Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NHỮNG điều tâm đắc KHI NGHIÊN cứu và THỰC HÀNH đại THỪA KHỞI tín LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.4 KB, 21 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


TIỂU LUẬN MƠN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN


ĐỀ TÀI

NHỮNG ĐIỀU TÂM ĐẮC KHI NGHIÊN CỨU VÀ THỰC
HÀNH ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN

TP. Hồ Chí Minh, năm 2022.

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM


HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


MƠN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN

Đề tài:
NHỮNG ĐIỀU TÂM ĐẮC KHI NGHIÊN CỨU VÀ
THỰC HÀNH ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN

Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS.Thích Đồng Trí
Sinh viên thực hiện: Lê Văn Can
Pháp danh: Trí Cường
Mã sinh viên: TX 6031
Lớp: ĐTTX Khóa VI


Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2022.
MỤC LỤC


A.DẪN NHẬP. ..............................................................................................................1
B.NỘI DUNG..................................................................................................................2

CHƯƠNG 1:NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
1.1. Làm nổi bật hình ảnh Đức Phật............................................................................3
1.2.Làm cho những người còn xa lạ với niềm tin về Đại thừa dễ dàng chấp nhận được
các học thuyết mới.........................................................................................................4
1.3.Làm cho hành giả khơng bị phương diện hình thức của con người , sự vật lừa dối,
nhờ đó con người sẽ có thái độ ứng xử phù hợp với tinh thần không chấp thủ......5
1.4. Đặt chức năng của a-lại-da vào khuynh hướng “năng nhiếp và năng sinh”.....6
CHƯƠNG 2:TẦM QUAN TRỌNG CỦA NIỀM TIN TAM BẢO TRONG QUÁ
TRÌNH TU TẬP PHÁT KHỞI NIỀM TIN ĐẠI THỪA
2.1. Quá trình tu tập phát khởi tịnh tín theo Đại Thừa Khởi Tín.............................7
2.2. Tầm quan trọng của việc tin Tam Bảo trong quán trình tu tập ........................9
2.2.1. Niềm tin vào Phật bảo.........................................................................................9
2.2.2. Niềm tin vào Pháp bảo........................................................................................9
2.2.3. Niềm tin vào Tăng bảo.......................................................................................10
CHƯƠNG 3:ỨNG DỤNG ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN TRONG ĐỜI SỐNG
3.1.Ổn định về kinh tế....................................................................................................11
3.2.Trang nghiêm về giới hạnh.....................................................................................12
3.3.Thăng bằng và điều hòa...........................................................................................13
3.4.Hộ pháp và hoằng pháp............................................................................................14

C.KẾT LUẬN.................................................................................................................................. 15

D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................... 16


A.DẪN NHẬP

Mọi tư tưởng, triết lý, quan điểm hay học thuyết của một đấng giáo chủ nào, sau khi
trải qua những giai đoạn truyền thừa, đều có một vài sự thay đổi để thích ứng với các
giai đoạn đó. Vì thế, cách chuyển tải nội dung tư tưởng hay cách lý giải về chúng
đương nhiên sẽ có những sự thay đổi, phát triển, thậm chí có những điểm khác biệt
với hình thức ban đầu khi chúng được đề xướng.Nội dung lời dạy của Đức Phật về
giáo lý, về giới luật trải qua những giai đoạn truyền thừa cũng không nằm ngoài quy
luật ấy, trải qua thời gian dài ngắn, trải qua từng giai đoạn thăng trầm của lịch sử,
cùng với những kiến giải khác nhau hay do hoàn cảnh, căn cơ khác nhau mà mỗi hành
giả có một cách tiếp nhận và thực hành giáo lý của Đức Phật khác nhau. Từ đó, xảy ra
sự bất đồng quan điểm trong đoàn thể Tăng-già. Cho nên, phát sinh hiện tượng phân
chia bộ phái trong Phật giáo thành những truyền thống Phật giáo khác nhau. một bên
theo truyền thống bảo thủ là Thượng Tọa bộ (Theravada) và một bên thay đổi để khế
hợp với thời đại nên tách ra lập thành phái Đại Chúng bộ (Mahàsanghika).Tựu trung,
thời gian thực sự xảy ra việc phân chia bộ phái được xác định là khoảng hơn 100 năm
kể từ sau khi Đức Phật nhập diệtLuận đại thừa khởi tin được Bồ tát Mã Minh trước tác
vào khoảng 600 năm sau khi Phật nhập diệt, nhằm phá bỏ cái thấy thiên lệch của Tiểu
thừa cũng như những định kiến sai lầm của Ngoại đạo. Ngài là một trong bốn vị thánh
tăng nổi tiếng nhất lúc bấy giờ, với tên gọi “bốn mặt trời minh triết”, bao gồm: ngài
Đề-bà ở Đông Ấn, Long Thọ ở Tây Ấn, Cưu-ma-la-thập ở Bắc Ấn và Ngài ở vùng
Đông Ấn” . Ngồi ra, tương truyền cịn có gần 100 tác phẩm khác như:Đại Thừa Khởi
Tín Luận, Phật Sở Hành Tán,Đại Tơng Địa Huyền Văn Bản Luận, Thập Bất Thiện
Nghiệp Đạo Kinh., Sự Sư Pháp Ngũ thập Tụng, Lục Đạo Luân Hồi Kinh...Trong đó
tác phẩm Đại Thừa Khởi Tín Luận là một bản văn căn bản và quý báu của đại thừa,và
ảnh hưởng toàn bộ Phật giáo Trung Hoa,Triều Tiên và Nhật Bản.Hầu như tông pháp
đại thừa nào cũng chịu ảnh hưởng từ bộ luận này.Những bình giảng của các đại sư

thuộc các phái khác nhau đã nói lên điều đó.Như Huệ Viễn(523-592)có đại thừa khởi
tín luận nghĩa sớ,Đại sư Ngun Hiểu người Triều Tiên (617-686),Pháp Tạng (643712) tổ thứ ba Hoa Nghiêm Tông ,Tông mật(780-841),những thiền sư chuyên tu như
ngài Hám Sơn (1546-1623)với cuốn khởi tín luận trực giải...Chúng ta thấy những then
chốt trong pháp bảo đàn kinh của lục tổ Huệ Năng:niệm,tướng,vơ niệm,vơ tướng,vơ
trụ.Và ảnh hưởng cả tịnh độ tơng,vì trong đoạn cuối của phần bốn của luận,đã khuyến
khích người tu hành chuyên ý niệm Phật để vãng sanh.Theo các học giả Nhật Bản,đã
có trên 170 sách giảng giải về luận này.Luận cũng được các tác giả như D.T
Suzuki(1900),YoshitoS.Hakeda(1967),ColumbiaUniversityPress,Jorgensen(2019),Oxf
ord University Press...dịch và giảng bằng tiếng anh[1].Luận đại thừa khởi tín là căn
bản,quan trọng và q báu,vì nó tổng hợp hai nhánh đại thừa:Tánh không trung đạo
mà đại diện là ngài Long Thọ và duy thức hay du già tông mà đại diện là ngài Thế
Thân và Vơ Trước.Ngồi ra bốn phái chính của Phật giáo Tây Tạng điều đồng ý lấy
tánh không như ngài Long Thọ diễn giảng làm nền tảng chung cho bốn phái.Từ hai
nhánh tánh không và duy tâm này mà có tất cả các tơng phái của đại thừa,và chúng
gồm cả ba thời thuyết pháp của đức Phật Thích Ca là:Bốn đế và khổ,khơng vơ
thường,vơ ngã;tánh khơng;Phật tánh hay Như Lai tạng hay tâm chân như.Luận có tên
1


là đại thừa khởi tín ,vì luận giảng về nền tảng và quả của tất cả tông phái đại thừa,kể
cả mật thừa tức là pháp thân của tất cả chư Phật.Luận đã giảng dạy đầy đủ cả ba thân
Phật:Pháp thân,báo thân và ứng thân hay hóa thân.Luận nói đầy đủ về con đường đại
thừa:
 Ba môn chỉ,quán,chỉ quán song tu mà kinh viên giác nói rằng hồn thành ba
mơn này tứ là Phật xuất hiện ở thế gian.
 Sáu ba la mật có giá trị như thế nào trong việc đạt đến pháp thân.
 Hai sự tích tập trí tuệ và công đức
 Chi tết về vô minh bất giác sanh sôi như thế nào để che chướng pháp thân chân
như và cách để tiêu trừ ,tịnh hóa chúng.
 Những cấp độ của con đường và những cấp độ tu chứng của bồ tát.

 Những ma chướng.
Luận đại thừa khởi tín đề cập đến tất cả những pháp mơn giúp người thực hành đoạn
trừ nhiễm ô,phiền não..mở ra con đường thẳng đến thực tại chân như.Vì lẽ đó học viên
chọn: “Những điều tâm đắc khi nghiên cứu và thực hành Đại Thừa Khởi Tín Luận
”làm đề tài nghiên cứu và để cho bài viết có giá trị về nội dung cũng như đầy đủ ý
nghĩa, người viết dùng cách phân tích, tổng hợp, lập luận và chứng minh để làm sáng
tỏ mạnh đề,từ đó ứng dụng tu tập cho bản thân . Để hoàn thành đề tài này con xin
thành kính tri ân đãnh lễ Hội đồng điều hành Học viện – Học viện phật giáo tại TP. Hồ
Chí Minh và chư giáo thọ sư đã hết lòng dạy dỗ, khích lệ, giúp đỡ cho con trong
những tháng ngày theo học giáo pháp tại Học viện.Đặc biệt con xin thành kính tri ân
và đãnh lễ Giáo Thọ Sư: TT.TS.T. Đồng Trí người trực tiếp dạy dỗ, hướng dẫn cho
con thực hiện đề tài này. Trong quá trình thực hiện đề tài, do sở học còn non kém,
chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Kính mong được sự chỉ dạy thêm từ Giáo Thọ Sư
cùng chư Tôn Đức .

2


B.NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG ĐĨNG GĨP CỦA ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
Trong tám nguyên nhân tạo luận.Nguyên nhân tổng quát là muốn chúng sanh lìa tất cả
khổ,được sống trong thực tại chân như,gọi là rốt ráo an vui.Sở dĩ có khổ là vì sống
trong những tướng hư giả vơ thường của thế gian,sống trong thức hư vọng phân biệt
lập ra sanh tử khổ đau hư vọng.Được rốt ráo an vui là đạt được thực tịa đầu tiên và
cuối cùng của đời người và vũ trụ mà luận gọi là Như Lai tạng vố có sẵn nơi mỗi
người.Kinh đại bát Niết bàn nói,tất cả chúng sanh điều có Phật tánh,tức là có Như Lai
tạng này vậy.Vì chúng sanh đã khổ,đang khổ và sẽ khổ chứ khơng phải vì danh lợi và
sự kính trọng cho mình,đây là nguyện hạnh của ngài Mã Minh và ngài viết ra luận này
như một công việc trong bồ tát hạnh của ngài.

