Tải bản đầy đủ (.pdf) (196 trang)

Nghiên cứu sự tác động của nền kinh tế thị trường ảnh hưởng tới các lễ hội tín ngưỡng: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.51 MB, 196 trang )

PGS. LE HONG LY

S

c

u

v

a

ä

k

o

u

t

i n

i

h

a

h



h

c

t

o

d

e

i

t

t

i

n

o

n

g

h


i

t r

u

d

n

g

u

o

n

n

g

g


sự TÁC ĐỘNG CỦA
KINH TẾ THỈ TRƯỜNG VÀO







LỀ HỘI TÍN NGƯÕNG
m


PGS.TS LÊ HỔNG LÝ

Sự TÁC ĐỘNG CỦA
KINH TẾ THỈ TRƯÒNG VÀO
LỄ HỘI TÍN NGƯỠNG








NHÀ XUẤT BẢN VĂN HĨA THƠNG TIN
VIỆN VĂN HOÁ


BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIÊT TẮT

GS

Giáo sư


H.

Hà Nội

HĐND

Hội đồng nhân dân

M TTQ TƯ

Mặt trận Tổ quốc Trung ương

Nxb.

Nhà xuất bản

PGS

Phó Giáo sư

Sđd.

Sách đã dẫn

TDTT

Thể dục thể thao

Tp.


Thành phố

TS

rp*

ƯBND

ủ y ban nhân dân

UBMTTQ

ủ y ban mặt trận Tổ quốc

VHTT

Văn hóa thơng tin

Aỵ

Tiên sĩ


LỜI M ỏ
Sau bao năm dài chiến tranh giữ nước, người Việt Nam
kết thúc cuộc chiến ác liệt vào mùa xuân 1975. Đất nước
được độc lập, toàn vẹn trong một hồn cảnh vơ cùng khó
khăn với hậu quả lâu dài và khắc nghiệt của một cuộc chiến
tranh chưa từng có cho đến thời điểm bấy giờ. Có thệ nói,

chiến tranh Việt Nam là một cuộc thử nghiệm vũ khí lớn
nhất, sự huỷ diệt cao nhất của tất cả các tập đồn sản xuất vũ
khí trên thế giới. Bom đạn, chất độc hoá học, chiến tranh tâm
lý, cân não, sự chia rẽ v.v... đã dội lên đầu người Việt. Đất
nước hoang tàn, kinh tế kiệt quệ, hậu quả nặng nề của cuộc
chiến có thể nhìn thấy bất cứ ở đâu trên đất nước cho đến tận
bây giờ. Tuy nhiên, lòng khát khao độc lập và sự tồn vẹn
lãnh thổ, ý chí không chịu làm nô lệ đã làm cho người Việt
N am vượt qua tất cả để đạt được sự thống nhất đất nước.
Tưởng chừng mọi sự sẽ yên ổn sau ngày 30.4.1975, đất
nước sẽ khơng cịn phải chịu đựng sự chết chóc của bom đạn,
khơng ngờ khơng bao lâu sau, hai cuộc chiến ở biên giới phía
Nam và Bắc lại một lần nữa làm người Việt phải đổ máu.
Thêm 15 năm nữa, có lẽ phải tính đến 1985 hồ bình mới thật
sự có được trên dải đất nhỏ bé này, tuy rằng đến năm 1979 sự
đụng độ biên giới phía Bấc kết thúc, nhưng sự căng thẳng còn
kéo dài cho đến cuối thập kỷ 80 của thế kỷxx.
5


Cũng như tất cả các giai đoạn lịch sử trước đó, người
Việt khơng chỉ biết đau buồn, than khóc sau mỗi cuộc chiến,
mà họ vươn dậy đối mặt với những thử thách mới như sự mất
mát đau thương, nghèo đói do sự kiệt quệ của nền kinh tế...
Cùng với sự hàn gắn những vết thương chiến tranh, phục hồi
nền kinh tế, cải thiện đời sống, thì một sự hàn gắn hết sức to
lón được địi hỏi hơn bao giờ hết đó là sự hàn gắn tình cảm
của con người cùng với những di sản văn hố mà từ đó họ đã
lớn lên, rồi cũng từ đó họ đã ra đi biền biệt, đằng đẵng một
chặng đường dài tưỏmg như không bao giờ trở lại.

Chiến tranh loạn lạc bao giờ cũng kèm theo biết bao
nhiêu sự ly tán của con người. Chín năm kháng chiến đã một
lần xáo trộn, hồ bình lập lại 1954 một lần nữa diễn ra một
cuộc chia cắt lón Nam — Bắc. Người miền Nam tập kết,
người miền Bắc di cư. Mỗi con người ra đi đều mang trong
mình hình ảnh những người thân thuộc, hình ảnh quê hương
với những bờ ao, mái đình, luỹ tre, bến nước, ngơi chùa, dịng
sơng với bao niềm khắc khoải, khơn ngi. Những hình ảnh
ấy khơng bao giờ m ờ phai trong kí ức của tất cả những người
ra đi và ai cũng vậy, dù phải chết cũng m uốn ít nhất một lần
trong đời được trở lại với những nơi thân thương ấy.
Ngày hồ bình trở lại, đất nước thanh bình, nhưng kinh
tế vẫn cịn eo hẹp nên thật đau lòng khi trở lại những cảnh xưa
người cũ đã thay đổi, đã mất m át quá nhiều. Những người rời
quê hương khi làng xóm cịn trù phú, nay trở về trong cảnh bị
tàn phá nặng nề, gác súng lại bắt tay vào cơng cuộc khơi phục,
nhưng trước hết vì miếng cơm manh áo, đâu đã có thì giờ để
lo chuyện đình, chùa, đền, miếu hay nhà thờ tổ tiên. Người
6


