Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tạo động lực cho người học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.83 KB, 18 trang )

TẠO ĐỘNG LỰC CHO NGƯỜI HỌC


I.

QUAN NIỆM VỀ ĐỘNG LỰC, TẠO ĐỘNG LỰC
1. Động lực là gì?
- Là lực thúc đẩy từ bên trong cá nhân để đáp ứng các nhu cầu chưa thỏa mãn.
- Là yếu tố giúp con người đi đến hành động hay lựa chọn.
- Là sự khát khao và tự nguyện của con người nhằm tăng cường sự nỗ lực để đạt được
mục đích hay kết quả cụ thể.
- Là niềm hy vọng hay một sức mạnh khác giúp khởi đầu một hành động với nỗ lực tạo ra
một kết quả cụ thể nào đó.
 Động lực bao gồm tất cả những gì nhằm thơi thúc, khuyến khích động viên con người
thực hiện những hành vi theo mục tiêu
2. Động lực học tập là gì?
- Những động lực thúc đẩy học sinh học tập chính là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,...
đạt được trong quá trình học tập.
- Học sinh cảm thấy thích thú khi hiểu nội dung bài học, khi nhận ra được một điều mới
lạ, hoặc nắm được cách thức, phương pháp lĩnh hội tri thức.
 Từ kết quả đó lại thúc đẩy việc học tập.
- Những biểu hiện thường thấy là lòng khao khát mở rộng tri thức, mong muốn có nhiều
hiểu biết, say mê với việc giải quyết các nhiệm vụ học tập
3. Tạo động lực là gì?
* Có khi nào bạn đang buồn chán và khơng muốn làm bất cứ việc gì?
* NẾU BẠN LÀ GIÁO VIÊN, bạn có muốn học sinh của mình vui vẻ, năng động và học
tập hiệu quả?
* Làm thế nào để tạo động lực học tập hiệu quả nhất?
- Tạo động lực là những kích thích nhằm thơi thúc, khuyến khích, động viên con người
thực hiện những hành vi theo mục tiêu.
Nó bao gồm 3 yếu tố:


+ Khát khao hồn thiện bản thân
+ Khát khao tiến bộ trong học tập
2


+ Tạo ra cảm giác phấn chấn khi học tập
=> từ đó tạo nên động lực học tập
- Bản chất của động lực xuất phát từ nhu cầu và sự thoả mãn nhu cầu của con người

Theo thuyết hoạt động, động cơ khơng có sẵn mà phải được chủ thể nhận thức rõ đối
tượng (mục đích) hoạt động, thấy được đối tượng đó có ý nghĩa với mình, có nhu cầu
chiếm lĩnh nó. Lúc ấy động cơ mới hình thành và được củng cố trong quá trình chủ thể
tham gia hoạt động.
Như vậy, động lực học tập khơng tự có mà chúng phải được hình thành dần dần trong quá
trình học sinh tham gia chiếm lĩnh đối tượng học tập (tri thức, kỹ năng) dưới sự tổ chức
và điều khiển của giáo viên. Bằng hoạt động dạy, giáo viên tổ chức cho học sinh thực
hiện nhiệm vụ, hướng dẫn cách thức khám phá những điều mới lạ, qua đó học sinh tiếp
cận đối tượng, tạo ra cảm xúc tích cực trong học tập, nảy sinh nhu cầu chiếm lĩnh các tri
thức khoa học. Nếu qua mỗi tiết học, giáo viên bộ môn tạo được ấn tượng tốt ở học sinh
về bài giảng, có những thí dụ giúp học sinh hiểu biết thêm về thực tiễn, có bài tập củng
cố và bài tập mở rộng,... khi ấy học tập trở thành nhu cầu không thể thiếu của học sinh
 Tạo động lực cho người học là việc dùng những biện pháp nhất định để kích thích
người học, học tập một cách tự nguyện, nhiệt tình, hăng say và có hiệu quả hơn.

3


II.

Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực học tập

- Thuộc về bản thân cá nhân: sở thích, sức khỏe, nhu cầu, năng lực, tinh thần trách nhiệm,

- Thuộc về môi trường học tập: các hoạt động phong trào, chất lượng giáo viên, chương
trình đào tạo, điều kiện học tập và mơi trường học tập.
- Thuộc về gia đình: hồn cảnh gia đình, kỳ vọng từ gia đình, áp lực,…

III.