1.1. Làm nổi bật hình ảnh Đức Phật
Con cúi đầu đảnh lễ
Tam Bảo khắp mười phương
Phật là bậc tuệ giác
Thánh hạnh không ai hơn
Sắc thân luôn vơ ngại
Bậc đại bi cứu đời.
(ngun văn,kính lễ Tam bảo)
Hình ảnh Đức Phật được ngài Mã Minh tán dương bao gồm ba phương diện: trí tuệ
viên mãn, hạnh Đức trịn đầy và sắc thân vơ ngại. Với hạnh Đức trịn đầy, Phật trở
thành tấm gương hành trì tâm linh. Với trí tuệ viên mãn, Phật sẽ hố độ nhiều người
trở về con đường tỉnh thức. Với sắc thân vô ngại, Phật đến và đi tự tại, không hệ thuộc
không gian địa lý và thời gian vật lý. Ba Đức tính quan trọng này có thể đại diện cho
các Đức tính cao quý khác của Đức Phật, thường được gọi bằng danh xưng là “Như
Lai thập hiệu.” Mười hiệu cuả Phật là: “Phật (Buddha = bậc giác ngộ) là Như Lai
(Tathāgata), bậc A-la-hán (Arhat), bậc Đại Giác Ngộ (Samyaksambuddha), bậc Tuệ
Đức Đầy (Vidyācaranasampanna), bậc Khéo Vượt Qua (Sugata = thiện thệ), bậc Hiểu
Thế Giới (Lokavid), bậc Điều Phục Đời (Purushadamyasârathi = điều ngự trượng
phu), bậc Vĩ Đại Nhất (Anuttara = vô thượng sĩ), bậc Thầy Trời Người
(Cāstādevāmanushyānām).”
1.2.Làm cho những người còn xa lạ với niềm tin về Đại thừa dễ dàng chấp nhận
được các học thuyết mới
Như chúng ta đã biết, trong Luận khởi tín tổ Mã Minh có nói đến hai động cơ quan
trọng là tồi tà và hiển chính. Trong phần tồi tà, mục đích của Luận chủ là làm thế nào
để giúp cho người tu học theo Luận khởi tín xóa bỏ được lưới kiến chấp sai lầm của
các hệ triết học và tôn giáo Bà-la-môn, đây là phần rất quan trọng.Về phần hiển chính,
mục tiêu của Luận này không phải chỉ xác lập niềm tin đơn thuần về Phật giáo, cốt lõi
của luận là xác lập niềm tin về Đại thừa, để đạt được kết quả cao nhất là làm cho
giống Phật không bị mất đi. Đồng thời tác phẩm này ra đời cũng để minh họa cho Du
già tông, cũng như tư tưởng kinh Lăng già, kinh Giải thâm mật. Cho nên luận chủ

giúp cho những người còn xa lạ với niềm tin về Đại thừa dễ dàng chấp nhận được các
học thuyết mới, các sự phát triển về triết lý Phật giáo dựa trên nền tảng các kinh điển
Nguyên thủy. Do đó, mục tiêu của Luận rất cao cả và để đạt được mục tiêu này thì
3


việc xác định rõ mục đích sáng tác và tơng chỉ hành đạo của Ngài là điều không thể
thiếu. Cho nên, ở đây tổ Mã Minh nêu ra 8 lý do tạo luận như sau: Một là lý do tổng
quát, vì giúp cho nhân loại lìa tất cả khổ đau, đạt được sự an lạc tuyệt đối, chứ khơng
phải vì động cơ mưu cầu danh lợi và cung kính của đời. Hai là vì muốn giải thích giáo
nghĩa nền tảng của Như Lai, giúp mọi người hiểu chính xác và khơng ngộ nhận. Ba là
giúp cho người có căn lành thuần thục thiết lập niềm tin tuyệt đối vào đạo lý Đại thừa.
Bốn là giúp cho người có căn lành kém cỏi có thể phát triển niềm tin. Năm là chỉ bày
phương tiện giúp người xoá sạch các chướng ngại do nghiệp xấu tạo ra, khéo bảo hộ
tâm, xa lìa vơ minh và kiêu mạn, thốt khỏi lưới tà kiến. Sáu là giúp hành giả tu tập
pháp môn an tịnh (chỉ) và quán chiếu (quán), trị liệu sai lầm của tâm phàm phu và nhị
thừa. Bảy là giới thiệu phương tiện “chuyên niệm” để được sinh ra gặp Phật, chắc
chắn sẽ không đánh mất niềm tin về Đại thừa. Tám là giới thiệu giá trị lợi lạc và
khuyến khích tu hành. Với tám lý do này đã làm thành một chất xúc tác rất mạnh, để
Ngài Mã Minh phải dành thời gian cho việc sáng tác Luận khởi tín rất xúc tích và có
những giá trị tâm linh.Tổ Mã Minh vì biết căn tánh của con người khơng đồng đều,
khả năng hiểu và tiếp thu cũng rất khác nhau. Có người tự lực, nương vào sự nghe
rộng mới có thể hiểu đúng lời Phật dạy. Dĩ nhiên cũng có người tự lực, dù nghe ít vẫn
có thể hiểu sâu sắc. Cũng có trường hợp có người khơng có khả năng phải nhờ vào
giải thích rộng của các bộ Luận mới có thể hiểu được giáo pháp. Tuy nhiên cũng có
người cảm thấy ngao ngán với các bản Luận giải thích nghĩa q rộng, nên chỉ thích
và chỉ có thể hiểu được các bộ Luận có phong cách văn ít nghĩa nhiều. Vì muốn giới
thiệu bao quát giáo pháp cao siêu của Như Lai, với nhiều nghĩa lý vi diệu và vô biên.
Nên Luận chủ sáng tác bản Luận này là vì hạng người sau cùng. Cách thức xác định
đối tượng giáo của ngài Mã Minh, cho thấy Ngài là một vị Thánh rất khiêm tốn,

những gì Ngài cần nói đều vì lợi lạc cho người mới phát tâm, phương pháp nói của
ngài giản dị, khúc chiết nhưng vơ cùng sâu sắc. Tính chất khế cơ, được tổ Mã Minh
vận dụng trong Khởi tín luận, cho thấy phương pháp giáo dục chỉ có giá trị, khi nhà
giáo dục nắm bắt được nhu cầu của thời đại, nhu cầu của con người, và chỉ khi nào
nhà giáo dục hiểu được điều đó, phương pháp giáo dục mới đáp ứng được những nhu
cầu của người cần giáo dục. Nếu chúng ta học theo phong cách chọn đối tượng như
Ngài thì quảng đại đa số quần chúng trong thời đại của chúng ta sẽ là đối tượng được
các Tăng Ni quan tâm. Vì họ khơng có thời gian học rộng hiểu nhiều lời kinh Phật dạy
và họ cũng khơng có thời gian để chun khảo các tự điển chuyên ngành về Phật học
để đào sâu về một vấn đề Phật học nào đó. Do vậy khi ra hành đạo chúng ta cũng nên
lưu tâm đến đối tượng bình dân để giúp cho Phật giáo phổ biến lan rộng đối với nhiều
thành phần khác nhau trong xã hội. Đồng thời cũng giúp cho tất cả mọi người đều tiếp
cận Phật pháp, hiểu được lời Phật dạy hầu ứng dụng thực hành để được an lạc lợi ích
trong hiện tại cũng như tương lai.
1.3.Làm cho hành giả khơng bị phương diện hình thức của con người , sự vật lừa
dối, nhờ đó con người sẽ có thái độ ứng xử phù hợp với tinh thần không chấp thủ
Chân như của tâm chính là tính chất của tâm vốn khơng sanh, khơng diệt. Chỉ vì chạy
theo vọng niệm phân biệt nên thấy mọi sự vật hiện tượng có sai biệt. Nếu dứt trừ được
vọng niệm sẽ khơng còn ý niệm về tướng trạng của cảnh giới sai khác nữa. “ Tính
chất” hay “thể tính”của tâm vốn khơng sinh, không diệt; không tăng, không giảm. Đây
là những cặp từ cho chúng ta thấy tính tuyệt đối về bản chất chơn như của tâm là chưa
từng được sinh ra( khơng có điểm bắt đầu) và chưa từng bị hủy diệt (không bao giờ bị
4


kết thúc). Nên sau khi chết con người tiếp tục tái sanh theo nghiệp dưới hình thức này
hoặc dưới hình thức khác. Khi chúng ta không truy được sự bắt đầu của tâm và thấy rõ
được tâm tiếp tục tồn tại trong thế giới luân hồi và thế giới giải thốt là khơng có kết
thúc. Lúc đó về phương diện hiện tượng tăng và giảm chỉ nên hiểu là các biểu đạt tạm
thời chứ nó khơng thuộc về bản chất. Điều này giống như hiện tượng lở ở một khoảng

sông thì lập tức ở một khoảng khác trên con sơng đó có hiện tượng bồi. Đứng nhìn tại
khu vực bị lở chúng ta nói đất, bờ ở đây bị sạt, bị mất. Nhưng khi nhìn tổng thể con
sơng thì nó chẳng bớt và chẳng thêm gì. Nhờ thấy được tính bảo tồn của mọi sự vật
khơng tăng khơng giảm trên bề mặt của chân như, nên khi đối diện trước thế giới vô
thường sinh, diệt, già, bệnh, chết, tổn thất, mất mát, chúng ta dễ dàng và nhanh chóng
làm chủ được dòng cảm xúc đang bị khổ đau. Những người thiếu sự tu học, không
nắm vững được nguyên lý vận hành của các pháp nên dễ biểu đạt các trạng thái tiêu
cực như: than khóc, bỏ ăn, mất ngủ, ... thậm chí tự tử. Vì họ khơng chấp nhận được sự
giảm đi, tức khi bị mất mát về người thân hay sự tổn thất về tài sản, những thứ mà họ
nỗ lực gầy dựng được. Tác giả của Luận khởi tín khẳng định rất rõ hiện tượng của tâm
sở dĩ có những sai biệt là do nương vào vọng niệm, tức là do nương vào tâm vọng, ý
vọng, nên khi hết vọng niệm thì cái nhìn về tính thiên sai vạn biệt nó chỉ đúng về mặt
hiện tượng, hồn tồn không đúng về phương diện bản thể. Do vậy mục đích cái nhìn
chơn như này giúp chúng ta chuyển hóa vọng niệm, rũ bỏ được cái chấp về tính phân
biệt và khu biệt. Tuy nhiên phải hiểu và ứng dụng tính chơn như đúng tình huống để
chúng ta khơng bị lẫn lộn giữa cái này với cái kia... Chân như của sự vật chính là bản
chất của mọi sự vật hiện tượng từ xưa đến nay vốn không hạn cuộc trong ngôn ngữ,
không hạn cuộc trong ngôn từ diễn tả; không hạn cuộc trong tầm nhận thức của tâm;
tuyệt đối đồng nhất, chưa từng bị biến dị và mất đi vĩnh viễn. Tâm thể đồng nhất đó
được mệnh danh là chân như. Trước hết chúng ta phải thấy bản chất của sự vật cần
phải nhìn nhận đúng với chính nó, nếu chúng ta gián nhãn và đặt tên một cách chủ
quan khi quan sát đều dẫn đến sai lầm, vì bản chất của chân như là như thật, nó chưa
từng bị thay đổi về phương diện bản thể hay biến dị về phương diện bản chất. Nhưng
ở trong tính tương quan tương dun thì các hiện tượng này có thay đổi ở chỗ này hay
biến dạng ở chỗ kia. Nên khi nhìn thế giới hiện tượng chúng ta đừng quên rằng bên
trong nó cịn có bản chất khơng phải như thế và trong tự thân của sự vật chúng khơng
có một thực thể độc lập. Mặt khác bản chất sự vật cũng không lệ thuộc vào hệ thống
ngôn ngữ và các ngơn từ để mơ tả về nó. Vì mọi sự vật hiện tượng mặc định là để biểu
đạt và mô tả, nhưng không thể lột tả rốt ráo thực tại của sự vật, nên ngôn từ trở nên bất
lực. Để mô tả bản chất thật của sự vật ta phải dùng ngơn ngữ khơng lời để tạo ra tính