dời Ung đi nơi khác sinh sống nay vé trước hết cũng mới là để
gặp íỡ lại người thân họ hàng, mừng mùng tủi tủi biết người
này :òn, kẻ kia mất, thế đã là hạnh phúc lắm rồi. Vào những
năm 70 — 80 thực tế ớ nước ta là như vậy, người ta biết phải
giữ cái này, sửa cái kia cho q hương, họ hàng, song lực bất
tịng tâm khơng phải chỗ nào và ai cũng làm được.
Cho đến khi đổi mới, đời sống càng ngày càng khấm khá
lên, kinh tế phát triển với tốc độ tâng trưởne tốt hàng năm, đời
sống văn hoá cũng dần dần được cải thiện. Từ chỗ có của ăn,

của để cộng vói cuộc sống có đơi chút dư giả cũng là lúc nhu
cầu vãn hố tăng lên, khơng lẽ cứ để những đền, chùa điêu tàn
như trước. Con người khơng thể chỉ sống vì miếng ăn, đó là
chưi nói đến chuyện tâm linh theo truyền thống của người
Việt, sự yên ấm mồ mả tổ tiên, thần thánh cũng là sự đóng
góp vào cuộc sống n bình, ổn định của người đang sống,
nếu khơng kể đến sự phù hộ độ trì của tổ tiên, thần thánh ta
mới có được cuộc sống hơm nay.
Một phong trào khơi phục lại các đền, chùa, đình, miếu,
nhà thờ diễn ra ở khắp các làng quê đến phố phường. Hàng
loạt các di tích văn hố được khơi phục bởi chủ trương và kinh
phí của nhà nước, từ nguồn đóng góp của nhân dân địa
phương, của những người con xa quê gửi về, của những
người có lịng cơng đức... Lật các trang báo của những năm
90 cũng như các chương trình quảng cáo nhắn tin vào thời
kì ấy, ta sẽ thấy gần như ngày nào cũng có những lời mời
của các địa phương về dự tiệc khánh thành chùa, đền, đình,
miếu mới được tu bổ, tơn tạo thậm chí là xây mới lại. Qui
mơ, kiến trúc,nghệ thuật và tính chất lịch sử, vãn hoá của
7


các đình, chùa ấy khơng phải ở đâu cũng bảo đảm được nhi
xưa, song điều đáng nói là gần như những di sản tír
ngưỡng, tơn giáo ấy đã được khơi phục lại. Ở một góc đệ
nào đó có thể nói đây là một công cuộc khôi phục các di
sản văn hố vơ cùng to lớn của nhân dân cả nước.
Cùng với việc xây dựng lại đền, chùa, đình, miếu... là
việc khôi phục các lễ hội của làng vốn đã bao lâu nay bị qn
lãng do chiến tranh, do khơng cịn di tích vật thể làm nơi mở

hội. Lễ hội tổ chức vừa để xác định lại vị trí của di tích, để trở
lại với những hình bóng xưa của truyền thống văn hố làng, để
cảm ơn, ghi nhận cơng lao đóng góp của tất cả những người
đã tham gia phục hồi lại di sản văn hoá và cũng để khoe với
các làng khác nét văn hố của làng mình. Sau này, đương
nhiên cịn có chuyện thu hút kinh phí vào quỹ chung của dân
làng để bảo tồn di tích và lễ hội. Cho đến nay, có lẽ khơng cịn
một lễ hội quan trọng nào đối với các làng của người miền
xuôi cũng như miền núi chưa được khôi phục lại. Thậm chí cả
những lễ hội mới được du nhập vào Việt Nam nhưng trở thành
một hiện tượng văn hoá phổ biến cũng được kể đến. Con số
thống kê từ nguồn của Cục Văn hố thơng tin cơ sở (Ban nếp
sống mới TƯ) mà chúng tơi có được cho biết, tồn Việt Nam
có: 8902 lễ hội. Trong đó:
- 25 lễ hội du nhập từ nước ngoài
- 7005 lễ hội dân gian
- 1399 lễ hội tôn giáo
- 409 lễ hội lịch sử cách mạng
- 64 lễ hội k h ác1.
1 Nguồn từ Cục Văn hố thơng tin cơ sở, Bộ Vãn hố thông tin năm 2(X)4.

8


Một tác giá khác cũng dưa ra một con số thống kê mà
theo tác giả cũng cho ià “chắc chắn là chưa đầy đủ” thì trong
một năm ớ nước ta có 7K50 lễ hội, trong đó có 24 tỉnh có 10Ơ
lễ hội trớ lên. Tỉnh có số lượng lễ hội nhiều nhất ờ miền Bắc là
Hải Dương với 566 lễ hội, và tính nhiều lễ hội nhất ở miền
Nam là Kiên Giang với 392 lễ hội”2. Một thống kê từ 2001 chỉ

tính riêng trong phạm vi huyện Gia Lâm (Hà Nội) đã thống kê
được 139 địa danh có lễ hội. Năm 2000 huyện có 79 nơi làm
đơn xin mở hội và được chính quyền chấp thuận, tạo điều kiện
giúp đỡ tổ chức3. Vấn đề



