Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ Sông đà hung bạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.97 KB, 4 trang )

Nguyễn Đình Thi đã từng nhận định rằng: “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất
của con người khi đụng chạm vào cuộc sống”. Bao giờ cũng thế, người nghệ sĩ dường như
đã được phú cho cái thiêng lương cao đẹp là niềm rung cảm mãnh liệt trước những biến
thái của cuộc đời để rồi từ đó, chuyển được nhịp đàn muôn điệu ấy vào địa hạt văn
chương. Bởi vậy mà đọc một trang, ta thấy hiện hình đầy đủ sự đa cảm và cá tính riêng nơi
người nghệ sĩ. Ở Nguyễn Tuân, đấy có lẽ là cái tôi duy mỹ, lạ thường khi mê luyến vẻ đẹp
“lắm bệnh lắm chứng” của Đà giang để rồi chấp bút: “…Đã có lần tơi nhìn sơng Đà như một
cố nhân…, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy,
rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
Đúng như nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nhận xét: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về
người nghệ sĩ tài hoa”, Nguyễn thực là cây bút quái kiệt hiếm có trong thánh địa văn
chương Việt Nam. Hồn văn của ông vừa tài tử, vừa uyên bác, tổng hòa từ đa ngành và thể
nghiệm để rồi được cô đúc lên trang văn bằng lối viết điêu luyện, cẩn trọng. Tất cả đều
nhằm mục đích tối thượng là lưu giữ Cái Đẹp. Nếu như trước Cách mạng, phong cách nhà
thơ đại biểu bằng chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp hồi cổ và cái tơi bế tắc, thì về sau người nhận
ra “vẻ đẹp của đất nước hiện hình trên mỗi tấc gang đường xa” và nhìn nhận con người
bình dị với cuộc sống giản đơn đời thường. Tác phẩm “Người lái đị sơng Đà” chính là một
ví dụ tiêu biểu. Đoạn văn được trích từ tập tùy bút “Sông Đà” ra đời năm 1960 vốn là thành
quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc với chân dung nổi bật về một Đà giang nghịch ngược,
hung bạo vô cùng.
Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam, đi qua một vùng núi ác, đến gần
nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Lênh đênh trên quãng Tà Mường Vát phía dưới
Sơn La để mở lịng đón nhận những gì sơ khai nhất của tạo hóa, cái ngơng của Nguyễn
Tn dường như đã cuốn ơng vào dịng chảy kiêu bạc của sơng Đà. Nguyễn trân trọng dùng
câu thơ của Nguyễn Quang Bích làm lời đề từ:
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Khi tất cả dịng sơng đều chảy về hướng
Đơng, riêng sơng Đà lại chảy về hướng Bắc. Mà nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà
văn ưa cảm giác mạnh, là đẹp phải đẹp tuyệt mỹ, đã là dữ dội phải dữ dội đến khác
thường, đến tột đỉnh. Sự nghịch ngược ấy dưới ngòi bút nhà văn họ Nguyễn bỗng chốc trở
thành một hình tượng văn học có tính cách tâm trạng độc đáo.
Vốn am hiểu điện ảnh lại có lợi thế là bố cục tán - tụ của thể loại tùy bút, Nguyễn Tuân


như thể một nhà quay phim lão luyện, lúc miêu tả bao bát, lúc dồn sức đặc tả để thâu
được hồn cốt của dáng vẻ hung tàn nơi sông Đà. Ngay từ những con chữ đầu tiên, những
so sánh, liên tưởng “cảnh đá bờ sơng dựng vách thành” và “vách đá lịng sơng chẹt như cái
yết hầu” đã án ngữ khiến câu văn sinh động và gợi hình vơ cùng đồng thời tạo nên cảm giác
choáng ngợp như thể đang lạc vào chiến hào của chốn thành trì nào. Với địa hình hiểm trở
như thế và tốc độ nước chảy xiết, thuyền bè lắm lúc đối mặt với nguy cơ chệch hướng mà
đâm vào vách đá. Bởi thế mà cái “lạnh” của việc “ngồi trong khoang đò đi qua quãng ấy,
mùa hè cũng thấy lạnh” được diễn tả không chỉ về xúc giác mà còn là sự âm u, tịch mịch
pha lẫn bứt bối, ngột ngạt khi con người tồn tại giữa chiều kích kỳ vĩ của thiên nhiên. Đặc
biệt nhất là cách văn nhân của Hà Thành “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà


ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn
điện”. Đó như thể ông sợ độc giả chưa thể nghiệm mà lập tức gọt nhọn giác quan ta, quy
cảnh sắc thiên nhiên về với đời sống thị thành quen thuộc để ta dễ mà thấu cảm. Độc đáo
ở chỗ, từ vị trí ở hè một cái ngõ đến cụm từ “ngóng vọng”, “tầng nhà thứ mấy” rồi “tắt
phụt”, tất cả đã thăng cấp thêm cảm giác rợn ngợp lúc ban sơ. Bóng tối khi này đã bủa vây
đột ngột khiến con người bỗng lâm vào hẫng hụt. Các tiểu tiết ấy dù nhỏ nhưng đều được
xây dựng sao cho chân xác và tương cận với trạng thái, tâm lý con người nhất để từ đó tạo
đà để dìu dắt ta theo dịng sơng nghệ thuật đang hịa mình với Đà giang. Phải chăng, tác
giả đã neo đậu vào đến hang cùng ngõ hẻm của bến đời để tạo tác nên loạt liên tưởng tinh
tế đến vậy? Bởi lẽ người cầm bút chỉ có thể sáng tạo một cách hiệu quả, tối ưu khi mà họ
đem tấm lòng, đem sự chú ý của mình dời đến hiện thực. Tức là quá trình viết của văn
nhân cũng chính là q trình sống, trải nghiệm, chiêm nghiệm của họ với cuộc đời hạ giới.
Và “Người lái đị sơng Đà” đã phản chiếu chính lối sống “khổ hạnh” với nghiệp viết của ông.
Thế nhưng tài năng của tác giả khơng chỉ có vậy. Ngịi bút của người có lẽ chăng đã ban
cho sơng Đà sinh thể mới với tính cách riêng. Sự táo tợn của mặt ghềnh Hát Lng với
"nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn, gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng địi
nợ xt" là mở đầu về hình dung rõ ràng của người đọc về một loài thủy qi mang tên
Sơng Đà. Với nghệ thuật nhân hóa, con sơng hiện lên với khí thất thường, địi nợ vơ dun

cớ khơng bỏ sót một ai. Câu văn lại có nhịp điệu 3/3/3 như bị chặt ra từng đoạn nhưng
diễn đạt trùng điệp móc xích của nước-đá-sóng-gió liền nhịp điệu thành cái độ lượn của
mặt ghềnh. Những từ thanh trắc gối lên nhau lại vi diệu thay, vừa diễn tả trọn vẹn sự
chuyển vận sóng nước vừa trùng lặp với cái so sánh “địi nợ xt”. Lại khơng biết vơ tình
hay hữu ý mà nhà văn chọn ghềnh “Hát Lng” - nơi mà để gọi tên phải nén hơi, uốn lưỡi
như chính như chính mình vừa phải đi qua chỗ nước giữ, với sóng, với đá. Dù khơng có từ
nào trực tiếp tả nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại tựa như cửa miệng lồi
thủy qi. Hiện lên với chiều kích của “cái giếng bê tơng thả xuống sơng để chuẩn bị làm
móng cầu” đi cùng với “cái hút xốy tít đáy”, bấy nhiêu dường như là đủ để những người lái
đò qua đây cảm thấy rùng rợn chèo nhanh “y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút
qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”. Dẫu vậy, thế với Nguyễn Tuân vẫn là
chưa đủ để lột tả vẻ phi thường của thiên nhiên. Tuần tự, người đánh vào thính giác ta.
Vẫn qua nghệ thuật so sánh liên tưởng kèm theo biện pháp nhân hóa, nước trở nên biết
thở và kêu vơ cùng q dị nhưng độ lì của giác quan của người đọc lại tiếp tục bị thách
thức khi đến với “cái cửa cống cái bị sặc nước” và “ặc ặc lên như bị rót dầu sơi vào”. Mấu
chốt là khi miêu tả quãng này, người phu chữ không chỉ khéo léo sử dụng trường liên
tưởng trùng điệp mà ơng cịn đặt để sao cho tồn từ ngữ gợi hình gợi cảm như “tít”, “sặc”,
“ặc ặc”,... Đến đây, tác giả mới chứng thực về kết cục của bất cứ tay lái nào khinh suất:
“trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Dường như đáng sợ nhất không phải cách
dịng sơng phơ bày sự cuồng nộ mà là khi so sánh, tầm vóc ta bỗng nên thật nhỏ bé trước
thiên nhiên dửng dưng, chẳng màng tới sự tồn tại của con người. Chính sự chi tiết của câu
văn đã tác động mạnh mẽ vào trực cảm của người đọc. Nguyễn Tuân vẫn hơn người về
ngón ấy. Nhưng những câu như thế không chỉ viết ra để khoe tài mà chủ yếu để người khai