chiều sâu mà mỗi người khi quan sát có thể tự cảm nhận riêng theo thưởng thức của
mình. Do đó, các mặc định, hay áp đặt tính giá trị sử dụng lên trên sự vật, đều không
phản ánh đúng được bản chất của sự vật. Nói cách khác, với thái độ nhận thức mọi sự
vật theo công thức chân như “ly tâm duyên tướng”, hành giả sẽ không bị tác động của
những lời khen và tiếng chê, ảnh hưởng đến khuynh hướng và lý tưởng cuộc sống.
Cũng cần nói thêm rằng, mặc dù vốn không lệ thuộc và hạn cuộc vào ngôn ngữ, từ
loại, các phương thức biểu đạt và sự nhận thức chủ quan của tâm, bản chất chân như
của một sự vật, dù trải qua nhiều biến thiên của hình thái và điều kiện vẫn tuyệt đối
đồng nhất, khơng hề phải chịu quy luật thay đổi từ hình thức sang nội dung, tính như
thị của chân như mn đời vẫn thế, chưa từng bị biến dịch, chưa từng bị mất một cách
vĩnh viễn. Chính nhờ vào học thuyết chân như, chúng sinh phàm phu dù bị trôi lăn
5


trong ba cõi sáu đường vẫn không hề mất đi tiềm năng giác ngộ. Đồng thời khi hiểu
được chân như của từng sự vật, sẽ giúp cho hành giả không bị phương diện hình thức
của con người và sự vật lừa dối, nhờ đó con người sẽ có thái độ ứng xử phù hợp với
tinh thần không chấp thủ.
1.4. Đặt chức năng của a-lại-da vào khuynh hướng “năng nhiếp và năng sinh”
Thức A-lại-da: Tâm trong trạng thái sinh và diệt bắt nguồn từ bào thai Như Lai. Bản
chất của không sinh, không diệt [tức chân như] và cái gọi là sinh diệt [hiện tượng] vốn
không thống nhất cũng không dị biệt, và đó chính là thức a-lại-da. Thức a-lại-da có
hai chức năng tổ chức (năng nhiếp) và chế tạo (năng sinh) hạt giống của các sự vật,
đồng thời, bao hàm hai nguyên lý giác ngộ và chưa giác ngộ. Trước tiên, chúng ta có
thể hiểu bào thai Như Lai là nơi chứa đựng tiềm năng của các hạt giống tích cực, có
khả năng hướng đến giác ngộ và giải thốt. Vì cịn tiềm ẩn dưới dạng tiềm năng, các
hạt giống ấy vẫn có khả năng tồn tại song song với các hạt giống tiêu cực. Đôi lúc
dưới tác động của môi trường và điều kiện không thuận lợi, các tiềm năng hạt giống
tích cực khơng phát huy được tính chất và giá trị của nó. Trong tình trạng của các tiềm
năng tốt chưa được hiển thị, bào thai Như Lai đó sẽ trở thành nơi y cứ và cơ sở của

thức a-lại-da hành hoạt trong thế giới sinh diệt. Chân như với biểu hiện của trạng thái
vượt lên trên sự sinh và diệt và hiện tượng với biểu hiện của những cái đối lập vốn
không phải đồng nhất nhưng cũng không phải là dị biệt. Đánh đồng bản thể với hiện
tượng như một thể thống nhất chẳng khác nào đánh đồng cái nguyên lý với những cái
được tạo ra từ nguyên lý đó làm một. Cũng sẽ là một sai lầm đối lập, nếu chúng ta
tách biệt đến độ cho rằng bản thể và hiện tượng hoàn toàn sai biệt nhau, và giữa chúng
khơng có mối quan hệ dun khởi hay tương thuộc. Hai phương diện nhiễm và tịnh
của thức a-lại-da cần phải được nhận diện từ góc độ của mối quan hệ bản thể và hiện
tượng đó. Mặc dù là kho tàng chứa nhóm các hạt giống thiện và bất thiện, a-lại-da trên
bản chất vốn chưa từng được sinh ra bởi một nguyên nhân khởi thuỷ và do đó sẽ
không bao giờ mất đi vĩnh viễn do tác động của điều kiện. Các hạt giống trong a-lạida cũng không thống nhất và không dị biệt nhau. Đặt chức năng của a-lại-da vào
khuynh hướng “năng nhiếp và năng sinh” là một trong các đóng góp mới của tổ Mã
Minh. Thơng thường, thức a-lại-da được định danh là tạng thức, vì có chức năng
“năng tàng và sở tàng.” Năng tàng giống như một cái kho chứa, cái kho không hạn
lượng trong khơng gian hình khối. Sở tàng là những đồ vật được cất chứa trong kho
tàng đó. Chỗ nào có kho chứa thì chỗ đó có đồ vật chứa. Ngược lại, chỗ nào có đồ vật
(sở tàng) thì chỗ đó có sự chứa nhóm (năng tàng). Đồ vật được chứa nhóm tạo thành
một khơng gian. Khơng gian đó chỉ là một phần, chứ khơng phải tồn thể, của năng
tàng. Trong một kho chứa hàng tạp hoá, từng sản phẩm tạp hoá là một đơn vị sở tàng..
Theo tổ Mã Minh, thức a-lại-da là kho tàng với hai chức năng chính là năng nhiếp và
năng sinh các hạt giống của mọi sự vật hiện tượng.. Một đóng góp khác nữa là tổ Mã
Minh đã giới thiệu phương diện nhận thức và tâm lý của a-lại-da trong tình huống của
con người giác ngộ và phàm phu[2].. Trạng thái tuệ giác và phi tuệ giác của con người
cũng là những tiềm năng có sẵn trong kho tàng tâm thức a-lại-da. Trong tiến trình sinh
diệt của thế giới hiện tượng, chúng sinh có thói quen phát huy các hạt giống bất giác,
đánh mất vị trí an lạc và thảnh thơi. Con đường hướng về tuệ giác chính là cách đánh
thức tiềm năng giác ngộ với nhiều dạng hình và cấp độ khác nhau.

6



CHƯƠNG 2
TẦM QUAN TRỌNG CỦA NIỀM TIN TAM BẢO TRONG QUÁ TRÌNH TU
TẬP PHÁT KHỞI NIỀM TIN ĐẠI THỪA
Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy “tín vi đạo ngun cơng đức mẫu”, nghĩa là
đức tin là mẹ đẻ của các công đức lành. Niềm tin là nền tảng đầu tiên để cho chúng
sanh từ đó có thể hướng trọn tâm thành và quyết chí dấn thân trên con đường tu tập,
thẳng tiến về bến bờ giải thoát. Sở dĩ đức tin được xem là nền tảng, là cơ sở vững chắc
để quyết chí tu tập bởi chư Phật Bồ Tát oai lực, sắc tướng và trí tuệ vơ cùng rộng lớn,
do tu tập trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp mà thành đạt, như trong Luận Dị Bộ Tông
Luân Luận đã khẳng định: “Chư Phật Thế Tôn là những bậc siêu xuất thế gian”, hay
“sắc thân, oai lực, thọ lượng của Như Lai khơng có giới hạn”, do vậy, những hạng
phàm phu như chúng ta, nếu không nhờ niềm tin vào chánh pháp, nhờ niềm tin vào uy
lực, oai đức của Như Lai thì quyết khơng thể nào tu tập để tạo dựng được một đời
sống an lạc, nói gì đến chuyện thẳng tiến đến quả vị giải thoát giác ngộ.Đại Thừa
Khởi Tín luận khơng chỉ giới thiệu cho tất cả chúng ta về những khả năng thành Phật
mà còn muốn giới thiệu sự rộng lớn của tâm chúng sanh thông qua thể đại, tướng đại
và dụng đại. Bởi vì “tâm này là tổng tướng của tất cả Thánh phàm, mê ngộ, nhơn quả
v.v…”. Mà niềm tin vào chính chúng ta cũng chính là tin vào tự tánh Phật bảo, pháp
bảo và tăng bảo của chính mình. Tin tự tánh của chính mình cũng chính là niềm tin
vào ba ngơi báu Phật pháp tăng để chúng ta dấn thân trọn vẹn vào con đường tu tập
hướng đến con đường giải thoát, giác ngộ.
2.1. Q trình tu tập phát khởi tịnh tín theo Đại Thừa Khởi Tín
Q trình tu tập phát khởi tịnh tín theo đại Thừa Khởi Tín Luận được ngài Mã Minh
trình bày bằng cách tu tập các pháp Ba La Mật. trong đó, Ngài giới thiệu thành năm
pháp mơn chính, gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Chỉ và Qn.
a) Bố Thí: Theo luận trình bày là “nếu thấy có người đến xin, hành giả có những tài
vật gì đều tùy theo sức mình đem bố thí cho người thì được hai điều lợi ích: tự mình
bỏ được lịng tham bỏn sẻn và người thọ thí được vui mừng”. Bố thí có 3 thứ, gồm tài
thí, pháp thí và vơ úy thí. Trong tài thí thì có nội tài và ngoại tài. Bố thí nội tài là đầu

mắt tay chân, thân phần thì trừ được tâm chấp ngã và tự ái; bố thì ngoại tài là tiền tài,
nhà cửa, vật dụng… thì trừ được lịng tham lam về tiền của. pháp thí là bố thí phương
pháp tạo dựng nghề nghiệp và giáo pháp Phật, làm được thì sẽ trừ được tâm bỏn sẻn
về pháp. Vơ úy thí là bố thí sự khơng sợ sệt cho chúng sanh, gồm có hai là khơng làm
hại người và cứu giúp ban vui để người khơng sợ sệt.Bố thí là một pháp mơn,một
hạnh lợi mình,lợi người.Lợi mình tức là tích tụ trí huệ-hn tập hướng thượng,khiến
tâm mình rộng mở vơ ngã-vơ pháp để tương ứng với chân như.Lợi người là tích tập
phước đức,cơng đức.Bố thí làm cho tâm từ bi thêm rộng lớn để tương ưng với đại
bi,đại hạnh của chư Phật bao trùm tồn bộ pháp giới.Ngay trong bố thí chúng ta bẻ
gãy sự phân biệt giữa mình,sự vật và người nhận,khiến ta tương ưng và hòa nhập được
pháp tánh chân như[3].
b) Trì Giới: Là thực hành nếp sống đạo đức, xây dựng một nếp sống thanh cao phạm
hạnh. Chính nhờ giới luật mà niềm tin tịnh tín được dễ dàng phát khởi, trì giới cần
phải hành trì trên ba phương diện: thân khẩu ý, và tổng quát có ba phần: Nhiếp luật
nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới. Mục đích của giới ở