đây khơng nói đến sự chính xác

của các số liệu, mà là sự “bùng nổ” một thời hết sức mạnh mẽ
của các lễ hội cổ truyền trong đời sống hiện nay, với sự đóng
góp của tồn xã hội để có sự bùng nổ ấy. Đó cũng là nhu cầu
to lớn của nhân dân vói các giá trị vãn hoá truyền thống của
dân tộc.
Cần phải khẳng định neay một điều về vai trò của Nhà
nước trong sự phục hồi này là hết sức to lớn. Nếu khơng có sự
thay đổi trong các chủ trương đường lối lãnh đạo thì sẽ khơng
có những sự thay đổi mà chúng ta đã thấy trong văn hoá và cụ
thể ở đây là lễ hội. v ề vai trò này của Đảng và Nhà nước, các
nhả lý luận đã chỉ ra có ba bước đột phá để đẫn đến đường lối
đổi mới toàn diện đất nước mà nó đang được tiếp tục hiện nay.
Ba bước đột phá ấy là:
: L<ê Thị Minh Lý, “Lễ hội — nhìn nhận lừ góc độ vãn hố phi vật the". Trong:
Mộ>t con dường tiếp cận di sân văn lìố. Bộ VHTT — Cục Di sản, H. 2005,
11.272.
3 C hí Tín, Đ ể lề hội bền gốc trong Ìỏììg dàn, Hà Nội mới cuối tuần, số 308,
Ị7/'2/2()OLtr. 6

9



1- Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8 nãm 1979)
với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất “ bung ra” là
bước đầu tiên của quá trình đổi mới à nước ta.
2- Hội nghị Trung ương 8 khoá V (tháng 6 năm 1985)
đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xoá
bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một
giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển
mọi hoạt động sản xuất — kinh doanh sang cơ chế hoạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên
tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận
sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá.
3- Bước thứ ba là Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội VI,
Bộ Chính trị đã đưa ra kết luận đối với một số vấn đề thuộc về
quan điểm kinh tế:
a) Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc.
b) Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
c) Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung
tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá tiền tệ, dứt khoát xố bỏ cơ chế tập trung quan liêu, baơ cấp;
chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực
hiện cơ chế một giá4.
4 Báo cáo tống kết m ột sô' vân d ẻ lý luận thực tiền qua 20 năm đổi mới ( Il^86 2006). Nxh. Chính trị Quốc gia. H. 2005. tr. 39, 46. 48.

10



Tất cả những đột phá đó dẫn đến Đại hội VI của Đảng
(12-'; 986) đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đưa ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đưa đất nước đi vào
đúng quĩ đạo của sự phát triển tạo nên những tiến bộ rõ rệt
trong đời sống và nền kinh tế của cả nước. Sự đổi mới toàn
diện và đúng hướng ấy được khẳng định ở Cương lĩnh (năm
1991): “ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hưởng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nưóc”5 và khái niệm “kinh tế thị
trường” chính thức được văn kiện Đại hội IX đưa ra khẳng
định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mơ hình kinh tế tổng qt của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở
nước ta. Đây là một sự thay đổi đúng đắn và hợp với quy luật
phát triển. Chính vì vậy mà nó đã đưa đến những kết quả đáng
kể mà ta thấy như: “Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt
7,5% một năm. Cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch
tích cực theo hướng cơng nghiệp hố hiện đại hố. Tỷ trọng
cơng nghiệp và xây dựng trong GDP năm 1988 chiếm 21,6%
đến năm 2005 tăng lên 41%; tỷ trọng nông nghiệp năm 1988
chiếm 46,3% đến năm 2005 còn 20,5%, tỷ trọng dịch vụ năm
1988 chiếm 33,1% đến năm 2005 tăng lên 38,5%. Năm 1988
còn phải nhập hơn 60 vạn tấn lương thực, mà năm 1989 đã
xuất khẩu được hơn 1 triệu tấn gạo và đến năm 2005 xuất
khẩu 4,2 triêu tấn gạo. Thu nhập bình quân đầu người năm
1990 là 200USD tăng lên 600USD năm 20056.
5- h N guyẻn Phú Trọng, Công cuộc dổi m ới: Nhìn lại d ể tiếp tục tiến lên, Nhân
dân 1 2 /1 0 /2 0 0 5 , số 18329, tr.3.



Trình bày tất cả những vấn đề đường lối trên đây, ehún£
tơi muốn chứng minh rằng để đi đến nhìn nhận nền kinh tế thị
trường trong giai đoạn vừa qua ở nước ta là cả m ột bước
đường gian nan, vất vả. Đ ó cũng là điều dễ hiểu khi m à chúng
ta đang từ một thế giới hoàn toàn khác chuyển qua thế giới
mới mẻ này vừa chưa có kinh nghiệm, vừa chưa hiểu biết bao
nhiêu. Do đó khơng thể tránh khỏi những bỡ ngỡ, sai lầm, thất
bại. Hơn thế nữa, sự thay đổi về kinh tế đã tác động đến tồn
xã hội ở mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh trong đời sống của con
người, trong đó có văn hố. Vì thế, ở cơng trình này chúng tơi
muốn xem xét sự tác động của kinh tế thị trường đến một khía
cạnh hết sức nhạy cảm của văn hố, đó là lễ hội tín ngưỡng
trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Bằng những nghiên cứu
trên thực địa, chúng tôi sẽ xem xét sự tác động của kinh tế thị
trường đối với lễ hội tín ngưỡng. Sự tác động ấy đã đem lại
những mặt tích cực và hạn chế ra sao đối với các lễ hội này?
Sự tác động'ấy có ý nghĩa thế nào trong cuộc sống của mỗi
con người hiện đại, cũng như có vai trị gì trong việc xây dựng
đời sống văn hoá ở cơ sở hiện nay v.v... Trên cơ sở đó, cơng
trình cũng thử nhìn nhận từ nhiều góc độ vai trị của các tổ
chức xã hội, chính quyền, các tầng lớp xã hội có liên quan đến
các lễ hội tín ngưỡng hiện nay. Từ đó có thể góp thêm một
cách nhìn, một tiếng nói và có thể những gợi ý cho các nhà
quản lý trong việc xử lý, ứng xử với các lễ hội ấy trong hiện
tại và tương lai. Đó là tồn bộ ý đồ mà cơng trình của chúng
tơi có tham vọng đạt được.

