Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Yếu tố giao văn hóa trong giảng dạy ngoại ngữ cho sinh viên ngành du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.36 KB, 6 trang )

YẾU TỐ GIAO VĂN HÓA TRONG GIẢNG DẠY NGOẠI NGỮ
CHO SINH VIÊN NGÀNH DU LỊCH
Phạm Thị Huyền Trang(*)
CROSS-CULTURAL FACTORS IN FOREIGN LANGUAGES TEACHING FOR
STUDENTS OF TOURISM MAJOR
Abstract
In this article, we are going to discuss issues in the field of foreign language teaching
for students as future tourist guides, how to develop their listening and speaking skills. The
main contents of the speech include: 1. An overview of the culture, cross-culture; 2. Role of
Cross / Inter- Culture in foreign language teaching; 3. The method of teaching foreign
languages integrated with cross-cultural factors; 4. Experiences taken from foreign
language teaching combined with the elements of cross/inter culturalfactors in Sao Đỏ
University.
*
Đặt vấn đề
Trong xã hội toàn cầu hóa, con người đến từ mọi miền đất nước, với các nền văn hóa
khác nhau ln có nhu cầu giao tiếp theo một cách chung để cùng tiến tới sự phát triển. Vấn
đề ngôn ngữ đã được giải quyết khi tiếng Anh được cơng nhận là ngơn ngữ tồn cầu. Tuy
nhiên, sự hiểu biết về văn hóa lại đóng một vai trò quan trọng, quyết định đến việc truyền đạt
ý nghĩa trong giao tiếp. Chính vì vậy, văn hóa được coi là một lĩnh vực cần thiết trong giáo
dục, đặc biệt là giáo dục ngôn ngữ. Nhà ngôn ngữ học Winston Breambeck đã nói rằng: “biết
một ngơn ngữ nào đó mà khơng hiểu văn hóa của họ thì chính là cách tốt nhất để biến mình
thành một kẻ ngốc nói ngoại ngữ trôi chảy.” Ngược lại, ngôn ngữ cũng trợ giúp cho văn hóa
được chuyển tải dễ dàng và phát triển đa dạng, phong phú hơn. Do đó, có lẽ nào chúng ta chỉ
học cách sử dụng ngôn ngữ mà bỏ qua văn hóa? Mỗi con người sinh ra đều thừa hưởng tiếng
mẹ đẻ và nền văn hóa của dân tộc mình. Để sống đầy đủ ý nghĩa với tài sản đó, con người có
khi phải mất cả cuộc đời. Vậy mà khi làn sóng hội nhập kéo đến, con người đứng trước lựa
chọn: bảo thủ, bế quan hay hòa nhập; làm sao để hịa nhập mà khơng hịa tan? Văn hóa và
ngơn ngữ khơng đứng ngồi đại cục đó. Có lẽ câu trả lời thơng minh chính là hãy hiểu biết
sâu sắc bản sắc văn hóa – ngơn ngữ, tỉnh táo nhìn nhận các điểm riêng biệt, các điểm giao
thoa, vừa kiên quyết gìn giữ nét riêng, vừa khéo léo chọn lựa, lĩnh hội và tiếp thu nét mới để


hòa nhập và phát triển.
Trong phạm vi báo cáo, vấn đề này sẽ được thảo luận sâu rộng hơn ở lĩnh vực giáo
dục ngoại ngữ cho sinh viên chuyên ngành hướng dẫn du lịch nhằm phát triển kỹ năng nghe,
nói. Nội dung chính của báo cáo bao gồm: 1. Khái qt về văn hóa, giao văn hóa; 2. Vài trị
của giao văn hóa trong giảng dạy ngoại ngữ; 3. Phương pháp giảng dạy ngoại ngữ có lồng
ghép các yếu tố giao văn hóa; 4. Thực tế dạy học ngoại ngữ kết hợp các yếu tố giao văn hóa
cho sinh viên chuyên ngành Việt Nam học, đại học Sao Đỏ.
1. Khái quát về văn hóa, giao văn hóa
Văn hóa được xem như niềm tin chung và cách ứng xử chung được quy ước trong xã
hội. Tuy vậy, không phải tất cả cơng dân trong một nền văn hóa sẽ suy nghĩ và hành xử hồn
tồn giống nhau. Mỗi người có cách định nghĩa văn hóa cho riêng mình.
(*)

Khoa Du lịch & Ngoại ngữ - Đại học Sao Đỏ.


Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về
tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập
quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành
viên của xã hội” Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả
những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo
đức, pháp luật… Có người ví, định nghĩa này mang tính “bách khoa tồn thư” vì đã liệt kê hết
mọi lĩnh vực sáng tạo của con người.
Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” Với cách hiểu này, văn hóa sẽ
bao gồm tồn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa
của Tylor, văn hóa theo cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những
lĩnh vực liên quan đến đời sống con người.

Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú
và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con
người trong suốt q trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa)
bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng,
sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng
đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và khơng ngừng lớn mạnh”. Theo
định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo
nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngồi
khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm
1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo
nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật
chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng,
vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa khơng chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn
cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống,
tín ngưỡng…”; cịn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng
(ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù
riêng” …
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề cập
đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Như định nghĩa của
Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập hợp những thành tựu mà con người đạt
được trong quá trình tồn tại và phát triển, từ tri thức, tôn giáo, đạo đức, ngơn ngữ,… đến âm
nhạc, pháp luật… Cịn định nghĩa của tổ chức UNESCO… thì xem tất cả những lĩnh vực đạt
được của con người trong cuộc sống là văn hóa.
Người viết dựa trên các định nghĩa đã nêu để xác định cho mình một khái niệm văn
hóa phù hợp với nội dung nghiên cứu có liên quan đến ngơn ngữ và giao tiếp. Văn hóa được
hiểu là những giá trị biểu hiện như trang phục, ngôn ngữ, ẩm thực… và những giá trị ẩn như
niềm tin, chuẩn mực đạo đức, tư duy, và thái độ của một cộng đồng trong xã hội mà ở đó, các
yếu tố giao thoa văn hóa chủ yếu nằm trong những khía cạnh ẩn, trừu tượng, tạo ra rào cản
trong giao tiếp.

Vậy, giao văn hóa là gì và các yếu tố giao văn hóa nào có tác động đến việc học ngoại
ngữ nói chung? Theo Kramsch, 1998, “giao văn hóa được hiểu là sự “gặp gỡ” của hai nền
văn hóa hoặc ngơn ngữ đến từ hai quốc gia có biên giới lãnh thổ.” Richards, 1985 cho rằng:
“giao tiếp giao văn hóa là sự trao đổi ý kiến, thông tin… giữa những người đến từ các nền
văn hóa khác nhau… Khi đó, mỗi người sẽ diễn giải thông tin theo cách họ mong muốn dựa


trên vốn văn hóa sẵn có của mình. Nếu có sự hiểu nhầm về văn hóa, sự giao tiếp đó có thể
thất bại hồn tồn, đặc biệt trong các lĩnh vực như y tế, luật pháp, chính trị…”
2. Sự cần thiết phải dạy giao văn hóa trong lớp học ngoại ngữ
Có thể nói rằng việc học ngoại ngữ bao gồm nhiều yếu tố như hiểu biết ngữ pháp,
năng lực giao tiếp, cũng như thái độ và nhận thức đối với văn hóa bản ngữ và văn hóa nước
ngồi. Do đó, trong những năm gần đây, nhiều giáo viên ngoại ngữ đã nhận thức về tầm quan
trọng của các yếu tố văn hóa, giao văn hóa trong giảng dạy ngơn ngữ.
Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Seelye (1993) đã khẳng định: “Khi bạn có sinh viên để
dạy, hãy dạy họ về văn hóa”. Hơn nữa, theo thời gian, ngày càng nhiều giáo viên nhận thấy
rằng khi bài học có sự lồng ghép các yếu tố văn hóa, giao văn hóa thì sinh viên sẽ tiếp thu và
cải thiện tốt hơn về khả năng giao tiếp. Kramsch (1993) đã nhấn mạnh trong nghiên cứu của
mình rằng: “Văn hóa khơng phải là một kỹ năng thứ 5 trong giảng dạy ngôn ngữ, gắn liền với
nghe, nói, đọc, viết. Đó là nền tảng để chỉ ra sự giới hạn trong năng lực giao tiếp, thách thức
khả năng của người học và chỉ ra cho họ thấy ý nghĩa của thế giới”.
Bên cạnh đó, thực tế đã chỉ ra rằng kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ khơng chỉ địi
hỏi khả năng sử dụng ngơn ngữ thành thạo, đặc biệt trong nghe – nói, mà còn yêu cầu vốn
sống, sự hiểu biết nhất định về đặc thù văn hóa
Q trình giao tiếp bao gồm hai yếu tố: truyền thơng tin và phân tích thơng tin. Để
truyền thông tin, con người sử dụng ngôn ngữ với nhiều ký hiệu khác nhau. Tuy nhiên, để
phân tích thơng tin, ta cần giải mã các ký hiệu đó để đạt mục đích cuối cùng là hiểu thơng tin
theo đúng nghĩa nó được truyền đi. Cả hai q trình này đều liên quan đến văn hóa. Khi
người nghe khơng hiểu văn hóa của người nói thì người nghe sẽ giải mà thơng tin theo văn
hóa của chính anh ta. Nếu nội dung thông tin ở hai nền khác văn hóa được hiểu khác nhau,