7


thân,khẩu,ý là làm cho chúng thanh tịnh,xóa tan vơ minh nhiễm ơ bất tịnh để trở về
thanh tịnh vốn có của bản giác chân như.
c) Nhẫn Nhục: Luận Đại thừa khởi tín có chép: “Bồ tát biết tánh Phật của mình khơng
sân hận, xa lìa các khổ não, nên thuận theo tánh Phật, tu pháp nhẫn nhục Ba la mật”.
Nhẫn nhục có hai phần:
+ Cam chịu những điều khổ não, nhục nhã, xót đau người ta làm cho mình mà mình
khơng hờn giận, phẫn uất và nghĩ đến sự trả thù, như Đức Phật đã nhẫn chịu những
âm mưu phá hại của Đề bà đạt đa khi lăn đá từ trên núi cao xuống chân Phật; của bọn
ngoại đạo khi cho cô gái độn bụng đến vu oan cho Phật, để làm tổn thương đến uy
danh Ngài; của vua A xà thế khi cho voi uống rượu say chạy đên để sát hại Ngài. Ngài
đã không hờn giận, trừng phạt, mà trái lại, cịn Từ bi hóa độ cho tất cả đều được giải

thốt.
+ Bình thản, khơng xao động trước tất cả các cảnh thuận và nghịch của cuộc đời mà
mình gặp phải. Chẳng hạn, khi gặp nghịch cảnh, Bồ tát khơng ốn hận, trách móc,
phiền não, để cho tâm mình phải vướng bận, đảo điên. Khi gặp thuận cảnh, Bồ tát
cũng khơng mừng rỡ, thích thú, để cho tâm mình phải bị xáo động, vương vấn theo.
Nhẫn nhục Ba la mật là một thứ nhẫn nhục cùng tột, không một sự vui buồn, sướng
khổ, vinh nhục nào trong đời có thể làm lay động, xáo trộn tâm tư được. Thứ nhẫn
nhục này, chỉ có hạng Đại thừa Bồ tát mới thực hiện nổi; vì các Ngài đã nhận chân
được bản tánh thanh tịnh, bình đẳng, khơng thấy có nhân ngã, có người làm nhục và
kẻ bị nhục.
d) Tinh Tấn: Tinh tấn là cố gắng không dừng nghỉ để mau mau đạt được quả vị tối
thượng trong việc tu hành. Tinh ở đây có nghĩa là tinh thuần; Tấn là đi tới. Tinh tấn là
cố gắng không ngừng, luôn luôn nỗ lực để tiến tới cảnh giới tinh thuần, tức bản thể
thanh tịnh. Muốn đạt được quả vị mong muốn, kẻ tu hành phải có tâm lý và thái độ
của một kẻ bộ hành trên đường thiên lý vạn dặm : đi ngày, đi đêm, luôn luôn không
biết mệt mỏi, tranh thủ thời gian, tranh thủ không gian. Người bộ hành ấy, bên trong
thì tâm tâm niệm niệm phải đi cho đến đích, dù gặp gian nguy khổ ải cũng quyết
khơng dừng; bên ngồi thì phải nỗ lực dẹp phá những trở ngại trên đường, khắc phục
được mọi khó khăn.Nói một cách khác, người tu Đại thừa Bồ tát, phải luôn luôn tinh
tấn tu hành, để thắng giặc nội tâm và ngoại cảnh.Giặc nội tâm là những gì? Đó là lục
tặc, tam độc, thất tình, lục dục…Bồ tát tích cực lo xoay vọng thức trở lại bản tâm
thanh tịnh, không cho rong ruổi theo sáu trần. Bồ tát tinh tấn giữ tâm thanh tịnh,
không cho khởi vọng niệm; vọng niệm khơng khởi thì ba độc khơng sanh, ba độc
khơng sanh thì ba nghiệp khơng tạo, ba nghiệp khơng tạo thì không thọ sanh tử luân
hồi. Nhưng giặc nội tâm không phải dễ thắng. Người xưa nói : “Thắng người thì dễ,
mà thắng mình rất khó”. Những kẻ thiện chiến, ở chiến trường, có thể trăm trận trăm
thắng; nhưng khi chiến đấu với giặc lòng, chưa chắc đã thắng được dễ dàng. Bởi thế,
kẻ tu hành phải luôn luôn cảnh giác đề phòng sự khởi loạn của nội tâm, và phải cương
quyết mở một mặt trận để tiêu trừ nội loạn cho đến tận gốc.Giặc bên ngồi là những
gì? Đó là những cạm bẫy lợi danh, món ngon vị lạ; đó là những giường êm, nệm ấm;

đó là những sắc đẹp, lời hay…Người tu theo hạnh tinh tấn phải luôn luôn đề phòng,
xa tránh mọi thứ giặc nguy hiểm ấy, và quyết tâm đi thẳng đến mục đích đã vạch sẵn.
e) Chỉ Và Quán: Chỉ và Quán là hai pháp tu hành về thiền định và trí tuệ. “Chỉ là
chấm dức các vọng tưởng để tùy thuận quán không (samatha), và quán là quán sát các
tướng nhân duyên sinh diệt để tùy thuận theo hành giả (vipasana)” .Tu tập như vậy lâu
8


dần thuần thục thì sẽ tương ưng được ,luận gọi là tùy thuận vào được chân như tam
muội.Vào được chân như tam muội là vào được pháp thân thế nên luận nói sớm thành
bất thối chuyển.
2.2. Tầm quan trọng của việc tin Tam Bảo trong quán trình tu tập
2.2.1. Niềm tin vào Phật bảo
Trong luận nêu rằng: “Tin Phật có vô lượng công đức, hành giả thường phải nghĩ
tưởng, gần gũi, cung kính và cúng dường để phát khởi căn lành và cầu đặng nhất thiết
trí”. Sở dĩ cần phải tin đức Phật, gần gũi cung kính cúng dường là vì đức Phật ln
ln trịn đủ ba phương diện: trí tuệ viên mãn, hạnh đức tròn đầy, và sắc thân vơ ngại.
Với đức hạnh trịn đầy, đức Phật trở thành tấm gương hành trì tâm linh cho tất cả
chúng sanh noi theo. Với trí tuệ viên mãn, đức Phật hóa độ nhiều người tỉnh thức để
giải thoát khỏi khổ đau sinh tử và hướng về đại thừa chân chánh. Và với sắc thân, đức
Phật đến và đi không tự tại không lệ thuộc không gian địa lý, và thời gian vật lý. Ba
đức tính quan trọng này là tiêu biểu cho tất cả mọi công đức lành và oai đức khác của
đức Thế Tôn thông qua mười tôn hiệu cao quý, thường được gọi là thập hiệu: Như
Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ,
Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Trong Dị Bộ Tông Luân Luận,
Đại Chúng Bộ cũng tán dương đức Phật là bậc có “oai đức không giới hạn, thọ lượng
không giới hạn, sắc thân không giới hạn và thân thể của Thế Tôn đều là vơ lậu”.Tin
Phật cịn chính là tin vào khả năng thành Phật, khả năng giác ngộ sáng suốt vượt thoát
mọi khổ đau của chính chúng ta. Ta cũng là Phật, nhưng là những vị Phật chưa thành.
Tuy chưa thành nhưng trong chúng ta ln có sẵn tánh giác, khả năng giác ngộ. nếu có

phương pháp, có quyết tâm thì nhất định ta sẽ thành chánh giác, chứng được quả vị
giác ngộ tối thượng như chính đức Phật. muốn được như vậy thì cơng việc đầu tiên là
chúng ta phải tin đức Phật là người đã chứng ngộ và đạt được những oai đức thù thắng
với thập hiệu, thập lực… tiếp theo phải tin rằng chúng ta cũng sẽ đạt được như
ngài.Với niềm tin và Phật bảo, và tánh giác và khả năng giác ngộ giải thốt trong
chính chúng ta sẽ khiến cho chúng ta có đủ niềm tin, nghị lực thẳng tiến trên con
đường tu tập theo hướng tịnh tín đại thừa, và nhất định tương lai, chúng ta sẽ đạt giác
ngộ giải thoát.
2.2.2. Niềm tin vào Pháp bảo
“Tin pháp của Phật có lợi ích lớn; hành giả thường phải tu hành các pháp ba la mật”.
Tin pháp bảo là tin tất cả những lời dạy của đức Phật. Bởi vì giáo pháp của Ngài là
phương thuốc thần diệu có thể chừa lành mọi vết thương của chúng sanh, là thuyền tốt
đưa chúng sanh vượt thoát khỏi biển luân hồi sanh tử. Ngài Mã Minh đã dùng ảnh dụ
“đại dương” bao la không ngằn mé để mô tả bản chất và cơng dụng của giáo pháp.
Theo đó, thể tướng của giáo pháp vượt khỏi mọi tà thuyết, như biển sâu bao hàm tất
cả mọi sự vật hiện tượng.Nền giáo pháp ấy, theo các nhà Đại thừa thì có thể phân chia
thành bốn loại, đó là Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Hoặc theo sự phân chia khác thì giáo pháp
của đức Phật có những giá trị lớn mà tất cả chúng sanh cần phải nên tin tưởng thọ trì:
a) Diễn bày khéo léo bởi giáo pháp của đức Phật luôn được diễn thuyết tài tình, ứng
hợp với mọi căn cơ giúp chúng sanh đạt được lợi ích lớn khi nghe pháp này.
b) Thiết thực hiện tại vì giáo pháp này có giá trị thiết thực, hiệu nghiệm ngay trong
hiện tại giúp cho hành giả cảm thấy an lạc ngay trong hiện tại mà không cần phải đợi
đến khi chết.