Cần thiết phải tạo động lực
1 Cần thiết phải tạo động lực
Tác giả Nguyễn Thơ Sinh, coi “Động lực chính là nguồn gốc cung cấp năng lượng, thôi
thúc để giúp cá nhân có thể phấn đấu vươn lên” Giá trị của động cơ hay động lực là ở
điều này có thể người học có nhu cầu, nhận thức được việc cần làm nhưng nó chưa đến
mức “thơi thúc” thì người học khơng thể tập trung “năng lượng” cho nó, nghĩa là người
học khơng thể quan tâm cao, thơi thúc mình hành động tới mục tiêu mình mong muốn,
người học có nhu cầu muốn học tốt, nhưng khơng có đủ quyết tâm để vượt qua những
khó khăn trong học tập. Đấy là những học sinh chưa có động cơ học.
Đó là lý do căn bản chúng ta cần tạo cho học sinh có động lực học tập, động lực đó phải
đủ mạnh, đủ sức lơi cuốn người học hồn thành nhiệm vụ học tập của mình. Học tập
khơng phải là một thứ lao động trí óc dễ dàng, nó địi hỏi sự tập trung sự chú ý cao, sự
kiên trì, nhẫn nại phải đổ mồ hôi, công sức mới đạt kết quả.
ĐLHT của HS khơng chỉ ảnh hưởng tích cực đến q trình học tập của bản thân HS, mà
cịn ảnh hưởng tích cực đến hoạt động giảng dạy của GV:
2
Đối với HS
- Khi có ĐLHT, HS sẽ hăng hái, tích cực học tập;
- Khi có ĐLHT, HS sẽ tự nguyện, chủ động học tập;
- ĐLHT làm cho HS hứng thú, say mê trong học tập;
- Khi có ĐLHT, HS sẽ chăm chỉ trong học tập;
- ĐLHT giúp HS nỗ lực, kiên trì vượt mọi khó khăn để hồn thành nhiệm vụ HT;

- ĐLHT làm cho HS ham muốn tìm tịi, học hỏi, hồn thiện bản thân.
- Các lợi ích kể trên giúp HS học tập một cách hiệu quả.
4


1.2.
Đối với GV
- Khi HS có ĐLHT, GV sẽ dễ dàng hơn trong khai thác tiềm năng của HS;
- GV sẽ dễ dàng hơn trong sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, lơi kéo được sự
hưởng ứng nhiệt tình của HS, tạo được bầu khơng khí học tập hăng say trong lớp học;
- Thái độ học tập tích cực của HS có thể tác động ngược trở lại đối với GV, làm cho GV
hứng thú, nhiệt tình giảng dạy, không ngừng học hỏi để nâng cao chất lượng giảng dạy.
4. Hình thành hoạt động học:
Các thành phần như: Động cơ học tập, mục đích học tập, phương tiện học tập.
Mối liên hệ giữa hai tuyến như sau: Hoạt động học tập chỉ diễn ra khi được thúc đẩy bởi
các động cơ học tập. Hành động học tập gắn với ít nhất một mục đích học tập. Các thao
tác học tập phụ thuộc vào phương tiện học tập. Động cơ và mục đích, mục đích và
phương tiện có thể chuyển hóa cho nhau.
2
Động cơ
Một cá nhân khơng thể thực hiện một hoạt động cụ thể nếu người ấy không có được một
động lực nào thúc đẩy. Theo lý thuyết hoạt động, đối tượng của hoạt động chính là nơi
hiện thân của động cơ hoạt động ấy.
Trong hoạt động học, để một học sinh có thể thường xuyên đến trường vui học, cần có
những động cơ học tập. Có nhiều lực thúc đẩy khác nhau (như lịng ham muốn có tri
thức, muốn có nhiều bạn bè, u ngơi trường đẹp, kính trọng thầy cơ, phần thưởng,
vv…), và mỗi lực có ảnh hưởng, ý nghĩa khác nhau ở từng học sinh (mạnh hay yếu, quan
trọng nhiều hay ít, vv..). Động cơ học tập có thể đa dạng nhưng tất cả đều giúp học sinh
này thực hiện các nhiệm vụ học tập, đạt được những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, các thái
độ, v.v... Do vậy, muốn tổ chức, điều khiển tốt hoạt động học, giáo viên cần thấy được

những yếu tố nào có thể hoặc đang là động lực thúc đẩy học sinh học tập.
2.1.1 Các loại động cơ học tập:
Nhóm động cơ hoàn thiện tri thức
Những động lực thúc đẩy học sinh học tập chính là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,... đạt
được trong quá trình học tập. Học sinh cảm thấy thích thú khi hiểu nội dung bài học, khi
nhận ra được một điều mới lạ, hoặc nắm được cách thức, phương pháp lĩnh hội tri thức.
Từ kết quả đó lại thúc đẩy việc học tập. Những biểu hiện thường thấy của nhóm động cơ
5


