Trường THPT Hùng Vương Gv: Nguyễn Thò Hằng Nga
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Nguyễn Tuân
I- Giới thiệu:
1. Xuất xứ: TP được xuất bản lần đầu năm 1960 in trong tập tùy bút “Sông Đà”. Đến
1982, khi cho in lại trong tập 2 bộ tuyển tập Nguyễn Tuân thì ông có sửa và đổi tên là
“Người lái đò ông Đà”.
2. HCST: TP là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của NT. Ông đến với
nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường
và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem lại
cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
3. Bố cục: 3 đoạn
- Ông lái đò … chính bờ sông (171): Giới thiệu ông lái đò Sông Đà
- Hùng vó của Sông Đà … dòng nước SĐ (175): Hình ảnh con SĐ và những cuộc vượt
thác của ông lái đò
- Tôi có bay tạt ngang … XHCN ở TB (179): Con sông hiền hòa và c/s tươi vui ở ven bờ
SĐ.
4. Chủ đề: Qua hình ảnh người lái đò vượt SĐ trên nền bức tranh sông nước đất trời hùng
vó và trữ tình, tác giả thể hiện tình cảm yêu mến thiên nhiên đất nước, con người và
cuộc sống mới ở vùng cao Tây Bắc.
II- Phân tích: Thiên tùy bút này vừa là một công trình khảo cứu công phu vừa là một áng
văn giàu tính thẩm mó về SĐ và con người SĐ.
1- Hình ảnh người lái đò sông Đà:
Chân dung đầy sức hấp dẫn:
- Ngoại hình: Với hình dáng thật đặc biệt, phù hợp với công việc trên sông nước “Tay
ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũnh khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp một
cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt gềnh sông,
nhãn giới ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
Cái đầu quắc thước ấy đặt trên một cái thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng
chất mun”.
- Tính cách: Gan dạ, linh hoạt, thích đương đầu trước sóng gió những con thác. Ông
bảo: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác, nó dễ dại tay dại chân và buồn ngủ”
Tư thế của một dũng tướng tài năng, phong thái của một nghệ só tài hoa:
- Trước hết, ông hiểu thật rành mạch về đối tượng “Trí nhớ ông được rèn luyện cao độ
bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của
tất cả những con thác hiểm trở. Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên
anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng đến cả những cái than chấm câu và những đoạn
xuống dòng”.
- Miêu tả NLĐSĐ, Nguyễn Tuân đã dành cho nhân vật của mình những tình cảm yêu
mến, trân trọng. Đoạn tả cảnh vượt thác hết sức sinh động. Nhiều tình tiết, đầy tính
kòch, thể hiện tư thế của một trang dũng tướng kì tài khi lâm trận. Ông lái đò đã bình
tónh đương đầu với bao thác ghềnh cuồng bạo, xử lí các tình huống hiểm nghèo một
cách dũng cảm, quyết liệt thông minh, táo bạo như một tay vượt thác nhà nghề.
- Nghệ thuật nhân hóa qua Ba trùng vi thạch trận : Vòng 1, Sông đà “Phối hợp với đá,
nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Mặt
nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên tay mình.
Trường THPT Hùng Vương Gv: Nguyễn Thò Hằng Nga
Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá thúc gối vào bụng và hông
thuyền.Nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía
tả ngạn sông”, ông lái đò “Cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái,
mặt méo bệch” tỉnh táo vượt qua nguy hiểm.Vòng 2, Sông Đà “Tăng nhiều cửa tử cửa
sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh
vào sóng đá”, Ông lái đò “Nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì
cương lái, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Đứa thì ông tránh mà rảo bơi
chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến.Vòng 3, Sông Đà “Ít
cửa hơn, bên trái bên phải đều là đường chết. Luồng sống ở chặng ba này là ở ngay
giữa bọn đá hậu vệ của con thác kia”, Ông lái đò “Phóng thẳng thuyền, chọc thủng
cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước, vừa xuyên
vừa tự động lái được lượn được”
- Sau khi vượt thác, ông lái đò lại có phong thái của một nghệ só tài hoa, Ông ung dung
đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ.
2- Hình ảnh con sông Đà: Được miêu tả như một nhân vật sống động với hai nét tính
cách đối lập qua nghệ thuật nhân hóa, so sánh
Sông Đà hung bạo, hiểm ác: Được t/g miêu tả cụ thể, đậm nét bằng nhiều thủ pháp
nghệ thuật độc đáo, kết cấu trùng điệp “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”.
- Nét dữ dội đầu tiên của con sông qua nghệ thuật nhân hóa là những thác nước gầm
réo muôn đời: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
- Sau thác là Đá “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như
mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhỏm cả dậy để
vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào nhăn nhúm méo mó
hơn cả cái mặt nước chỗ này. Hùng vó của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Có chỗ
vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”
- Và Hút nước “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bêtông thả
xuống sông để chuẩn bò làm mống cầu. Những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa
rói dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó
lôi tuột xuống. Có những con thuyền đã bò cái hút đó hút xuống, thuyền trồng ngay cây
chuối ngược rồi vụt biến mất đi, bò dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau
mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
Tính thơ mộng trữ tình của dòng sông:
- Con sông thơ mộng được miêu tả từ trên cao “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một
áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt sương xuân”
- Nước sông đổi thay tùy mùa tiết “Mùa xuân dòng sông ngọc bích, chứ nước sông Đà
không xanh màu xanh canh bến của sông Gấm sông Lô. Mùa thu nước sông Đà từ từ
chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất
mãn bực bội gì mỗi độ thu về.
- Con sông hiền hòa “Con sông Đà gợi cảm. Đã có lần tôi nhìn sông Đà như một cố
nhân. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “yên hoa tam
Trường THPT Hùng Vương Gv: Nguyễn Thò Hằng Nga
nguyệt há Dương Châu”. Cảnh ven sông ở đây lặng lờ. Thuyền tôi trôi qua một nương
ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tònh không một bóng người. Bờ sông hoang
dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
- Biện pháp nhân hóa và ẩn dụ được vận dụng: “Và con sông như đang lắng nghe
những giọng nói êm êm của người xuôi”
3- Cuộc sống mới đáng yêu, đầy niềm tin:
- Cuộc sống mới tràn đầy niềm tin qua tiếng hát “gửi xuống một hai câu và có khi hát
cả một bài …vì hai bên bờ Sông Đà, ai ai cũng biết hát cả đấy”.
- Cuộc sống mới bắt đầu thay da đổi thòt qua hình ảnh “mấy lá ngô non đầu mùa… một
đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm…”
III- Kết luận: NT nhìn thiên nhên và con người trong hoàn cảnh khắc nghiệt, đồng thời
cảm nhận thiên nhên và con người ở cả hai phương diện thẩm mó, tài hoa. NLĐSĐ là tấm
lòng dào dạt với c/s, một c/s đáng yêu và quyến rũ mà NT hòa nhòp bằng trái tim chân
thành của 1 nhà nghệ só tài hoa.