, trở thành nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, tiếp tục phục vụ
đắc lực sự
nghiệp cách mạng dân tộc trong giai đoạn mới.
- Bài học kinh nghiệm quý giá của cơng cuộc đổi mới chính là dựa vào
sức dân, phát huy tinh thần và ý chí khát vọng của nhân dân trong xây dựng phát
triển kinh tế - xã hội, bảo vệ mơi trường hịa bình. Thành tựu của cơng cuộc đổi
mới trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội đã thể hiện rõ nét hiệu quả của việc
phát huy ý chí, khát vọng phát triển đất nước của toàn nhân dân ta, dân tộc ta.
Điều này đã được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện
so với những năm trước đổi mới. Quy mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên.
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
- Có thể nói, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang, tiếp
tục là điểm tựa quan trọng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối chiến
lược phát triển đất nước trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiếp tục dẫn dắt dân tộc
tiến bước trên con đường phát triển và tiến bộ xã hội.
2. Bối cảnh thời đại và yêu cầu đặt ra phải phát huy ý chí tự lực,
tự cường, khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc
- Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ, tình hình thế giới “tiếp tục có nhiều thay
đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường”. Đáng chú ý là vấn đề tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vấn đề cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế,
chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt…
- Trong bối cảnh thế giới phát triển phụ thuộc lẫn nhau, lợi ích quốc gia,
dân tộc là nhân tố quyết định để mỗi quốc gia dân tộc tham gia vào các mối quan
11



hệ quốc tế, hội nhập quốc tế thành cơng. Ngồi tiềm lực kinh tế, ý chí tự lực, tự
cường, khát vọng phát triển của toàn dân tộc là chỗ dựa và điều kiện căn bản, cốt
lõi để mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế.
- Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang có tác động mạnh mẽ đến
Việt Nam càng địi hỏi Việt Nam phải ln giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường,
khát vọng phát triển để bảo vệ vững chắc mơi trường hịa bình, tận dụng cơ hội
và hóa giải những thách thức đối với độc lập, hịa bình và phát triển của dân tộc.
- Thực tiễn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một
cách sinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta. Những thành tựu của
công cuộc đổi mới là nền tảng quan trọng giúp chúng ta củng cố niềm tin, sự
quyết tâm, nỗ lực, tiếp tục thúc đẩy con đường đi lên của dân tộc. Hơn lúc nào
hết, cần phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí, khát
vọng phát triển của tồn dân tộc làm động lực cho sự phát triển trong giai đoạn
phát triển mới.
- Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc
đổi mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý
chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đồn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi
dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo,
tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
- Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ, giải pháp tăng cường
công tác xây dựng Đảng, khẳng định: “Kiên định và không ngừng vận dụng,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với
thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và
12



đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, tổ chức và cán bộ”.
- Văn kiện Đại hội cũng nhấn mạnh: Kiên quyết, kiên trì thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khố XI, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về xây
dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy
lùi suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá" trong nội bộ. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ
Trung ương đến chi bộ; cấp uỷ cấp trên chủ động gợi ý kiểm điểm đối với tập
thể, cá nhân ở những nơi có vấn đề phức tạp, có biểu hiện suy thối, "tự diễn
biến", "tự chuyển hố"; coi trọng kiểm tra việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm.
- Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường dân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân, góp phần thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng trong
các giai đoạn lịch sử.
3. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong thời kỳ hội
nhập
“Tự lực” hiểu một cách đơn giản nhất là làm việc gì cũng tự bằng sức
mình, với sức lực, khả năng của bản thân, không nhờ cậy ai. “Tự lực” thường
được dùng trong cụm “tự lực cánh sinh”, có nghĩa là dựa vào sức lực của mình
để tự giải quyết những vấn đề khó khăn về đời sống, kinh tế… Cịn “tự cường”
là tự làm cho mình ngày một mạnh lên, khơng chịu thua kém người. “Tự cường”
thường được dùng với nghĩa dành cho tổ chức, dân tộc, đất nước, chẳng hạn “ý
thức tự cường dân tộc”… “Tự lực” và “tự cường” thường gắn với các yếu tố “tự
chủ” (với nghĩa tự quyết định mọi cơng việc của mình, khơng để ai chi phối), “tự
13