q trình giao tiếp coi như thất bại. Ví dụ khi một người đàn ơng Mỹ muốn khen một cơ gái
đẹp, anh ta có thể nói: “You are so sexy!” Tuy nhiên, trong văn hóa Việt Nam, nếu ai đó nói
với một cơ gái rằng: “Em rất gợi cảm!” thì anh ta bị cho là khiếm nhã vì văn hóa truyền thống
Á Đơng ln coi trọng sự kín đáo, thanh cao của người phụ nữ.
Vì những lý do trên, tác giả có đồng quan điểm với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ khi
khẳng định rằng người học ngoại ngữ nhất thiết phải được học về văn hóa và giao văn hóa.
Theo đó, giáo viên cần lồng ghép các yếu tố văn hóa vào giờ học ngơn ngữ dựa trên các điểm
cơ bản sau: 1. Thái độ đối với các nền văn hóa, xã hội khác; 2. Sự tương tác của ngơn ngữ và
các hình thái xã hội; 3. Ý nghĩa biểu trưng của các khái niệm trong văn hóa; 4. Hành vi phổ
biến trong các tình huống thông thường; 5. Ý nghĩa hoặc chức năng của hành vi có điều kiện
văn hóa; 6. Đánh giá các quan điểm của một xã hội nào đó và nghiên cứu về các nền văn hóa
khác. Gaston, 1984 cho rằng khi người học nhận thức được những yếu tố giao văn hóa và có
khả năng để hiểu, sử dụng chúng trong giao tiếp thì khi đó, người học khơng chỉ mở rộng
kiến thức về các nền văn hóa khác mà cịn có cơ hội khắc sâu hơn về văn hóa của dân tộc
mình.
3. Các phương pháp dạy học kết hợp giao văn hóa
Trong thực tế, việc dạy học kết hợp các yếu tố giao văn hóa khơng phải là một vấn đề
đơn giản. Nhiều nhà giáo dục học, ngôn ngữ học đã dày cơng nghiên cứu để tìm ra các cách
tiếp cận văn hóa, giao văn hóa phù hợp nhất trong việc giảng dạy ngoại ngữ. Theo Risager
(1998), có bốn cách tiếp cận văn hóa: tiếp cận liên văn hóa, đa văn hóa, xun văn hóa và
văn hóa nước ngồi. Trong đó, cách tiếp cận liên văn hóa và đa văn hóa bao gồm các yếu tố
so sánh, đối chiếu; cách tiếp cận xun văn hóa thì coi văn hóa nước ngồi như là một văn
hóa quốc tế; cách tiếp cận cuối cùng chỉ tập trung vào văn hóa của đất nước có ngơn ngữ
được giảng dạy.


Năm 2004, nhà nghiên cứu Saluveer đã chỉ ra cách tiếp cận văn hóa khác tập trung
hơn vào phát triển cách kỹ năng của người học. Đó là cách tiếp cận dựa trên các chủ đề cơ
bản của văn hóa như biểu tượng, giá trị, trí tuệ, tơn giáo, nghệ thuật, gia đình, xã hội… Các
chủ đề này sẽ được thiết kế nhằm bộc lộ các nét đặc trưng của văn hóa bản địa, giúp người