9


c) Đến để mà thấy vì giáo pháp này là chân lý thực nghiệm vượt thốt khỏi mặc ước
của tơn giáo thông thường mà hãy đến với niềm tin chân chính và rõ ràng rằng những
giáo pháp của đức Phật sẽ chúng ta đến con đường giải thoát nếu chúng ta biết thực

hành trọn vẹn và bằng chánh kiến, chánh tư duy. Pháp còn là nguyên lý của vạn pháp,
là thực sẽ tướng của vạn pháp. Nguyên lý hay thực tướng của vạn pháp, đó là gì? là
Dun sinh – Vơ ngã.
“Do cái này có mặt, nên cái kia có mặt.
Do cái này không nên cái kia không.
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt”
Cũng như niềm tin về Phật bảo, tin Pháp bảo tức là tin vào công năng của các pháp
được đức Phật dạy đưa chúng ta vượt qua khỏi bến bờ mê vọng, khổ đau. Niềm tin đó
được xác quyết bằng chính những kinh nghiệm của đức Phật, của lịch đại tổ sư, và của
chính bản thân chúng ta nếu chúng ta thành thật thực hành. Niềm tin vào pháp sẽ soi
sáng cho niềm tin về đại thừa luôn luôn vững chắc, không lầm lẫn, không sai lạc. bởi
tin vào pháp tức là chúng ta đang đặt niềm tin vào những nguyên lý chắc thật, những
định luật khách quan và chân chính nhất trong vũ trụ này. Thế nên, trong q trình tu
tập, phát khởi tịn tín, nếu khơng nương tựa vào pháp thì chúng ta khơng thể nương
nhờ vào đâu để niềm tin chúng ta được thành tựu viên mãn.Chúng ta đều biết rõ, niềm
tin của Phật giáo nói chung và niềm tin về Đại thừa nói riêng đều đặt trên cơ sở của
chánh tín, của trí tuệ. Tức nhiên là chúng ta chỉ tin vào những điều mà chư Phật, tổ sư
đã đạt, và chúng ta cũng chỉ tin vào những điều mà kết quả của quá trình tu tập ấy sẽ
diễn ra một cách rất tự nhiên và rõ ràng. Vì thế, nếu khơng có giáo pháp, nếu khơng có
những ngun lý được diễn giảng trong giáo pháp của Phật thì niềm tin của chúng ta
khơng thể được thành lập, niềm tin về đại thừa cũng không thể tồn tại, và nếu có
chăng chúng chỉ là những niềm tin mang bóng dáng của sự mê tín mà thơi. Tin Pháp
bảo có khả năng xác quyết niềm tin tịnh tín của chúng ta như thế.
2.2.3. Niềm tin vào Tăng bảo
Tin tăng bảo bởi vì tăng là đồn thể ln sống đúng với chân như, tin Tăng cũng chính
là tin vào khả năng mình có thể tánh thanh tịnh, sống đúng với chân như đó. Ấy là đời
sống thực nghiệm tâm linh và sự thoát xác ra khỏi những triền phược.Vì đó là thể tính
của Tăng. Như vậy tin Tăng là tin ở khả năng của chính mình có thể tự giải thoát bản
thân ra khỏi những khổ não, đồng thời cùng giúp cho tha nhân hướng về đời sống an

lành, Thánh thiện, cũng như tin vào chính đồn thể thanh tịnh từ lớp người đi trước,
tin vào những công đức lành, vào sự thanh tịnh của tất cả chúng sanh. Tin tăng không
chỉ đơn giản là tin vào những người đi trước, là những người sống với lời Phật dạy,
mà còn là niềm tin vào sự trong sáng, là đức tính thanh tịnh hằng hữu trong tất cả mọi
người.Niềm tin về tăng bảo như thế, một lần nữa lại khẳng định về khả năng thanh
tịnh của tất cả chúng sanh, khẳng định về khả năng có thể thành tựu được đạo nghiệp
của tất cả mọi người. và niềm tin về tăng cũng chính là tin về cái tâm trong sáng, tâm
đại thừa của chính tất cả chúng ta.

10


CHƯƠNG 3
ỨNG DỤNG ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN TRONG ĐỜI SỐNG
Theo Maslow[4], về căn bản, nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm chính:
nhu cầu cơ bản và nhu cầu bậc cao .Nhu cầu cơ bản liên quan đến các yếu tố thể lý
của con người như mong muốn có đủ thức ăn, nước uống, được ngủ nghỉ... Những
nhu cầu cơ bản này đều là các nhu cầu khơng thể thiếu hụt vì nếu con người khơng
được đáp ứng đủ những nhu cầu này, họ sẽ không tồn tại được nên họ sẽ đấu tranh để
có được và tồn tại trong cuộc sống hàng ngày.Các nhu cầu cao hơn nhu cầu cơ bản
trên được gọi là nhu cầu bậc cao. Những nhu cầu này bao gồm nhiều nhân tố tinh thần
như sự địi hỏi cơng bằng, an tâm, an tồn, vui vẻ, địa vị xã hội, sự tơn trọng, vinh
danh với một cá nhân v.v.Các nhu cầu cơ bản thường được ưu tiên chú ý trước so với
những nhu cầu bậc cao này. Với một người bất kỳ, nếu thiếu ăn, thiếu uống... họ sẽ
không quan tâm đến các nhu cầu về vẻ đẹp, sự tôn trọng...Tuy nhiên, tuỳ theo nhận
thức, kiến thức, hoàn cảnh, thứ bậc các nhu cầu cơ bản có thể đảo lộn. Khảo sát từ
kinh tạng Phật giáo và qua cuộc đời của những vị cư sĩ tiêu biểu thời Phật cho thấy,
mẫu hình người cư sĩ lý tưởng được Đức Phật đề cập khá cụ thể và chi tiết. Theo Phật
giáo, một người cư sĩ để đáp ứng những nhuc cầu của mình thì phải hồn thiện bốn
phẩm chất cơ bản: Ổn định về kinh tế; trang nghiêm về giới hạnh; thăng bằng và điều

hòa; hộ pháp và hoằng pháp.
3.1.Ổn định về kinh tế
Theo Đức Phật, đời sống của con người có 4 loại thức ăn đó là đồn thực, xúc thực, tư
niệm thực và thức thực. Loại thức ăn đầu là Đoàn thực, nghĩa là loại thức ăn đưa vào
đường miệng. Điều kiện tồn tại của chúng sanh là thức ăn trong nghĩa rộng nhất của từ
ngữ. Ở đây, sự ổn định và vững chãi về kinh tế là điều kiện cơ bản cho mọi sự tồn tại
của một con người nói chung và người cư sĩ nói riêng. Hơn thế, với một người cư sĩ,
ngoài vật thực nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại, thì cần phải có những bổn phận tương
ưng trong các mối quan hệ của mình.Cụ thể, người cư sĩ cần phải có nền tảng kinh tế
vững vàng nhằm đem lại an lạc cho cha mẹ, vợ con và những người thân liên quan.
Người cư sĩ tạo sinh kế và điều kiện sống cho kẻ khác, đem lại lợi ích, an lạc, hạnh
phúc cho kẻ khác, được Đức Phật gọi là bậc chân nhân. Chiêm nghiệm sâu thêm về
gia cảnh của các vị đại thí chủ tiêu biểu trong thời Đức Phật như Anathapindika,
Visakha, Màtikamàtà, Vimalakirti… cho thấy rằng, họ là những cư sĩ có một nền tảng
kinh tế khá ổn định và vững vàng.Một đời sống tự chủ về kinh tế thì sẽ ngăn ngừa
cũng như phịng hộ một số loại phiền não, tránh được những thúc bách liên quan đến
nhu cầu vật chất thường gặp, trong đời sống thường nhật của một cư sĩ tại gia. Theo
Đức Phật, nghèo khổ là một phiền não. Vì nghèo khổ góp phần “tương tục” làm xuất
sinh nhiều chủng loại phiền não “tâm nhiễm ô” khác như bị mắc nợ, bị hối thúc, bị
truy đuổi, bị đe dọa tính mạng, bị khủng bố.... Đây là do “vô minh nghiệp tướng” có
thể do nhiều kiếp chúng ta khơng có biết bố thí cúng dường mà kiếp này nghèo khó,do
vơ minh khơng thấy nguyên nhân của việc tin nhân quả nghiệp báo,không nghe
pháp,tụng kinh,ngồi thiền,sám hối để chuyển nghiệp lâu ngày dẫn tới “ nghiệp hệ khổ
tướng”.Luận nói từ vơ minh vọng động, sanh ra 3 món Tế[5], là Nghiệp tướng (nghiệp
thức), Chuyển tướng (chuyển thức), Hiện tướng (hiện thức) và hai món Thơ là Trí
tướng (trí thức) và Tương tục tướng (tương tục thức).Năm cái "ý" này có cơng năng
giữ gìn thiện ác, quả báo khổ vui hiện tại và vị lai, làm cho khơng mất (đó là cơng
11



năng trì chủng chấp thọ thân căn thế giới và kiết sanh tương tục của thức A đà na);
nhớ nghĩ những việc đã qua và lo tính những điều chưa đến (đó là cơng năng của thức
thứ 6), và một dịng sanh diệt, tiếp tục từ trước đến sau khơng gián đoạn, gọi đó là "ý".
nên Cổ nhơn làm bài thơ có câu rằng: "...Nhứt ba tài động vạn ba tuỳ ..." (một lượng
sóng vừa nổi lên, thì trăm ngàn lượng sóng đều nổi theo).Với người cư sĩ, Đức Phật
ln khuyến khích họ nỗ lực mưu sinh bằng khả năng riêng có và điều kiện nghiệp lực
của riêng mình.Trong tích truyện pháp cú tập I - Bài Trưởng lão Tâm sai sử Một
chàng trai thuộc gia đình khả kính sống ở thành Xá-vệ, vào rừng kiếm con bò bị lạc.
Sau khi tìm ra bị, anh đói q bèn tìm đến tinh xá xin thức ăn. Ăn xong anh nhận ra
rằng, dù lao động vất vả anh cũng không thể kiếm ra thức ăn ngon như ở tinh xá, ở đó
lại khơng phải lao động cực nhọc, vì thế anh xin xuất gia.Sau khi xuất gia, ăn uống no
đủ phì béo rồi, anh lại chán đời sống khất thực và muốn hoàn tục. Hoàn tục rồi, làm
việc cực nhọc, thân thể tiều tụy, anh lại muốn xuất gia. Xuất gia xong, lại bất mãn và
hồn tục. Do khi cịn trong Tăng chúng, anh thường làm việc chăm chỉ và hay giúp đỡ
mọi người, nên dù xuất và hoàn đến sáu lần, anh vẫn được chấp nhận trở lại. Và anh
được đặt tên là Cittahattha. Cittahattha, có nghĩa là người bị tâm sai sử.Lần thứ bảy,
khi trở về nhà, lòng đang phân vân ray rứt vì việc hồn tục của mình, thì trơng thấy vợ
đang có thai nằm ngủ, miệng mở toang hốc, ngáy vang trời, nước miếng nhễ nhãi,
trơng chẳng khác gì một tử thi đang trương phồng. Anh nhận ra mọi thứ ở thế gian đều
vô thường và đau khổ, thứ gì cũng có thể thay đổi. Thấy rồi, anh nắm chiếc y vàng
chạy vội về tinh xá.Trên đường đi, anh ôn lại câu “Các pháp trong thế gian đều vơ
thường, trói buộc, trong đau khổ” và chứng quả Dự lưu. Nhưng đợt này khi xin gia
nhập lại Tăng đoàn, anh bị từ chối quyết liệt. Anh phải năn nỉ mới được trở lại. Vài
ngày sau, anh đắc quả La-hán Thấy xuất gia được ăn ngon, mập mạnh mà không cần
phải làm lao động cực nhọc, hay thấy thân thể bất tịnh của vợ mà nhận ra sự vô
thường v.v… đều gọi là tri kiến. Tri kiến là thấy biết. Có loại tri kiến dẫn con người
vào chỗ bất thiện, không tránh được phiền não và khổ nạn trong hiện tại và tương lai,
như loại tri kiến đầu của chàng thanh niên. Có loại tri kiến dẫn con người vào Thánh
đạo, như tri kiến vô thường của chàng thanh niên. Nó chính là loại tri kiến đang được
đề cập ở phần này. Đó là loại tri kiến giúp diệt tận phiền não. Vì nó hình thành do