do” (với nghĩa là trạng thái của một dân tộc, một xã hội và các thành viên trong
đó khơng bị cấm đốn, hạn chế vơ lý trong các hoạt động xã hội – chính trị, đồng
thời khơng bị lực lượng ngoại xâm chiếm đóng), “tự quyết” (với nghĩa một dân
tộc tự mình định đoạt những cơng việc thuộc về vận mệnh của mình, như thành
lập nhà nước, chọn mơ hình phát triển)…
Tự lực và tự cường có thể đồng thời biểu thị ý chí, năng lực của cá nhân,
tổ chức và quốc gia, dân tộc. Trong đó, sự tự lực và tự cường của từng cá nhân sẽ
góp phần quan trọng vào việc hình thành sự tự lực và tự cường của tập thể, của
đất nước, của dân tộc.
Tinh thần tự lực và tự cường của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của
nhân dân ta đã được thể hiện rõ nét trong Cách mạng tháng Tám. Từ chỗ các tổ
chức đảng gần như bị tan rã, mất liên lạc (thậm chí đến Xứ ủy Nam kỳ cịn
khơng liên lạc được với Trung ương, các Xứ ủy viên còn lại khơng nắm tình hình
của nhau…), lực lượng quần chúng bị phá vỡ… sau khởi nghĩa Nam kỳ nhưng
chỉ trong vài năm, các phong trào cách mạng không chỉ được phục hồi mà còn
phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy. Từ chỗ Mặt trận Việt Minh hoạt động bí mật
ở Việt Bắc với những bộ phận nhỏ lẻ thì đến trước tổng khởi nghĩa đã có hệ
thống tổ chức ở khắp nơi trong cả nước và thu hút được hầu hết các tổ chức yêu
nước, tiến bộ cùng tham gia. Từ chỗ lực lượng vũ trang chỉ có 34 đội viên của
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nhưng chỉ trong vài tháng đã hình
thành nên đội quân được tổ chức quy củ lên đến hàng ngàn người và đến Nam bộ
kháng chiến thì đã có hàng vạn người… Sự tự lực, tự cường đó đã tạo nên sức
mạnh to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần, đủ sức làm nên kỳ tích trong Cách mạng
thángTám.
Đối với Việt Nam, gần như trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta đều thể
hiện rõ tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, gắn với đường lối ngoại giao mềm dẻo,
cân bằng. Đặc biệt, trong thời kỳ cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh
14



đạo, tinh thần đó càng được phát huy rõ nét. Một trong những bài học quan trọng
được đúc kết từ thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là về tinh thần
chủ động, sáng tạo. Bối cảnh quốc tế bấy giờ có nhiều điều kiện thuận lợi cho
cách mạng Việt Nam nhưng nếu khơng có tinh thần đó về xác định và hồn thiện
đường lối chính trị, về phương thức tiến hành, chuẩn bị lực lượng, về nắm bắt và
tận dụng triệt để thời cơ, về chính sách đối ngoại…, nhất là tinh thần tự lực, thì
khơng thể có một cuộc tổng khởi nghĩa “trời long đất lở”, giành chính quyền về
tay nhân dân một cách trọn vẹn, gần như khơng đổ máu như vậy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh đến vấn đề tự lực, tự cường.
Trong bài nói chuyện tại hội nghị chiến tranh du kích, ngày 13-7-1952, Người
rút ra kết luận: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác
giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập”. Trước đó, vào tháng 5-1947, trả lời
phỏng vấn của thơng tín viên hãng Reuters, Người nói: “Độc lập nghĩa là chúng
tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, khơng có sự can thiệp ở ngồi
vào”. Khi động viên tồn dân tích cực tham gia và ủng hộ Chính phủ trong dịp
kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến, ngày 10-6-1948, Người nêu rõ: “Mỗi một
người dân phải hiểu: Có tự lập mới độc lập, có tự cường, mới tự do”… Như vậy,
theo Hồ Chí Minh, Việt Nam ln cần phải tự lực, tự cường, không chỉ trong
kháng chiến, mà cả trong xây dựng đất nước.
“Tự lực” và “tự cường” thường gắn với các yếu tố “tự chủ” (với nghĩa tự quyết
định mọi cơng việc của mình, khơng để ai chi phối), “tự do” (với nghĩa là trạng
thái của một dân tộc, một xã hội và các thành viên trong đó khơng bị cấm đốn,
hạn chế vơ lý trong các hoạt động xã hội – chính trị, đồng thời khơng bị lực
lượng ngoại xâm chiếm đóng), “tự quyết” (với nghĩa một dân tộc tự mình định
đoạt những cơng việc thuộc về vận mệnh của mình, như thành lập nhà nước,
chọn mơ hình phát triển)…