học hiểu được nội dung một cách sâu sắc hơn.
Cùng năm này, Wisniewska-Brogowska đã miêu tả cách tiếp cận theo định hướng vấn
đề bằng cách buộc người học tự thực hiện các nghiên cứu về những vấn đề họ quan tâm liên
quan đến văn hóa bản địa. Trong trường hợp này, vai trò của người giáo viên là định hướng
và chỉ dẫn cho sinh viên chủ động các nhiệm vụ nghiên cứu.
Bên cạnh đó, các cách tiếp cận khác cũng đáng quan tâm như cách tiếp cận định
hướng nhiệm vụ (các nhiệm vụ hợp tác), tiếp cận lấy kỹ năng làm trung tâm…
Từ các phương pháp gợi ý trên, giáo viên có thể căn cứ trên tình hình thực tế của
người học (năng lực, mục đích học tập…) để lựa chọn cách thức phù hợp nhất. Nếu mục đích
của người học là đến sống trong mơi trường bản địa thì giáo viên nên lựa chọn phương pháp
tiếp cận giao văn hóa lấy kỹ năng làm trung tâm. Mặt khác, nếu mục đích của người học là
nâng cao hiểu biết về giao văn hóa để giao tiếp tốt hơn thì phương pháp dựa trên chủ đề là lựa
chọn phù hợp nhất.
Để đạt được mục đích thụ đắc các kiến thức văn hóa, giao văn hóa tốt hơn, giáo viên
ngoại ngữ có thể sử dụng các kỹ thuật giảng dạy khác nhau, kết hợp với các tài liệu liên quan.
Người viết giới thiệu một số kỹ thuật lồng ghép giao văn hóa trong giảng dạy ngoại ngữ như
sau:
a. Thảo luận
Hiện nay, nhiều giáo trình đã có hướng đan xen các hoạt động thảo luận, trao đổi ý
kiến dựa trên các mục tiêu cụ thể sao cho phù hợp với nhiều đối tượng sinh viên khác nhau.
Trên thực tế, giáo viên không thể kỳ vọng rằng tất cả sinh viên đều có khả năng giải quyết
các vấn đề phức tạp liên quan đến giao văn hóa. Mục đích của thảo luận là để các em có cơ
hội luyện tập nghe, nói, chia sẻ, làm rõ các thắc mắc. Cuối cùng, giáo viên là người nhận xét,
khái quát các nội dung cơ bản.
b. Câu đố
Đây là cách để trắc nghiệm khả năng ghi nhớ, tiếp nhận thông tin của sinh viên về các
vấn đề mới trong bài học. Sinh có thể chỉ phỏng đốn đáp án, dựa trên hiểu biết của bản thân.
Câu trả lời đúng có thể được giáo viên cung cấp thơng qua đoạn băng, hình ảnh… Có thể
thấy rằng đây là phương pháp mang tính trực quan cao, có khả năng kích thích người học, tạo
hiệu quả tốt.

c. Đóng vai
Nhiệm vụ này tạo cho sinh viên cơ hội được nhập vai để diễn xuất dựa trên những
kiến thức văn hóa mà họ đã học. Sinh viên sẽ được thử thách khi phải suy nghĩ, cư xử, giao
tiếp theo văn hóa của người dân tại nước bản địa.
4. Thực tế dạy học ngoại ngữ kết hợp các yếu tố giao văn hóa cho sinh viên
chuyên ngành Việt Nam học, đại học Sao Đỏ
a. Về sinh viên
Trước hết, cần biết rằng đối tượng sinh viên được nói đến thuộc chuyên ngành Việt
Nam học. Họ được đào tạo để trở thành những hướng dẫn viên du lịch trong tương lai. Qua
đó, ta có thể khẳng định rằng họ được trang bị tương đối đầy đủ về văn hóa Việt Nam. Đây là
lợi thế, nhưng đồng thời cũng là trở ngại khi sinh viên tiếp cận văn hóa nước ngồi. Theo
hướng tích cực, họ sẽ vận dụng văn hóa Việt Nam để đối chiếu, so sánh với nét mới trong văn