“như lý tác ý”. Nhờ nó mà mê lầm chấm dứt và tham, sân, si hoại diệt. Nhờ nó mà
chàng trai chứng Thánh quả.Theo Đức Phật,ngồi năm nghề nghiệp bất chánh như
bn bán đao kiếm, buôn bán người, buôn bán thịt, buôn bán rượu, buôn bán thuốc
độc mà người cư sĩ không nên làm, thì cụm từ bất cứ nghề gì được ghi lại trong kinh
Tăng chi đã xác quyết, Đức Phật cho phép người cư sĩ tại gia được quyền mưu sinh
bằng tất cả khả năng cũng như mọi điều kiện có thể, nhằm xây dựng một nền tảng
kinh tế ổn định và bền vững.Ngoài việc thừa nhận hạnh phúc về sở hữu và được
quyền thọ hưởng vật sở hữu của người cư sĩ tại gia, thì Đức Phật đã từng bước khuyến
khích hàng cư sĩ nên nỗ lực tìm kiếm những thứ hạnh phúc cao, bền vững hơn. Cụ thể
như những hoạch định nhằm đem lại an lạc cho tha nhân, dấn thân vì lợi ích cho cộng
đồng cũng như phát tâm hộ trì Tam bảo.Để hồn tất những bổn phận cần làm của
người cư sĩ, cũng như thể hiện những ước nguyện đáng quý và thanh cao, thì điều kiện
quan trọng đối với hàng cư sĩ tại gia, là phải ổn định về kinh tế.
3.2.Trang nghiêm về giới hạnh
Cùng song hành với niềm tin Tam bảo, người cư sĩ cần phải hoàn thiện những nguyên
tắc đạo đức căn bản “huân tập hướng thượng” , được gọi là giới hạnh như con đã
12


trình bày ở phần chương 2.Khơng những thế, ngồi năm nguyên tắc mang tính cố
định, mẫu mực nêu trên, trong thực tế đời sống, người cư sĩ đúng mực cần phải thực
hiện theo mười chuẩn mực đạo đức mang tính bổ trợ như: khiêm hạ, tàm quý, trung
thực, kiên định, khơng phóng dật, nhẫn nhục, biết ơn, bng xả, dấn thân và tiết tháo.
Đây là những chuẩn mực đạo đức mang tính bổ trợ, được Đức Phật tùy thuận thuyết
giảng rải rác trong kinh.Đức Phật đã có những lưu ý đặc biệt về môi trường sống, về
quan hệ giao lưu bạn bè,làm bạn với thiện là thân cận với những vị có giới đức, có
niềm tin; giao lưu và học tập theo gương của các vị đó. Hằng ngày chúng ta "huân
tập" không biết bao nhiêu việc huân tập cái gì thành ra cái nấy. Huân tập cái xấu
nhiều, thành ra người xấu, Huân tập[6] cái tốt nhiều, thành ra người tốt. Vào hàng bán
hương chiên đàng, được xông ướp mùi thơm, thì ta thơm. Vào hàng bán thịt cá, bị ướp

mùi tanh hơi, thì ta hơi. Gần gũi người hiền huân tập đức tánh tốt, thì ta thành người
lương thiện; gần gũi kẻ ác, huân tập theo tánh hung dữ, ta thành người bạo ác. Bởi thế
nên ngạn ngữ có câu: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sang" hay “Hãy cho tôi biết bạn
của bạn là ai, tôi sẽ cho bạn biết bạn là người như thế nào.”. Hằng ngày chúng ta
chung đụng, gần gũi, lân la không biết bao nhiêu hạng người, chúng ta phải thận trọng
về sự huân tập này. Huân tập Phật (chơn như) thì được thành Phật, hn tập chúng
sanh (vơ minh) thì làm chúng sanh. Huân tập có bốn loại:(Chơn như huân tập, vô
minh huân tập, vọng tâm huân tập ,vọng cảnh huân tập).Một thói quen tốt sẽ góp phần
định hình tính cách tốt. Thói quen tập thể dục tạo ra tính cách siêng năng, thói quen
đọc sách sẽ tạo ra tính cách lịch lãm; thói quen giúp người tạo ra tính cách nhân hậu.
Một tính cách tốt sẽ tạo ra số phận tốt; siêng năng học tập và làm việc sẽ có tương lai
tốt đẹp. Tính cách nhân hậu hay giúp người thì được người giúp đỡ lại, sẽ có cuộc đời
vui vẻ, tốt đẹp. Một thói quen xấu sẽ hình thành tính cách xấu. Thói quen ỷ lại sẽ tạo
nên tính cách thụ động; thói quen ưa khốc lác sẽ tạo nên tính cách thiếu trung thực.
Tính cách xấu sẽ nhận lại một số phận xấu, “gieo nhân nào gặt quả nấy”. Hành động
hại người sẽ bị báo ứng mai sau. Phẩm hạnh đạo đức sở dĩ có được là do hành trì. Với
một người cư sĩ tại gia, việc áp dụng lời dạy của Đức Phật trong thực tiễn đời sống,
cũng như có được một pháp mơn,phương tiện căn bản trong Đại thừa khởi tín luận để
hành trì, là điều rất mực quan trọng.Muốn vậy, thứ nhất là mình hạn chế những hạt
giống bất thiện vào trong tâm thức.Thứ hai là dù đã đưa vào rồi thì mình tu tập có trí
tuệ để đẩy xuống hoặc hạn chế dun để khởi lên.Thứ ba là lỡ khởi lên rồi thì tìm
cách dập tắt càng sớm càng tốt. Hầu hết các căn cơ ở đời có tập khí bất thiện tầm để
lại từ quá khứ, và tập quán bất thiện tầm đến từ ảnh hưởng của văn hóa xã hội đương
thời quá mạnh nên sự tác ý đến mối nguy hiểm của bất thiện tầm, hoặc sự tác ý đến
thiện tầm, không đủ sức mạnh giác tỉnh để tiêu diệt các bất thiện tầm ấy. Thời cổ đại,
khơng chỉ những người có địa vị tôn quý hay quan lại mới thực hành theo các kinh
điển của bậc Thánh hiền, mà ngay cả dân thường cũng đều học hỏi kinh điển về đạo
làm người, tu tâm dưỡng đức. Họ luôn nghiêm khắc yêu cầu bản thân trừ bỏ các dục
vọng, tẩy tịnh những suy nghĩ xấu, mong mỏi đạt đến cảnh giới “chí thiện”. Trong
cuốn “Tập phúc tiêu tai chi đạo” có ghi câu chuyện về Triệu Khang Tĩnh thời Tống rất

đặc biệt như sau.Triệu Khang Tĩnh là người vô cùng coi trọng tu tâm dưỡng tính, vứt
bỏ những suy nghĩ xấu để đạt đến cảnh giới nội tâm thuần tịnh. Ông nỗ lực học tập và
làm người chiểu theo lời dạy của các bậc Thánh nhân.Để tẩy tịnh tâm linh, đạt đến
cảnh giới thuần tịnh, Triệu Khang Tĩnh lấy một chiếc bình để đựng đậu đen và đậu
trắng, từ đó tự kiểm tra và nỗ lực đề cao tâm tính của mình. Mỗi khi thấy mình khởi
13


lên một thiện niệm thì ơng cho một hạt đậu trắng vào trong bình. Cịn khi khởi lên một
ác niệm thì ơng cho một hạt đậu đen vào trong bình.Lúc bắt đầu làm như vậy thì trong
chiếc bình chứa hầu như toàn là đậu đen. Triệu Khang Tĩnh thấy vậy thì càng thường
xuyên suy xét những chỗ sai của mình, tự hối hận, không ngừng tu chỉnh. Cùng với
việc tu dưỡng bản thân của Triệu Khang Tĩnh thì đậu đen dần dần giảm đi và đậu
trắng dần dần tăng lên.Lâu dần nội tâm của Triệu Khang Tĩnh trở nên thuần tịnh,
thuần tịnh đến mức khơng có ngay cả niệm thiện hay ác, tiến nhập vào trạng thái
“không nghĩ về thiện, không nghĩ về ác”, đạt tới cảnh giới “tâm không có tạp niệm,
thuần tịnh tự nhiên”. Chiếc bình từ đó cũng khơng cịn được dùng đến nữa.
3.3.Thăng bằng và điều hịa
Một đời sống ổn định, có khí lực sung mãn thì phải có một sự điều tiết thăng bằng và
điều hòa thân, tâm. Điều thân cũng là một vấn đề quan trọng trong đời sống cũng như
trong tu tập. Vì lẽ, nếu như thân không khỏe mạnh, bệnh tật liên miên, tất sẽ gặp nhiều
trở ngại trong cuộc sống đời thường cũng như trong lộ trình tu tập.Ví dụ mình có tật
xấu,biết mà khơng bỏ được Có lúc mình đầu hàng, có lúc thất vọng, nuối tiếc, có lúc
tưởng chừng không bỏ được. Tu là làm điều lành, dừng các điều ác nhưng dừng khơng
dễ, vì sao? Dừng việc ác là việc chúng ta phải làm vì tu hành là cải hành vi, cải ác
tùng thiện, cải phàm thành thánh, cải chúng sanh thành Phật và phải sửa cái xấu ác
thành cái tốt. Muốn sửa thì trước tiên phải dừng lại nhưng khó dừng lại vì :Do Tập
qn nghiệp, tích lũy nghiệp (cái đà nghiệp).Do bản chất phàm phu, phàm tánh. Tu là
nghịch lưu, ngược dịng sinh tử. Xi dịng sinh tử dễ hơn ngược dòng nên chuyện
xấu ác dễ lây nhiễm hơn việc tốt. Mắt tai mũi lưỡi thân ý thích khối lạc hơn, theo cái