15



Trải qua các cuộc kháng chiến, đất nước ta, dân tộc ta, nhân dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng, đã lần lượt đánh bại những kẻ thù hùng mạnh nhất, hung hãn
nhất, xảo quyệt nhất, tàn bạo nhất. Trong những lần đó, chúng ta đã được bạn bè
thế giới giúp đỡ về rất nhiều mặt, tạo nên động lực tinh thần và sức mạnh vật
chất lớn lao để chiến thắng kẻ thù. Nhưng, chúng ta đã chiến thắng bằng chính
sức mình và bằng cách thức của mình.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã đúc kết một bài học của cách mạng Việt
Nam: “Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và
nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”. Điều này có nghĩa là
chúng ta phải thực hiện đồng thời hai yêu cầu: một mặt nước ta phải đề cao năng
lực tự chủ, luôn chú trọng sự tự lực, tự cường, không dựa dẫm vào nước khác mà
phải luôn tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các quốc gia, các tổ chức quốc tế và
nhân dân các nước trên cơ sở bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau, cùng có lợi. Điều
này bác bỏ ý kiến cho rằng Việt Nam cần phải liên kết, liên minh với nước này
để chống nước khác hoặc dựa vào nước nào đó để phát triển, bởi nó không chỉ
trái với truyền thống của đất nước ta, của Đảng ta mà cịn phi thực tế! Bởi nói
như Chủ tịch Hồ Chí Minh, thái độ dựa dẫm, ỷ lại thì khác nào “đưa hổ cửa
trước, rước beo cửa sau”!
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là thực tiễn hơn 35 năm đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã thể hiện rõ ý nghĩa của nhận định ấy. Trong
đó, yếu tố tự lực, tự cường, ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta, đóng vai
trị quyết định và chính nhờ có nó chúng ta mới nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ
của bạn bè quốc tế và cũng từ đó chúng ta mới có năng lực để biến sự giúp đỡ
thành những giá trị cụ thể.

16



Một trong những bài học kinh nghiệm qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng được nêu tại Đại hội XIII là “chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường”.
Và trong các quan điểm chỉ đạo của Đại hội có một nội dung rất quan trọng
là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc;
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát
triển nhanh và bền vững đất nước”. Đây là sự sáng tạo của bài học từ Cách mạng
tháng Tám: khi trước, tự lực, tự cường là để giành độc lập, tự do; nay tự lực, tự
cường là để xây dựng đất nước giàu mạnh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường
quốc năm châu. Khơng có tinh thần đó thì đất nước khơng thể tự chủ, càng
khơng thể phồn vinh, hùng cường!

17


PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và vấn đề nêu cao tinh
thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong thời kỳ hội nhập có một vai trị cực kỳ
quan trọng. Nó không chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài tốn của cách
mạng vàothời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn giữ nguyêngiá trị.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 70 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức
sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại củatư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành sợi chỉ đỏ
xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng

đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu
nước và biến nó thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệucon
người, tạo thành sức mạnh vơ địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Lịch sử cách mạngViệt Nam hon nửa thế kỷ qua cho thấy, lúc
nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán triệt và
thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được
thăng lợi, nơi nào, lúc nào rời xa tư tưởng đóthì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở
ngại và tổn thất.
Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt về chất so
với thời kỳ đấu tranh bảo vệ tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm chí cũng đã
khác rất nhiều so với thời kỳ trước đổi mới. Đại hội XI của Đảng ta xác định:
Hơn bao giờ hết cần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
hồ bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá
khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau khơng trái với lợi ích
18


chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan
dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng
thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hồ
quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt
nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ
đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý
kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những
người có ý kiến khác; làm tốt cơng tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân
bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình. Ở thời
điểm dân tộc ta đã bước sang thế kỷ XXI những thời cơ và thách thức đan xen

nhau đang thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn lúc nào
hết, thực tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của Hồ
Chí Minh về đại đồn kết dân tộc và vấn đề nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự
lực, tự cường trong thời kỳ hội nhập, phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát
triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổicủa tình hình mới. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện
cùng với thực tiễn biến đổi của đất nước. Tư tưởng ấy vẫn là ngọn nguồn tạo nên
sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam để đi tới thắng lợi hoàn toàn và triệt
để của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nêu cao tinh thần tự lực, tự cường là
để xây dựng đất nước giàu mạnh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm
châu.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2006)
2. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn
giáo trình quốc gia các bộ mơn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
3. Hồ Chí Minh. Tồn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 94.
4. Hồ Chí Minh. Tồn tập. Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 77.
5. Hồ Chí Minh. Tồn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 374.

20



×