hóa nước ngồi để có cái nhìn bao qt, trọn vẹn. Tuy nhiên, khơng ít sinh viên lại sử dụng
kiến thức văn hóa Việt Nam để giải quyết các vấn đề trong tình huống giao tiếp bằng ngoại
ngữ. Điều này dễ dẫn đến hiểu lầm, thậm chí nghiêm trọng hơn, nó gây ra xung đột văn hóa,
ảnh hưởng đến hình ảnh du lịch Việt Nam nói riêng, đất nước, con người Việt Nam nói
chung.
Về ngoại ngữ, mặc dù hầu hết đối tượng sinh viên đều học tiếng Anh từ trung học cơ
sở, nhưng kỹ năng giao tiếp của họ còn yếu, đặc biệt, họ thực sự chưa quan tâm đến các yếu
tố giao văn hóa trong q trình học. Hơn nữa, trở ngại khác cho sinh viên chuyên ngành Việt
Nam học là trong chương trình học tại trường đại học, họ khơng được học mơn Giao tiếp giao
văn hóa.
Qua nghiên cứu, người viết thấy rằng mặc dù sinh viên chuyên ngành Việt Nam học
chưa hiểu biết nhiều về các yếu tố giao văn hóa trong giao tiếp nhưng hầu hết đều ý thức
được tầm quan trọng của nội dung này trong việc học. Tuy nhiên, khó khăn chính khiến cho
sinh viên khơng giải quyết được các tình huống giao tiếp là do sự thiếu hiểu biết về các kiến
thức giao văn hóa, sự ngại ngùng, rụt rè…
Đồng thời, liên quan đến nghề nghiệp của mình trong tương lai, với đối tượng giao

tiếp chính là khách du lịch, sinh viên có nhu cầu được tìm hiểu các yếu tố giao văn hóa xoay
quanh quy tắc ứng xử lịch sự, các tiêu chuẩn xã hội, con người, các giá trị, ẩm thực… Các
hoạt động mà sinh viên đánh giá là có hiệu quả giúp họ học tốt nhất là các hoạt động nhóm,
cặp, thảo luận, câu đố, đóng vai, bài tập tình huống…
b. Về đội ngũ giáo viên
Đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy ngoại ngữ cho sinh viên chuyên ngành Việt
Nam học đều là các thầy cô được đào tạo sư phạm ngoại ngữ chính quy, đã được cấp chứng
chỉ ngoại ngữ du lịch và có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên trường đại học Sao Đỏ đã không ngừng bồi
dưỡng và nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ để bắt kịp với xu thế mới trong việc
giảng dạy ngoại ngữ. Hàng năm, nhiều giáo viên được cử đi học tiến sỹ, thạc sỹ. Ngoài ra,
các giáo viên cũng được cử tham gia các lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy, kỹ năng
mềm, áp dụng CNTT trong giảng dạy ngoại ngữ. Sau các khóa tập huấn, tổ, nhóm cũng tổ
chức các buổi họp chun mơn để các thầy cơ tham gia khóa tập huấn có cơ hội chia sẻ kinh
nghiệm với đồng nghiệp của mình.
Hiện tại, qua thực tế giảng dạy, đội ngũ giáo viên đã dần đổi mới, chủ động lồng ghép
các yếu tố giao văn hóa vào giảng dạy ngoại ngữ. Các thầy cô đã nhận thức rất rõ tầm quan
trọng và hiệu quả của phương pháp này. Từ việc chỉnh sửa, biên soạn giáo trình đến thực tế
lên lớp, giáo viên ngoại ngữ trường đại học Sao Đỏ đã áp dụng phù hợp các phương pháp tiếp
cận giao văn hóa cũng như các kỹ thuật lồng ghép các yêu tố này trong giảng dạy, đánh giá,
và củng cố kiến thức cho sinh viên.
c. Đề xuất phương lồng ghép các yếu tố giao văn hóa trong giảng dạy ngoại ngữ
Qua ghi nhận từ thực tế và kết quả từ nghiên cứu, người viết đề xuất một số phương
pháp lồng ghép các yếu tố giao văn hóa trong giảng dạy ngoại ngữ cho sinh viên chuyên
ngành Việt Nam học như sau.
Trước hết, các yếu tố giao văn hóa cần được nhận thức để đan xen trong bài học càng
sớm càng tốt. Ví dụ, trong bài học đầu tiên, thơng thường sinh viên sẽ học cách chào hỏi.
Giáo viên nên giải thích, minh họa cho sinh viên thấy những nét khác nhau trong văn hóa
chào hỏi của người Việt Nam và người nước ngồi. Người Việt Nam có thời quen hỏi về
cơng việc để chào hỏi (“Bác đang làm gì đấy?/ Cơ đi chợ à?/ Chị ăn cơm chưa?...) trong khi

người nước ngồi thường chỉ nói “Xin chào”.