đà của nghiệp. Ăn ngon thì thích hơn ăn dở, nghe thì thích nghe nhạc hơn nghe pháp.
Ví dụ tật nóng tánh, tật tám chuyện vơ bổ rất khó bỏ. Rất nhiều căn bản phiền não
đang ngủ ngầm mà mình khơng biết. Gặp cảnh, gặp cơ hội con quái thú này mới thức
dậy quấy phá mình. Mình lại khơng có chuẩn bị trước nên khó chống lại nổi.Kế nữa là
Mơi trường mình đang sống là ngũ trược ác thế, không phải Tây Phương tịnh độ. Mơi
trường tác động đến mình .Để bỏ các tật xấu khó bỏ này ,trước hết mình phải có chánh
kiến nhận diện,phải biết điều đó chắc chắn là ác.Biết tác hại của nó. Ví dụ biết tác hại
của việc tám chuyện là huynh đệ tương tàn nên dừng việc tám lại. Tu là chuyển
nghiệp. Có câu nói : “Gieo suy nghĩ, gặt hành động; Gieo hành động, gặt thói quen;
Gieo thói quen, gặt tính cách; Gieo tính cách, gặt số phận.” Vì vậy, nên gieo suy nghĩ,
lời nói theo một chiều hướng tích cực sẽ có lực để dừng lại. Tu tập để tạo một phản
lực đối với những lực của nghiệp, của môi trường. Tàm quý và biết chấp nhận thất bại,
biết tha thứ cho cái sai của mình để làm lại.Dừng khó nhưng phải làm vì chỉ có cách
này mới trừ nhiễm ô, mới ra khỏi luân hồi sanh tử. Phải thành thật đối diện với chính
mình, xem cái ngã của mình đã giảm chưa, đam mê câu hữu với ngã đã dừng lại chưa.
Thân là chỗ trú của tâm. Thân mượn tâm, tâm mượn thân cùng câu hữu, hợp tác,
tương tức, tương tồn trong giai đoạn sự sống kiếp người.Tuy nhiên, có thời điểm thân
cũng tồn tại độc lập. Đó là giai đoạn thân chờ tái sanh. Ở cõi Vô Sắc giới, Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, Diệt thọ tưởng định khơng có thân.Trong cuộc sống tương tác, tâm
phải mượn các giác quan mắt tai mũi lưỡi thân để tác động cảnh bên ngoài.Tâm mượn
thân để tiếp xúc với trần cảnh. Ngược lại thân cũng phải mượn tâm để tiếp xúc với
cảnh; nếu không mượn tâm, thân tiếp xúc cảnh khơng biết cảnh là gì, như một người
máy tiếp xúc cảnh.“Tinh thần minh mẫn trong một cơ thể tráng kiện” : Thân khỏe
mạnh thì tâm mới an. Ví dụ trước ngày thi cần nghỉ ngơi, thư giãn để cơ thể khỏe
14


mạnh, vào phòng thi mới làm bài tốt. Phải giữ thân trung đạo, không quá ép xác
nhưng cũng không quá cưng quý thân. Thân đau thì tâm, tinh thần cũng xuống.Tâm
góp phần tạo ra thân.Vì vậy trong mối quan hệ giữa ăn uống và sức khỏe mình phải có

sự điều hịa, tiết độ trong ăn uống, trong cơng việc, trong thú vui giải trí, … cịn trong
đời sống gia đình làm sao mình phải cân bằng trong việc kiến tiền và nuôi dạy con cái,
việc quan tâm và dạy dỗ con cái cũng là trọng trách không thể thiếu của cả ơng bố và
bà mẹ. Đơi khi mình mải mưu toan sự nghiệp mà quên rằng, có những đứa con đang
nếm trải cơ đơn ngay trong chính gia đình mình. Bất hạnh này có thể bắt gặp từ những
bài báo gần đây nói về nhiều trường hợp các em học sinh nhảy lầu tự tử ví dụ:Em
L.N.N.M.(16 tuổi) trú tại một căn hộ tầng 28. Nạn nhân đang học lớp 10 tại một
trường THPT chuyên có tiếng ở Hà Nội. Trước khi nhảy lầu tự tử, N.M. có để lại thư
tuyệt mệnh. Cùng ngày hơm đó, tại Bắc Ninh, một nữ sinh lớp 8 được gia đình phát
hiện tử vong trong tư thế treo cổ cùng lá thư và nhật ký nói rằng "mình sắp đi
xa"...Bài viết “Vụ nam sinh nhảy lầu tự tử: 'Có trẻ học rất giỏi nhưng bất ngờ rơi vào
vực thẳm trầm cảm”đăng trên báo Việt Nam net 02/04/2022.Vì vậy bản thân mình
phải ý thức một đời sống thăng bằng và điều hòa với bản thân, với gia đình, trong
các mối quan hệ xã hội… là một việc vô cùng quan trọng trong đời sống người Phật tử
nói riêng cho mọi người nói chung.
3.4.Hộ pháp và hoằng pháp
Trước hết, trong vai trò hộ pháp, người cư sĩ cần hỗ trợ các điều kiện sinh hoạt cho
quý Thầy,Cơ đó là tứ sự cùng dường như đồ ăn uống, quần áo, thuốc men, vật trải tọa
thiền (luôn cả mùng mền) để chư tăng có đủ phương tiện tu tập thực hành đạo giải
thốt.Ngồi ra mình cịn phải biết ý thức gìn giữ các phương diện liên quan đến Tam
bảo như kinh điển, chùa chiền, Tăng sĩ và thanh danh của Giáo hội. Trên phương diện
hoằng pháp, trước hết, người cư sĩ phải “huân tập hướng thượng” tự mình hoàn thiện
những phẩm hạnh đạo đức tự thân, nỗ lực trang bị cho mình những kiến giải cơ bản về
pháp Phật. Câu chuyện cảm động về việc giải thuyết cho nhau nghe về pháp Phật,
trong lúc người thân bệnh nặng, của đôi vợ chồng Nakula, là một bài học sống động
về Phật hóa gia đình. Tự mình ứng dụng Phật pháp và trang bị chất liệu đó cho những
người thân, là trách vụ hoằng pháp đầu tiên của hàng tại gia cư sĩ..Sau đó đem chia sẻ
lợi ích trong việc tu tập chia sẻ những người xung quanh ,rủ họ tham gia các khóa
tu,đi làm từ thiện... ngồi ra mình có thể tận dụng thế mạnh của mỗi mình như giỏi
văn nghệ mình có thể sáng tác văn thơ,bài hát ca ngợi Tam bảo...có câu nói: “Nếu Đức

Phật khơng phải là bạn thì Đức Phật khơng phải là điều mà bạn quan tâm ,nếu Đức
Phật là điều bạn quan tâm thì chính bạn là một vị Phật”.Cuộc sống có nhiều cám dỗ,
nhiều khó khăn thử thách trên đường đời của mỗi người, chúng ta hãy ln cố gắng
hết sức mình để hồn thiện cơng việc, mục tiêu mà bản thân mình đề ra. Mỗi người
cần có nhận thức đúng đắn về hành vi xấu, trái với đạo đức và tránh xa chúng nhiều
nhất có thể để giữ cho bản thân mình phẩm chất chính nghĩa. Nếu xã hội này ai cũng
hướng đến, cố gắng đạt được những điều tốt đẹp và tránh xa những cái xấu thì sẽ ngày
càng văn minh hơn. Là một công dâ, chúng ta cần rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp
thông qua việc giúp đỡ người khác bằng những việc làm tích cực, dù là nhỏ nhất. Bên
cạnh đó, chúng ta cần tránh xa, lên án và phê phán những hành động gây ảnh hưởng
tiêu cực đến mọi người xung quanh có như vậy xã hội mới trở nên tốt đẹp và đáng
sống hơn. Mỗi người chỉ được sống một lần, hãy sống thật trọn vẹn và trở thành một
người có ích cho xã hội.
15


C.KẾT LUẬN
Khởi tín cốt nói về Chân như. Nói thật khéo, không kinh sách nào bằng.Phật học đại
từ điển của Đinh Phúc Bảo, trang 699-701, tổng quát mọi học lý về Tâm nói có 6 thứ.
Thứ 1, nhục đồn tâm, là quả tim khối thịt. Thứ 6, tinh yếu tâm, là tinh hoa cốt lõi.
Thứ 5, kiên thật tâm, là chân như các pháp. Thứ 2, tập khởi tâm, là thức thứ 8. Thứ 3,
tư lượng tâm, là thức thứ 7. Thứ 4, duyên lự tâm, là thức thứ 6. Thứ 1, thứ 6 và thứ 5,
Phạn tự là hrdaya. Thứ 2, thứ 3 và thứ 4, Phạn tự thứ tự là citta, mana và
vijnapti.Thơng thường nói Tâm chỉ nói qua duyên lự tâm (tư duy, tư tưởng). Sâu hơn
chút nữa cũng chỉ nói thấu tư lượng tâm (tự ý thức tự ngã). Nhưng trong Phật học,
kiên thật tâm mới quan trọng. Nó là chân như (tự tánh thanh tịnh tâm), bản thể của tất
cả thứ tâm kia (của tất cả các pháp). Chính vì vậy mà Mật tổng qn ngay quả tim là
hoa sen, Thiền tông thấy đương xứ tiện thị, gì cũng Tâm cả.Chân như này là cái Khởi
tín nói đến. Khởi tín cho ta thấy bản thể của ta là Chân như. Chân như ấy cực kỳ siêu
việt mà lại cực kỳ linh hoạt. Chúng ta có thể nói con người chúng sinh phong phú bao