12



CHƯƠNG 1
MỘT
• SỐ VẤN ĐÊ CỦA LỄ HỘI
■ TÍN NGƯỠNG
TRONG NÉN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


I - PHẠM VI VÀ MỤC ĐÍCH CỦA CƠNG TRÌNH

Do điều kiện nghiên cứu cũng như khả năng của bản
thân, chúng tơi khơnc có tham vọng nghiên cứu tồn bộ các lễ
hội tín ngưỡrm đang diễn ra tronc cả nước. Vì thế địa bàn
nghiên cứu mà chúng tôi lựa chọn là hai khu vực cư trú của
người Việt ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Cách làm của chúng tơi là
lựa chọn hai trường hợp điển hình là lẽ hội Bà Chúa Kho ở
Bắc Bộ và lễ hội Bà Chúa Xứ ớ Nam Bộ.
Tại sao chúng tôi lại chọn hai lễ hội này mà không phải
là những lễ hội khác. Điều này được giải thích bởi những
nguyên nhân sau đây;
a) Đây là hai lễ hội có khá nhiều tiếng tăm trong thời
gian qua. Có rất nhiều ý kiến khác nhau về nó, là đề tài mà
báo chí trong suốt một thời gian dài quan tâm đến, chủ yếu ở
khía cạnh phê phán, chỉ trích.
b) Từ chỗ bị báo chí để ý tói nên các cấp chính quyền
của địa phương cũng phải quan tâm, lo lắng. Một phần họ sợ
13


báo chí phê phán, phần khác lo cấp trên nhắc nhở nên chính
quyền các địa phương này đã có lúc dùng những biện pháp

hành chính để dẹp bỏ. Tuy khơng dẹp được nhưng đã có lúc
sự nhiệt tình dẹp bỏ này được sử dụng khá triệt để. Điều đó
cũng phản ánh phần nào tư duy nhận thức trong quản lý văn
hóa chung của cả nước ta: từ chỗ cấm đốn, dẹp bỏ đến nương
nhẹ, lờ đi, để tồn tại trong một xu thế thay đổi của tình hình
xã hội.
c) Hai lễ hội ở hai đầu của đất nước nhưng lại khá giống
nhau về nhiều phương diện, mà đặc biệt nhất là sự biến
chuyển của hai vị thần được thờ từ tín ngưỡng nơng nghiệp
thành vị thần của thương nghiệp.
d) Hai cách tổ chức khác nhau của một hiện tượng lể hội
gần giống nhau, tuy ở những qui mô khác nhau, cấp độ khác
nhau nhưng mục đích và kết quả lại có nhiều điểm giống nhau
như vấn đề xã hội hóa văn hoá, kinh tế vãn hoá, du lịch văn
hoá v.v...
Từ hai lễ hội cụ thể, chúng tơi thử nhìn nhận sự phát
triển của nó trong q trình chuyển đổi của đất nước. Từ đó
phần nào cũng tìm hiểu sự phát triển chung của các lễ hội
tương tự ở Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, với tất cả
những mặt mạnh, mặt yếu của nó. Trong q trình nghiên
cứu, chúng tôi cũng cố gắng so sánh hai trường hợp cụ thể
này với các lễ hội khác trong chừng mực tư liệu đã in ấn và
tài liệu điền dã của chúng tôi. Ngõ hầu để thấy được những
nét chung cũng như riêng của những hiện tượng văn hoá
14


khá: nhau trong điều kiện kinh tc chính trị xã hội mà nó
đarg tồn tại.

Tài liệu phục vụ cho cơng trình này chủ yếu là tài liệu
thự: địa được chúng tơi thực hiện trong hai năm vừa qua.
Đưíng nhicn, nhũnu tài liệu đã có ne bố của các tác giả đi trước
li là nquồn lư liệu q báu mà chúng tơi phải tìm hiểu và
than khảo. Mối quan tâm chính của cơng trình là xem xét hiện
tưẹng văn hố cổ truyền đã và đanẹ tồn tại trong đời sốns xã
hộ đươim đại như thế nào? Sự tồn tại của nó đã góp phần vào
cuóc sống hiện nay ra sao đối với những con người và cộng
đồig tham gia trực tiếp vào nó? Từ đó thử tìm hiểu xem tác
độig của nó như thế nào đối với sự phát triển ở nhữnc địa
phương đó nói rièng và xu thế phát triển của cả nước nói chung.
II - M Ộ T SỐ QUI ƯỚC VỂ KHÁI NIỆM

Đổ thống nhất cách hiểu tron 2, q trình nghiên cứu,
chúng tơi xin dừng lụi ở một số khái niệm như nhữnq công cụ
làm việc. Điều này hồn tồn mang tính chất qui ước riêng
cho cơng trình chứ khơn? có tham vọng tìm ra một khái niệm
hay một thuật ngữ khoa học mới.