thác cho bằng hết nguồn thẩm mỹ vốn có của sông Đà. Quyền phép của người nghệ sĩ đã
được ông tận dụng để tha hồ lật xoay mà ngắm nghía đủ mọi chiều, đủ mọi phương tiện
mượn từ các ngành nghệ thuật. Và dưới góc quay người thường khơng thể nghĩ, ông tung

ra một cú contre-plongée không tưởng để khảo cứu đến kỳ cùng hình khối, sắc độ nước
sơng như “thành giếng xây tồn bằng nước sơng xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày”.
Sức bút bình thường làm sao có nổi cái liên tưởng tinh tế, lạ lùng như thế.
Nguyễn đang nói cho ta về sơng Đà hung bạo. Nhận xét như thế thật khơng có gì đáng
ngạc nhiên, nếu chúng ta không tận mắt chứng kiến nhà văn đã hao công phu thế nào để
bắt sự hung hãn kia nổi hẳn thành hình khối và gào thét trong mn vạn âm thanh. Tiếng
thác réo chính là một ví dụ điển hình: “Như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, “như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với
đàn trâu da cháy bùng bùng”. Hình ảnh của ơng hồng tùy bút tác động mạnh mẽ lên hệ
thần kinh người đọc để mang đến cảm giác chân thực và sống động nhất. Con sông ấy như
một kẻ lắm mưu, nhiều kế để khiêu khích người lái đị. Nó biết ốn trách, van xin, khiêu
khích, giọng gằn mà chế nhạo, để lộ bộ mặt và tâm địa của kẻ xấu xa, lắm mưu, nhiều kế kẻ thù số một của con người. Nhà văn đồng thời thể hiện tài hoa trong việc liên tưởng và
cộng hưởng âm thanh, đặt những hình ảnh tương phản trong một liên tưởng đầy bất ngờ
và thú vị: lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sơng. Chỉ qua thính giác, thác Sơng Đà hiện lên như
những âm thanh man dại bản năng của loài động vật to lớn hung dữ đang cuồng loạn tìm
lối thốt thân. Lần đầu tiên ta bắt gặp trong thơ văn có người dùng sức lửa để diễn tả sức
nước. Hai nguyên tố xung khắc được đặt trong một cùng một tương quan. Điều đó có lẽ chỉ
có thể bắt gặp ở bậc kỳ tài ngơn ngữ.
Chuyến hành trình cuối cùng cũng chạm mốc khó khăn nhất: trùng vi thạch trận hiểm hóc
bậc nhất. Mọi trường từ vựng quân sự đặc sắc nhất đã được tác giả huy động để cực tả sự
chuẩn bị kỹ càng của kẻ thù. Đó là dàn đá hậu, đá tướng, đá tiền vệ hùng hậu dữ dằn với
“mặt hịn đá nào trơng cũng ngỗ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt
nước chỗ này”, là trận đồ bát quái với nhiều thủ đoạn nham hiểm: ba trùng vi, tập đoàn
cửa sinh cửa tử, hệ thống boongke hay pháo đài đá chìm nổi. Khơng khó khăn gì để thấy
trong đoạn này tác giả đã sử dụng rất nhiều nhân hóa để nhờ đó độc giả nhận ra từng sắc
diện người trong những hình thù đá vơ tri. Dễ mấy ai nhìn ra những khn mặt đá kiểu như
thế này. Chắc rằng những chữ như “hất hàm”, được viết tài đến thế thì hoặc phải xoẹt qua
óc nhà văn như ánh chớp thiên của cảm hứng, nếu không phải hun đúc nó vơ cùng cơng
phu. Ở trùng vi đầu tiên, sơng Đà khơng khoan nhượng bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử,