Bên cạnh đó, vì các nền văn hóa có thể gặp nhau ở một số điểm nên giáo viên có thể
lựa chọn các nội dung thể hiện điểm giống và khác nhau nhằm giúp sinh viên so sánh, rút ra
kiến thức cho mình. Ví dụ như các tư thế chào từ các nền văn hóa khác nhau (người Nhật,
người Việt Nam cúi đầu khi chào; người Thái chắp tay chào, người Pháp thì thường hơn má,
hơn tay, hoặc bắt tay khi chào…).
Ngồi ra, giáo viên có thể quan tâm lựa chọn các khía cạnh giúp cho sinh viên có cơ
hội khám phá văn hóa nước ngồi trong sự qn chiếu các khía cạnh văn hóa Việt Nam. Ví
dụ như khi tìm hiểu về cách khen ngợi của người Việt Nam và người Mỹ. Theo cách tích cực,
người Mỹ sẽ nói rằng: “Bạn thật là một con chó may mắn!” (You’re such a lucky dog!) Trong
khi đó, người Việt Nam có câu: “Chó ngáp phải ruồi!” để ám chỉ, mỉa mai những người tình
cờ gặp may và khơng xứng đáng với điều đó. Sở dĩ có sự khác nhau này là do cách nhìn nhận
và mối quan hệ giữa người với con vật, đặc biệt là với con chó ở hai nước Mỹ và Việt Nam
khác nhau rõ rệt. Người Mỹ u thương chó như người bạn thân, thậm chí như thành viên
trong gia đình. Người Việt Nam lại phân biệt rõ khoảng cách giữa chủ và vật, thậm chí đơi
khi hình ảnh con chó được cho là xấu, là khơng sạch sẽ… Ví dụ khác liên quan đến nghề
nghiệp của sinh viên như các tình huống giao tiếp trong nhà hàng, khách sạn, hay tại các
điểm du lịch. Sinh viên cần đảm bảo hiểu và tôn trọng các yếu tố giao văn hóa cơ bản để
khơng những đạt được mục đích giao tiếp mà cịn khéo léo quảng bá hình ảnh đất nước, con
người và nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc đến bạn bè quốc tế.
Kết luận
Kỹ năng giao tiếp hiệu quả khơng chỉ địi hỏi kỹ thuật sử dụng ngơn ngữ điêu luyện
mà cịn yêu cầu hiểu biết sâu sắc về nền tảng văn hóa-xã hội của cả hai nước nói riêng và
cộng đồng quốc tế nói chung. Trong xu thế tồn cầu hóa mạnh mẽ, việc dạy học ngoại ngữ
lồng ghép các yếu tố giao văn hóa đang ngày càng được chú trọng. Nhiều phương pháp, kỹ
thuật được giới thiệu nhằm phục vụ giảng dạy, khuyến khích, định hướng cho sinh viên tiếp
cận với hướng giao tiếp hiện đại, hội nhập sâu rộng. Điểm hấp dẫn người học chính là qua
việc học ngoại ngữ, sinh viên có cơ hội hiểu biết khơng chỉ văn hóa dân tộc mà cịn là văn

hóa các nước trên thế giới. Hiệu quả của phương pháp này đã được kiểm chứng khi sinh viên
ra trường có cơ hội làm việc trong môi trường giao tiếp với khách nước ngoài. Họ được đánh
giá cao về sự nhạy bén, bắt kịp xu thế và sự khéo léo trong công việc. Vì những lý do đó,
trong thời gian tới, phương pháp này nên được áp dụng rộng rãi không chỉ cho sinh viên
chuyên ngành Việt Nam học mà có thể sử dụng cho các lớp Quản trị, ngôn ngữ Anh, hay các
lớp khơng chun của trường nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục.
TĨM TẮT
Trong bài viết này, chúng tơi đi vào thảo luận một số vấn đề thuộc lĩnh vực giáo dục
ngoại ngữ cho sinh viên chuyên ngành hướng dẫn du lịch nhằm phát triển kỹ năng nghe, nói.
Nội dung chính của báo cáo bao gồm: 1. Khái quát về văn hóa, giao văn hóa; 2. Vài trò của
giao văn hóa trong giảng dạy ngoại ngữ; 3. Phương pháp giảng dạy ngoại ngữ có lồng ghép
các yếu tố giao văn hóa; 4. Thực tế dạy học ngoại ngữ kết hợp các yếu tố giao văn hóa cho
sinh viên chuyên ngành Việt Nam học, đại học Sao Đỏ.



×