I. Lễ hội tín ngưỡng
Trước hết nói về Ihuật ngữ Lễ hội. Cho đến nay các nhà
nghiên cứu vẫn chưa có một sự ihống nhất trong việc sử dụng
khái niệm này. Tùy theo góc độ tiếp cận và quan điểm nhìn
nhận mà mỗi người có cách sử dụng riêng. Cơng trinh này
khơng chú trọng vào việc xein xct các khái niệm ấy, cho nên
chúng tơi chỉ xin điểm lại những nét chính.
15


Các nhà nghiên cứu từ những năm 90 của thế kỷ 20 trở

về trước thường dùng thuật ngữ hội, hội lễ. Điều này phù hợp
với cách gọi của dân gian. Người dân ở các làng quê xưa
thường gọi đi hội, chơi hội. Làng có hội thì người ta thường
nói làng m ở hội, vào đám. Từ năm 1938 học giả Nguyễn Văn
H uyên1 khi viết về hiện tượng văn hoá này bằng tiếng Pháp
ông cũng dùng như vậy, dù rằng ỉừ /ềte tiếng Pháp chắc chắn
không trùng nghĩa với từ hội trong tiếng Việt. Bởi vì cũng như
các t ừ /estiva l trong tiếng Anh, Praidnic trong tiếng Nga và
Slavơ, thì fête chỉ có nghĩa là hội thuần t theo kiểu vui vẻ,
chứ không bao hàm ý nghĩa nghi lễ như trong từ hội của tiếng
Việt khi dùng để chỉ các lễ hội dân gian.
Toan Ánh là người sử dụng thuật ngữ hội hè đình đám
khá triệt để. Trong hai cuốn sách do ông xuất bản năm 1960
và 1974 ở Sài Gịn trong bộ “Nếp cũ” của mình ơng đều dùng
thuật ngữ này, nhưng khi gọi vắn tắt thì ơng chỉ gọi là hội,
Theo ơng: “Trong hội thưịng có nhiều trị vui gọi là bách hí.
Tuy nhiên, để dân chúng mua vui, nhưng mục đích của hội hè
đình đám khơng phải chỉ có thế, và mua vui cho dân chúng
cũng khơng phải mục đích đầu tiên của hội hè. Có thể nói
được rằng mục đích đầu tiên của hội hè đình đám là để dân
làng bày tỏ lịng thành kính và biết ơn đối với Đức Thành
Hoàng, Thần linh coi sóc che chở cho dân làng”2.
1 Nguyễn Văn Huyên, Les Ịêtes de Phù Đ ổng (une bataille céleste dans la
tradiĩion annarnỉte), XXXIV* Cahier de la s,cde Geographie de Hà N ội, 1938.
2 Toan Ánh, N ếp cũ - hội hè đình đám (Quyển hạ). Nxb. Tp Hổ Chí Minh,
1992, tr. 11.

16



Giáo sư Đ inh Gia Khánh, người trung thành với quan
điển văn hoá dân gian là một chỉnh thể nguyên hợp và dày
cơm khám phá tính thẩm mĩ của nó, thì dùng thuật ngữ “/ỉội
lễ cân gian, thời điểm mạnh trong đời sống của cộng đổng”.
Thto ông: “ Danh từ hội lễ nên được dùng như một thuật ngữ
vănhố. Có Ihể sơ bộ xác định ý nghĩa của thuật ngữ này theo
hai thành tố là hội và lễ. Hội là tập hợp đông rmười trong một
sinh hoạt cộng đổng. L ễ là các nghi thức đặc thù gắn với sinh
hoít ấy”3. Trong suốt cuộc đời nghiên cứu của mình ơng đã
hết sức dày cơng tìm hiểu và klìẳnc định tính thẩm mĩ trong
các hiện tượng văn hóa dân gian Việt Nam. Một tác giả cùng
thòi khác đã triển khai quan điểm chỉnh thể nguyên hợp của
văr hóa dân gian rất thành công là nhà nghiên cứu Caơ Huy
Đỉnh với tác phẩm “ Người anh hùng làng Dóng”4. Trơng tác
phim này, tác giả Cao Huy Đính cũng dùng thuật ngữ hội để
chi lễ hội Dóng. Đây có lẽ là tác phẩm đầu tiên ở Việt Nam
nghiên cứu một hiện tượng văn hố dàn gian trong mối quan
hệ với nghệ thuật trình diễn (perfomance), một phương pháp
nghiên cứu đã gặt hái nhiều thành công ở Phương Tây.
Từ những năm 90 của thế kỷ 20 đến nay, xu thế sử dụng
thuật ngừ lễ hội được phổ biến hơn. Có thể nói chính thức bắt
đầu bằng cơng trình lễ hội cổ truyền Việt Nam của Viện
Nghiên cứu vãn hóa dân gian do tác giả Lè Trung Vũ chủ biên
cùng các tác giả khác là Phan Đăng Nhật, Ngơ Đức Thịnh,
Nguyễn Xn Kính, Lê Vãn Kỳ và các cộng tác viên. Công
3 Đinh Gia Khánh, Trên đường tìm lìiểu vân hóa dân gian. Nxh KHXH. H 1989,
tr. 172.
4 Cao Huy Đính. Người anh hùng lừng Dóng Nxb KHXH, H. 1969



trình như một sự xác nhận chính thức của Viện Nghiên cứu
vãn hoá dân gian về một thành tố văn hoá dân gian cũng như
một bộ phận nghiên cứu quan trọng của Viện5. Cũng cần phải
nói rằng, trước đó cũng đã có một số người sử dụng thuật ngữ
lễ hội trong các bài viết của mình nhưng cịn rải rác. Có một
cơng trình xuất bản vào năm 1984 của hai tác giả Thu Linh và
Đặng Văn Lung6 cũns đã sử dụng thuật ngữ này, song có thể
nói mục đích của các tác giả này khác so với các nhà nghiên
cứu ở Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian và các nơi khác. Từ
nhữns; kinh nghiệm và kiến thức tiếp thu của hoạt động văn
hố quần chúng ở Liên Xơ phổ biến tại nước ta trong thời kỳ
đó, hai tác giả này đã áp dụng vào lễ hội cổ truyền Việt Nam
để tách bạch phần lễ và phần hội với những “hành động hội”,
“kịch bản hội” theo mơ hình của các lẻ hội quần chúng được
giảng dạy ở các trường Đại học văn hóa thuộc Liên Xơ (cũ).
Cách nhìn nhận như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đối với giới
hoạt động văn hoá một thời gian dài cho đến tận bây giờ. Nó
khác với quan niệm lễ hội với ý nghĩa là một chỉnh thể nguyên
hợp, đan quện vào nhau trong lễ có hội, trong hội có lễ với “ý
nghĩa lớn lao của lễ hội ỉà nhầm “đưa quá khứ hội nhập vào
hiện tại, qui tụ toàn bộ năng lượng của vũ trụ, của không gian
và thời gian đậm đặc năng lượng thiêng mà con người đi dự
hội C.Ó nguyện vọng tắm mình trong đó, để sau đó họ là một
con người khác đáp ứng cho năm mới, mùa mới”7.
' Lè Trung Vũ (chủ biên), L ề hội c ổ truyền. Nxb. KHXH, H. 1992.
6 Thu Linh - Đặng Vãn Lung, L ễ hội - truyền tliống và hiện đại. Nxb. Văn hóa,
H. 1984
7 Tơ N gọc Thanh, Di sừn văn hoá trung cơ c h ế thị trường, Nguồn sáng dân gian,
số 3-2003, tr. 6.