một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sơng, mục đích chính là “ăn chết cái
thuyền”. Vừa vào trận địa, chúng tấn công tới tấp: “Mặt nước hị la vang dậy quanh mình,
ùa vào mà bẻ gãy cán chèo vũ khí”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào
bụng và hông thuyền, “nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ơng đị địi lật ngửa
mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạc” thậm chí là “ bóp chặt lấy hạ bộ người
lái đị”. Có thể nói sóng nước là tuệ binh mà con sơng tung ra để thử thách người lái đị.
Nhưng bằng sự mưu trí, dũng cảm, ông lái đã vượt qua dễ dàng. Trùng vi thứ hai lại càng
xảo quyệt hơn: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử


với ơng lái đị. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn khơng ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất
vọng”. Đến trùng vi thứ ba lại có ít cửa hơn và cả bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Tại
đây những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền làm
ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng
thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút cửa ngoài, cửa trong như một mũi tên tre xuyên nhanh
qua hơi nước để giành lấy chiến thắng. Đoạn văn dựng cảnh đầy giá trị tạo hình, giống như
một thước phim quay cận cảnh cuộc chiến dữ dội và ác liệt trên một chiến trường đầy kịch
tính. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi
cao sơng hãy cịn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.”
Rảo bước trên thi đàn, người viết về vẻ đẹp khuê mộng vô số nhưng ít gặp văn nhân nào
lại mê luyến vẻ ngỗ ngược của Đà giang như ông. Bao trùm trong đoạn văn là các so sánh,
nhân hóa, liên tưởng độc đáo kết hợp với lối viết tùy bút bậc thầy kết hợp kiến thức liên
ngành, ngôn ngữ sống động từ đó làm nổi bật lên một con sơng Đà hùng vĩ, hoang dại với
những thành vách, hút nước, trùng vây thạch trận. Nhưng những khoảnh khắc “lắm bệnh
lắm chứng ấy” cũng mang vẻ đẹp tồn bích và sức mạnh kì diệu tạo nên “thứ vàng trắng”
cho những tuốc bin thủy điện – thứ đóng vai trị rất lớn trong sự nghiệp xây dựng đất
nước. Tất cả tựu trung thể hiện tấm lòng sâu nặng với quê hương xứ sở của nhà văn
Nguyễn Tn.

Đọc “Người lái đị sơng Đà”, ta khơng khỏi thán phục vẻ đẹp của Hóa cơng và sự gia công,
chất uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Tác phẩm dù viết đã lâu, văn nhân cũng về
cõi vĩnh hằng thế nhưng lịng người đọc vẫn hồi niệm vẻ đẹp tồn bích của dịng sơng Đà.
Có lẽ thiên tùy bút sẽ còn sống mãi như mà Shchedrin từng nói: "Thi ca nằm ngồi mọi quy
luật của bằng hoại, chỉ có nó khơng thừa nhận cái chết."



×