nhiêu thì cũng tạm đủ để biết con người chứng ngộ phong phú bấy nhiêu. Khối nước
là khối băng chứ không chi khác.Trong nguyên lý tu tập, sự huân tập rất quan trọng.
Duy thức học không cho Chân như là sở huân. Khởi tín trái lại, nói Chân như là căn
bản của sự huân tập. Luận này đem lại 2 đức tin căn bản sau đây. Một, tự tín bản thể là
Chân như. Chân như có thể năng huân, có thể sở huân. Do vậy mà chán ưa của ý thức
rồi ra sẽ biết chán sinh tử ưa giải thoát, mà ý chí của ý rồi ra sẽ là tinh tiến dũng mãnh
… Hai, tin biểu hiệu Chân như là Phật, ở đâu và lúc nào cũng có bên ta, thậm chí có
khi làm tơi tớ, làm kẻ thù để ích lợi cho ta. Khởi tín nói rằng, trong Chân như (nơi ta
và nơi Phật) ta được sống dẫu như một kẻ đui mù mà vẫn hưởng được ánh nắng mặt
trời. Khởi tín khuyến cáo ta tu ngay vào Chân như : tu định Chân như, suy nghiệm
Chân như là siêu việt và hoạt dụng. Lại nói nếu niệm Phật Di đà mà suy ngẫm Chân
như của Ngài thì là định Chân như đó.Khởi tín đưa ta lên tột đỉnh của sự tự tín, xác
quyết rằng chúa tể của ta chính là ta đây.Nên nói sơ lược về nội dung Khởi tín luận.
Luận này cốt hệ thống hóa học lý đại thừa, nói thẳng đại thừa là Tâm chúng sinh. Đại
thừa khởi tín khơng có nghĩa nhiều rằng phát khởi đức tin đối với đại thừa, mà nghĩa
chính là phát khởi đức tin đại thừa: đức tin tin cái Tâm đại thừa.Tâm đại thừa được ví
dụ như nước. Nước gồm có nước, có tính ướt của nước, có sóng của nước. Thể của
tâm như tính ướt, tướng của Tâm như nước, dụng của tâm như sóng. Tự tín về Tâm ấy
là như Lăng nghiêm đã nói: Ai cũng tự biết Tâm khắp mười phương. Thấy không gian
mười phương chỉ như chiếc lá trong lòng bàn tay. Vũ trụ vạn hữu đều là Tâm. Tâm
bao hàm tất cả. Nhìn lại cái thân do cha mẹ sinh ra thì thấy chỉ như hạt bụi trong
khơng gian. Thân ấy cịn hay mất chỉ như cái bọt nổi lên hay tan mất trong biển cả .
Tâm là như vậy nên thân tâm, và vũ trụ của thân tâm, chỉ toàn là biểu hiện của Tâm.
Tâm ấy Khởi tín luận hay gọi là nhất tâm : cái Tâm đồng nhất –giữa các pháp với các
pháp, giữa chúng sinh với chúng sinh, giữa chúng sinh với Phật đà.Tâm ấy thì thượng
đế hay phiếm thần, bản ngã với tự ngã, tất cả đều khơng đáng gì để nói với Nó. Do
vậy, với ngã, Phật giáo có túng có đoạt. Đoạt thì phủ nhận triệt để, túng thì như Đại
niết bàn nói, ngoại đạo nói ngã thì chỉ như sâu ăn lá ngẫu nhiên thành chữ mà thôi
.Đức tin đại thừa là tin vào thể tướng dụng của Tâm. Tâm ấy vĩ đại, Tâm ấy đưa
những bâểc vĩ đại đạt đến vị trí vĩ đại. Đó là sự tự tín không phải như đức tin của tôn

giáo thượng đế hay ý thức về ngã. Tin Phật, đấng thực chứng về Tâm, khai thị Tâm ấy,
16


và hộ trì để cho người khác cũng tin tưởng và thực chứng được Tâm ấy, tin Phật như
vậy, và đức Phật được tin như vậy, cũng là biểu hiện của đức tin đại thừa mà khơng có
gì so sánh được. Khởi tín luận khơng những đặc biệt đối với nguyên thủy và bộ phái,
mà đối với chính đại thừa, luận ấy cũng vẫn đặc biệt khi nói thẳng rằng đại thừa là
Tâm chúng ta đây.Trong 2 loại đầu, khi nói về Tâm thì pháp số căn bản là 5 uẩn. Pháp
số này cho thấy đó là triết thuyết nhị nguyên . Tâm trong triết thuyết này chỉ là 6 thức.
Rồi, với dun sinh quan cái này có thì cái kia có, 6 thức và 6 cảnh tương quan với
nhau, và được gọi là 6 nhập (do vậy, nói khơng khéo thì duyên sinh quan là duy vật
luận). Nên ngay 6 thức cũng khơng thuyết minh gì sâu và rộng như Duy thức học nói
đến tánh cảnh, hiện lượng, thành sở tác trí và diệu quan sát trí, càng khơng có gì sâu
và rộng như Khởi tín luận nói về thỉ giác. Và trong 1 pháp số căn bản hơn nữa là 4 đế
thì vấn đề khởi nguyên và chung cục (niết bàn) cách nói cao nhất cũng chỉ nói là
những vấn đề bất ký (hay trí đáp: vấn đề không cấp bách, không đặt ra, không giải
đáp, hay giải đáp bằng sự không giải đáp, không đặt ra). Tâm, tức 6 thức, kết cục là
như thế. Và như thế thì gọi là giản dị cũng phải, dầu cố nói phiền toái như Đại tỳ bà sa
hay Câu xá luận thì thực chất cũng vẫn rất đơn sơ.Đại thừa cho thấy, ngay trong duyên
sinh quan, Tâm là chủ đạo, và Tâm không thể chỉ là 6 thức, mà 6 thức và 6 cảnh của 6
thức toàn là hiện hành của a lại da. Tâm như thế này sung mãn mọi khả năng mà giặc
hay con đều là Nó: chúng sinh hay Phật đà chỉ là nghịch dụng hay thuận dụng của
Tâm. Ấy thế cho nên chúng sinh phong phú bao nhiêu thì Phật đà càng phong phú hơn
bấy nhiêu, niết bàn là sự lật ngửa của cái bàn tay hết lật úp, chứ khơng có nghĩa khơng
có gì và khơng thể nói gì. Tâm như vậy là đại thừa, giáo lý diễn tả Tâm như vậy là
giáo lý đại thừa, và Phật giáo, nhất là Phật giáo của chính Phật nói, khơng thể khơng
có cái đại thừa ấy mà được gọi là Phật giáo.Tâm ấy mới đúng là duy tâm của Phật
giáo đại thừa, và chữ Tâm ấy đừng đem chữ tâm hay bất cứ chữ gì khác, của bất cứ ai
mà nói về Nó. Sau hết, nên nói sơ lược về đại thừa, về vị trí của Mã minh đại sĩ và

Khởi tín luận, trong đại thừa ấy . Mọi tư tưởng Lăng già, Bát nhã, Niết bàn, Hoa
nghiêm, Pháp hoa, Thiền, Tịnh, và cả Pháp tướng duy thức sau đó nữa, Khởi tín luận
có đủ tất cả –có trong một sự đan kết với nhau, xứng đáng và thừa sức để gọi đó là
một tư tưởng hệ. Con xin một lần nữa tri ân Tam bảo,tác giả bộ luận và giáo thọ bộ
môn.Qua môn học này giúp con có niềm tin vào pháp mơn tu tập của mình ,niền tin
vào sự giác ngộ và giải thốt của mình như câu nói: “Khơng có con đường nào dẫn
đến hạnh phúc nhưng hạnh phúc chính là con đường”. Nói tóm lại Luận Đại thừa khởi
tín của tổ Mã Minh là một bộ luận rất hữu ích, cần thiết cho những Phật tử muốn có
lịng tin xác đáng vào Đại thừa nói chung, và Thiền tơng nói riêng

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chú thích:
[1].Lời nói đầu trong tác phẩm thực hành luận đại thừa khởi tín,tác giả đương đạo
Nguyễn Thế Đăng,NXB Tơn giáo.
[2].Bài giảng của TT.Thích Nhật Từ trường cao đẳng Phật học.
[3].Tâm chân như, chân:chân chánh,như :không thay đổi theo không gian thời gian.
Tâm Chân Như là tâm chân chánh,thuần chơn không bị thời gian thay-đổi, không
gian. Tâm Chơn như cũng gọi là "Chơn tâm" hay "Viên giác".Nhứt pháp giới đại tổng
tướng pháp môn thể. Nhứt pháp giới là "Thể" của tâm Chơn như.Đại tổng tƣớng là
"Tướng" của tâm Chơn như.Pháp môn là "Dụng" của tâm Chơn như".Ngược lại Tâm
Sinh Diệt” còn được gọi là vọng tâm, vọng niệm, bị thay-đổi, theo thời gian không
gian ,. do Như Lai tạng mà có "Tâm sanh diệt" tức là thức A lại da.ví dụ Chơn như, dụ
như "tánh" ướt của nước; Như Lai tạng, dụ như "nước" (hình tướng của nước); A lại
da, dụ nhƣ "sóng"(dụng của nước). Trong sóng gồm có cả tánh ướt và nướcThế là
thức A lại da (Tâm sanh diệt) gồm cả "Thể,Tướng và Dụng" về nhiễm và tịnh hoà hiệp
của tâm. Tâm Sanh diệt này có hai phần:
1. Sanh diệt về phần lưu chuyển sanh tử,

2. Sanh diệt về phần hoàn tịnh (trở lại bản tánh Niết bàn)
[4].Abraham (Harold) Maslow (1908 – 1970) là một nhà tâm lý học người Mỹ. Ông
được thế giới biết đến qua mơ hình nổi tiếng Tháp nhu cầu và được coi là cha đẻ của
tâm lý học nhân văn( />[5].Tam tế lục thô .Thô : Thô là to, lớn. Từ tế(vi tế khó thấy,khó biết) sanh thơ. Tam
tế : Vô minh nghiệp tướng, năng kiến tướng và cảnh giới tướng.Vô minh nghiệp tướng
là tâm sanh diệt liên quan đến vô minh.Năng kiến tướng là do nương với động nên có
năng kiến, khơng có động thì khơng có kiến. Cảnh giới tướng là do nương với năng
kiến, cảnh giới hiện ra.Tâm sanh diệt vừa năng, vừa sở. Năng tức là tâm xoay ra để soi
rọi các pháp khác, nó là chủ thể soi rọi. Sở là bao nhiêu thứ hiện ra trong tâm, không
cần tiếp xúc với cảnh. Năng kiến tướng là tâm đó tự soi rọi bên ngồi gọi là năng. Đến
lúc tự cảnh bên ngoài hiện bên trong của nó gọi là sở. Vì vậy bao nhiêu vọng động,
nghiệp phiền não điều từ tâm sanh diệt mà ra.Lục Thơ: Trí tướng,tương tục
tướng,chấp thủ tướng,kế danh tự tướng,khởi nghiệp tướng,nghiệp hệ khổ tướng.
[6].Huân tập. Huân tập là thói quen tạo ảnh hưởng cho cá nhân và cho môi trường.
Huân tập hướng thượng, đưa đến chân như, giải thoát. Huân tập hướng hạ, đưa đến
phiền não sinh tử.
Tài liệu tham khảo:
1.
2.
3.
4.
5.

HT Thích Liêm Chính,Luận Đại Thừa Khởi Tín,Nxb Tơn giáo.
Cao Hữu Đính ,Luận Đại Thừa Khởi Tín, 1983.
Sa Mơn Thích Thiện Hoa ,Đại Thừa Khởi Tín Luận Lược Dịch Và Lược Giải.
HT Trí Quang ,Khởi Tín luận, 1993.
HT Thích Thanh Từ, Luận Đại Thừa Khởi Tín, Nxb Tổng Hợp TP Hồ Chí
Minh.
6. TT.TS. Thích. Đồng Trí, Đại Thừa Khởi Tín ,bài dạy tại lớp Phật học từ xa

TP.HCM, khố VI-2022.
7. Chân Hiền Tâm, Đại Thừa Khởi Tín, Nxb Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh, 2004.
18



×