18


Đúng như giáo sư Trần Quốc Vượng viết: “ Lễ hội gồm
hai phán vừa tách rời vừa không tách rời nhau: Lễ (nghi lễ
cúng Thần, Thánh, Phật, Mẫu...) và Hội (tụ hội của dân một
làng hay liên làng (vùn?)”8. “Trên thực tế và về lý thuyết Lễ Hội xoắn xuýt hữu cơ vào nhau, khơng thể tách rời”. Do đó
nếu khơng xcm xét lễ hội ở góc độ đó sẽ rất dễ làm thơ thiển
nó và mất đi những ý nghĩa đích thực của nó. Phải chăng việc
dùng thuật ngữ lễ hội của các nhà nghiên cứu chính là muốn
nhấn đến ý nchĩa thiêng liêng của lễ hội cổ truyền của nhân
dân ta trong quá khứ, khi mà trong rất nhiều trò chơi của các
lễ hội ấy cũng nhuốm màu thiêng liêng một cách có ý thức
của nhữníĩ ncười tổ chức. Điều này có thể nói hồn tồn có sự
thốnc nhất của cả những người dùng thuật ngữ hội / / v à những
người dùng lễ hội. Dù rằng, ở mỗi cách dùnẹ đều có các độ
nhấn khác nhau nhưng họ đều muốn khẳng định cách dùng
của mình là đúng thậm chí đã có lúc cuộc tranh luận bất phân
thắng bại. Đó là khi Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn
tổ chức hội thảo khoa học quốc tế tại Hà Nội với chủ đổ “Lễ
hội truyền thống trong đời sốnơ xã hội hiện đại” từ ngày 8 đến
13 tháng 3 năm 1993. Cuộc tranh luận diễn ra trong buổi họp
trù bị giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam để thống nhất một số
vấn đề thuật ngữ và quan điểm. Khi đó một nhà nghiên cứu
đùa rằng: để vừa lịng cả hai phái hội lễ và lé hội tơi đề nghị
đặt tcn là Le Hoi theo kiểu tiếng Pháp. Cuối cùng thì Hội thảo
K Trần Quốc Vượng, Mùa xuân và lề hội Việt N am , Xưa và nay, số 3-1994, tr. 9.
Trần Quốc Vượng. L ễ hội bàn sác và vân lioá các vùng quê Việt Nam. Diễn
đàn văn nghệ Việt Nam. sỗ 3-2002, tr. 31.


19


cũng thành cơng tốt đẹp và kết quả của nó là một tập kỷ yếu
ra đời vào năm 19949.
Qua tìm hiểu của chúng tôi ý kiến của các nhà nghiên
cứu về tên gọi có thể khác nhau tùy thuộc vào sự nhấn vào lễ
hay hội, nhưng về cơ bản nội dung thì gần như thống nhất với
nhau. Đó là lễ hội bao hàm cả lỗ và hội, hai phần này gắn bó
chặt chẽ với nhau, đan quện vào nhau. Tách bạch ra để nghiên
cứu, xem xét nhưng luôn luôn phải đặt nó là một chỉnh thể.
Đặc biệt là trorm quá khứ, hầu hết tất cả nhữrm hoạt động
trong phần hội đều chứa đựng những niềm tin, những phong
tục nhằm đạt được những ước vọng, khao khát và niềm tin mà
ở phần ỉễ được thực hiện bằng các nghi lễ hết sức trang
nghiêm, thành kính. Để cuối cùng đạt được mục đích của lễ
hội đó là tính thiêng liêng, cao cả của niềm tin mà mỗi cá
nhân, cộng đồng gửi gắm vào đó. Tuy nhiên, cũng cần phải
cơng nhận rằng, trong q trình phát triển của xã hội, khá
nhiều trị chơi phong tục đã phai nhạt và dần chuyển thành
những trò giải trí thuần túy, kết hợp với các hoạt động vãn hố
văn nghệ mới nên làm cho phần hội có vẻ bị tách biệt ra khỏi
phần lễ. Song một điều rõ ràng là cái còn bảo lưu được của lễ
hội cổ truyền và vẫn luôn thu hút được người hiện đại đến dự,
chính là tính thiêng của các nghi lễ tại các đền, chùa, đình,
miếu nơi diễn ra lễ hội ấy. Đó là hạt nhân căn bản nhất mà
chúng ta cần phát huy.
9 Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên), L ề lìơĩ truyền thống trong dời sổng
x ã hội hiện đại. Nxb KHXH, H. 1994.


20


Thuật ngữ mà chúng tơi sử dụng trong cơng trình này là

lễ hội và chúng tôi cũng đổng ý rằng việc gọi phần lễ và phần
hội chi có tính chất để nghiên cứu hay tổ chức, còn thực tế lễ
hội là một chỉnh thc nguyên hợp. Cũng như vậy, chúng tôi cho
rằng xu thế biến đổi của lễ hội qua mỗi thời đại là sự tất yếu,
nhất là trong điều kiện hiện nay, bên cạnh rất nhiều phong tục
được tchôi phục thì tính du lịch của hội hè càng ngày càng
tăng; đó là chưa kể đến vai trị kinh tế mà các lễ hội ấy đem
lại. Gần đây, giáo sư Kiều Thu Hoạch (dưới bút danh Kiều
Thạch) đã công bố một bài tổng thuật rất đặc sắc về lễ hội ở
Đ ơ n g Á cho thấy tình hình cũng tương tự. “ Các nhà íolklore
H;àn - Nhật - Trung đều có cùng nhận xét rằng, mặc dầu hội
x u ấ t phát từ lễ, song càng về giai đoạn muộn thì lễ hội càng
n h ạ t nhịa hạt nhân tín ngưỡng, mà yếu tố “vui thần, vui
người'’ ngày càng có xu thế phát triển phong phú, đa dạng hơn
đ ể hịa nhịp với nhu cầu văn hóa - xã hội của thời đại” 10. Theo
ô n g cho biết ba yếu lố được xem như một chỉnh thể cấu thành
lễ hội đổng thời thực hiện ba chức năng lớn của lễ hội, đó là:
1 - Chức năng tín ngưỡng: Mọi người dự hội được an ủi
timh thần, thỏa mãn tâm linh cầu người an, vật thịnh...
2 - Chức năng mua vui: Cơng chúng được hưởng thụ văn
hcố nghệ thuật, được thỏa mãn sức hoan tiếu cuồng nhiệt...
3 - Chức nâng kinh tế: Lễ hội là nơi thu hút hoạt động
giiao thương, trao đổi hàng hóa, sản vật địa phương, xúc tiến
giiao lưu hàng hóa giữa các địa phương, các thôn làng với các
10 K iểi Thạch, L é hội nliìn từ triết thuyết Folklore Đ ơng Á, Vãn hóa nghệ thuật,

.-số 6 ,2 0 0 5 , tr. 23.

21


thị trấn, làm phồn vinh kinh tế thành thị. Cần hiểu thêm rằng,
chợ hội / hội chợ lúc nguyên sơ chỉ đơn giản như một dịch vụ
để phục vụ thiện nam tín nữ, thí chủ mười phương, nơng dân
thơn q tới thành thị dự lề hội tiện mua đồ ãn thức uống, mua
sắm những vật dụng cần thiết, rẻ tiền” 11.
Đối với các nước châu Âu, khi nói về các lễ hội truyền
thống ở nước ta các nhà nghiên cứu thường kèm theo một tính
từ thuộc tính bên cạnh danh từ hội ựestivaì). Thực ra từ

/ 'estival (tiếng Anh), fête (tiếng Pháp), Prazdnic (tiếng Nga
hay khối ngơn ngữ Slavơ) có nghĩa là một cuộc liên hoan, hội
họp vui vẻ. Cái m à ngày nay ta thường dùng để chỉ liên hoan
tiếng hát truyền hình, liên hoan sinh viên thanh niên thế giới...
Vì thế khi dịch từ lễ hội (với nghĩa là lễ hội truyền thống) của
chúng ta mà dùng íestival nhiều khi sẽ gây ra sự lầm lẫn về
nội dung và ý nghĩa của hiện tượng này. Ngược lại khi chuyển
sang tiếng Việt cũng gây ra sự hiểu biết không đầy đủ với
nhiều người, nhất là ngoài giới nghiên cứu chun mơn. Nó
làm mất đi tính nghi lễ, tính thiêng liêng của các lễ hội cổ
truyền đã và đang tồn tại ở nước ta. Do vậy, ngay cả các nhà
nghiên cứu châu Âu khi nói đến hiện tượng văn hóa này ở
chúng ta thường kèm theo các từ như Ritual ceremony hay
Religion íestival (lễ hội tơn giáo, lễ hội (mang tính) nghi lễ, lễ
hội phong tục). Chẳng hạn như một ngưòi Pháp được nhiều
người nghiên cứu lễ hội Việt Nam trích dẫn, đó là Gustave

Dumoutier trong tiểu luận nghiên cứu về hội Dóng ở nước ta

" Kiều Thạch, L ễ hội nhìn lừ triết thuyết Folklore Đ ơng Á, Vãn hóa nghệ thuật,
số 6, 2005, tr. 23

22


đã gọi nó là “ một lễ hội tơn ỹ á o Annam” 12. Theo quan sát của
chúng tôi đây là cách Jihìn nhận khá phổ biến trong giới học
giả phương Tây. Một bằng chứng gần đây nhất là chuyên đề
hội thảo thường niên Cập nhật Việt Nam 2005: “Không chỉ là
miếng cơm manh áo, mà hình như cịn có cả chuyện tâm linh
trong kỷ nguyên đổi mới ở Việt Nam” 13. Troníĩ hai ngày 11 và
12 tháng 8 năm 2005 tại Đại học Tổng hợp quốc gia Canbera,
các nhà nghiên cứu bàn bạc sôi nổi đến các hiện tượng tín
ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam hiện nay mà khơng hề có sự
tách bạch tín ngưỡng với tơn giáo. Hay nói như GS. Đặng
Nghiêm Vạn: “Tín ngưỡng chỉ niềm tin tơn giáo. Nhưng phổ
biến một quan niệm coi tín ngưỡng là một cái gì thấp hơn tơn
giáo... Vậy nên, thuật ngữ tín ngưỡng được hiểu một cách
thơng thường như hiện nay cần được xem lại, vì nó bao hàm
trong cả những hành vi, những nghi thức tôn giáo, các lễ hội
trong đó có cả hành vi thế tục. Thuật ngữ tín ngưỡng dân gian
càng cần được bàn lại” 14.
Ở cơng trình này, chúng tơi khơng dám bàn sâu vào vấn
đề ấy, đó là cả một sự phức tạp địi hỏi có sự nghiên cứu lâu
dài của các nhà chun mơn. Nó địi hỏi ngồi trình độ hiểu
biết là thời gian, công sức, sự tập hợp và khái quát tư liệu thực
đị;a trên địa bàn Việt Nam, trên cơ sở tham khảo của thế giới.

T ừ đó mới có thể đưa ra những nhận định mang tính thuyết
G.Dumoutier Une fê te reỉigiense annam ite à Phù Dổng, Revue d ’histoire dé
religions — N. l , t . XXVIII. (Juin — Aout 1893), Paris, 1893.
13 Vietnam Ưpdate 2005 — N ot b y Rice Aỉone Making Sence o f Spirituaìity in
ReỊonn-era Vietnam 11-12 Ausgust, ANU — Australia.
14 Đặng Nghicm Vạn (chủ biên) V ề tơn giáo tín ngưởng Việt Nam hiện nay. Nxb
KHXH, H. 1996, tr. 23.

23


phục. Cịn ở đây, khi dùng lễ hội tín ngưỡng chúng tôi coi như
một qui ước để làm việc trên thực tiễn.

L ễ hội tín ngưỡng mà chúng tơi quan niệm ở đày là
những lễ hội mà trong đó những người đi lễ thể hiện những
tín ngưỡng rất đa dạng của mình để cầu mong, để bày tỏ
những nguyện vọng hết sức thực tiễn nhằm phục vụ cho cuộc
sống của họ. Chính tính thực tiễn trong nguyện vọng của
những người đi lễ đã tạo ra sự thay đổi trong những giai đoạn
nhất định khi đời sống xã hội thay đổi. Chẳng hạn, khi sống
trong một xã hội nông nghiệp thuần túy với những mất mùa,
nắng hạn và lụt bão, bệnh dịch thì người ta cầu nước, cầu
được mùa, cầu khơ tạnh và sinh sôi nảy nở đầy đàn cho cả
con người và gia súc. Nhưng khi xã hội phát triển như hiện
nay, người ta lại có những nguyện vọng khác phù hợp với thời
đại họ đang sống.
Gọi là ìễ hội tín ngưỡỉĩg, chúng tơi cũng muốn tách
những lễ hội tơn giáo thuần túy của Thiên chúa giáo, Phật
giáo, Cao đài, Hòa hảo... như Giáng sinh, Phật đản v.v... Dù

rằng, thực tế ở Việt Nam cho thấy ngay cả trong một số lễ hội
tơn giáo, đặc biệt là Phật giáo thì vẫn có nhiều hình thức của
tín ngưỡng dân gian được chứa đựng trong đó. Đó có lẽ cũng
là những nét riêng của Phật giáo Việt Nam. Những cuộc hành
hương hội chùa như chùa Hương, chùa Thầy, Yên Tử... bên
cạnh việc cầu mong sự phù hộ của Phật thì người hành hương
còn lễ bái, cầu cúng ở nhiều nơi khác trong khu vực chùa, với
đủ loại nguyên vọng, mục đích khác nhau.
24


Cũng như vậy đối với mảng lễ hội tín ngưỡng liên quan
đến những anh hùng lịch sử có thật như Trần Hưng Đạo, Lý
Thường Kiệt, Phùng Hưng, Hai Bà Trưng v.v... hay những anh
hùng truyền thuyết đã được lịch sử hóa và được chấp nhận như
những nhân vật lịch sử của dân tộc như Thánh Dóng, vua
Hùng... khơng phải là những lễ hội thuộc phạm vi xem xét của
đề iài. Mặc dù, tín ngưỡng thờ các nhân vật lịch sử ở nước ta
là một tín ngưỡng rất phổ biến và lễ hội tôn vinh họ đều là
những lễ hội nổi tiếng trong cả nước. Trong q trình triển
khai, chúng tơi cũng khơng bỏ qua nếu có những cơ hội xem
xét, so sánh.
Đương nhiên việc tách bạch ra như vậy chỉ để cơng trình
tập trung vào mảng tín ngưỡng đa thần mà cụ thể ở đây là các
vị nữ thần chúng tơi chọn làm trường hợp nghiên cứu. Hơn
thế, cơng trình cũng khơng tập trung vào nghiên cứu tín
ngưỡng thờ các vị thần đó là chính, mà xem xét sự tác động
của nền kinh tế thị trường hiện nay vào việc thờ cúng họ như
th ế nào. Sự thờ cúng họ, các nghi lễ thực hiện trong lễ hội về
họ giải quyết những vấn đề gì và dẫn đến cái gì trong cuộc

sống hiện nay. Đó là mục đích cao nhất mà cơng trình đặt ra.
Ở góc độ nào đó, những lễ hội tín ngưỡng này là bối cảnh để
chúng tơi tiến hành những nghiên cứu của mình. Bởi vì thực
tiễn lễ hội hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề xung quanh các
hiện tượng văn hoá cần được xem xét, phân tích một cách kỹ
lưỡng. Từ đó, một măt để chúng ta hiểu biết, cập nhật được
tìnih hình, nắm bắt được xu thế xã hội, mặt khác có thể giúp
chio các nhà quản lý có những ứng xử thích hợp với các hiện
tượng vãn hoá nảy sinh.
25


×