này là lòng khao khát mở rộng tri thức, mong muốn có nhiều hiểu biết, say mê với việc
giải quyết các nhiệm vụ học tập.
Đặc điểm của động cơ hoàn thiện tri thức là không gây ra sức ép tâm lý cho chủ thể khi
học tập, người học không bị những xung đột bên trong làm cản trở quá trình lĩnh hội tri
thức. Người học có lúc gặp phải tri thức hay bài tập khó, cần phải nỗ lực ý chí, khắc phục
khó khăn chủ quan và khách quan để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Nhưng những nỗ lực
hành động như vừa nói hồn tồn xuất phát từ sự khát khao chiếm lĩnh tri thức, từ niềm
vui được học tập nên cá nhân tự giác thực hiện. Hoạt động học được thúc đẩy bởi nhóm
động cơ hồn thiện tri thức được đánh giá là tối ưu theo quan điểm sư phạm. Người dạy
cần quan tâm xây dựng, phát huy loại động cơ này.
Nhóm động cơ quan hệ xã hội
Những thúc đẩy học tập thuộc nhóm này khơng trực tiếp là các tri thức khoa học, mà là
những yếu tố khác. Có thể kể ra một số thí dụ: Học sinh chăm chỉ học tập để làm vui lòng
cha mẹ, hoặc cố gắng học để khỏi bị đòn roi, học để được bạn bè thán phục, để cô giáo
khen ngợi, để được những phần thưởng từ gia đình hay nhà trường, để thỏa mãn tính hiếu
danh, để khẳng định mình, để thực hiện được một dự định, hoài bão tương lai. Chúng ta
thấy, những yếu tố thúc đẩy thuộc nhóm này liên quan đến vấn đề khen thưởng, trừng
phạt, ảnh hưởng đến người khác, thỏa lòng tự ái, mong muốn vị trí xã hội, lợi ích tương
lai,… Những quan hệ xã hội này trong hiện tại và tương lai của học sinh có lúc giữ tầm
quan trọng, có ảnh hưởng đến q trình học. Kết quả học tập, chính là đối tượng của hoạt

động học bây giờ chỉ giữ vai trò là phương tiện để học sinh đạt được những “mối quan hệ
xã hội” đã xác định. Chính vì vậy các nhà tâm lý học gọi đây là nhóm động cơ quan hệ xã
hội.
Đặc điểm của loại động cơ này là khi thúc đẩy học tập có thể tạo ra những căng thẳng
tâm lý, đôi khi xảy ra những lực chống đối nhau nếu kết quả học tập đạt được không như
sự mong đợi. Khi các động cơ này ảnh hưởng mạnh, học sinh phải chịu những xung đột
gay gắt, luôn diễn ra đấu tranh bản thân, dẫn đến những biểu hiện vi phạm nội quy học
tập như quay cóp bài để được điểm cao, đe dọa bạn cho xem bài, hoặc tỏ ra thờ ơ với học
tập, thậm chí bỏ học.
Thơng thường hai nhóm động cơ hồn thiện tri thức và quan hệ xã hội đều được hình
thành ở học sinh. Chúng tồn tại song song, ảnh hưởng không ngang bằng nhau mà xếp
thành một hệ thống theo thứ bậc từ cao đến thấp. Tùy thuộc vào điều kiện dạy và học,
6


yếu tố gia đình, đặc điểm tâm lý từng học sinh, một số động cơ được nổi lên, chiếm vị trí
ưu tiên hơn, một số động cơ khác sẽ giữ thứ hạng thấp hơn, có ảnh hưởng thúc đẩy kém
hơn.
Tóm lại, trên đây đã đề cập đến các loại động cơ thúc đẩy, mức ảnh hưởng mạnh yếu của
nó trong hoạt động học tập, có lưu ý động cơ hồn thiện tri thức là tối ưu theo quan điểm
sư phạm.
2.1.2 Hình thành động cơ học tập cho học sinh:
Động cơ học tập khơng tự có mà chúng phải được hình thành dần dần trong quá trình học
sinh tham gia chiếm lĩnh đối tượng học tập (tri thức, kỹ năng) dưới sự tổ chức và điều
khiển của giáo viên. Bằng hoạt động dạy, giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện nhiệm
vụ, hướng dẫn cách thức khám phá những điều mới lạ, qua đó học sinh tiếp cận đối
tượng, tạo ra cảm xúc tích cực trong học tập, nảy sinh nhu cầu chiếm lĩnh các tri thức
khoa học. Nếu qua mỗi tiết học, giáo viên bộ môn tạo được ấn tượng tốt ở học sinh về bài
giảng, có những thí dụ giúp học sinh hiểu biết thêm về thực tiễn, có bài tập củng cố và
bài tập mở rộng,... khi ấy học tập trở thành nhu cầu không thể thiếu của học sinh. Để làm

được điều này, giáo viên phải xếp đặt nội dung cũng như chọn lọc phương pháp và quan
trọng là gắn kết được chúng với các thành tố của hoạt động học tập (như mục đích,
phương tiện, hành động,..), để thông qua các hành động học tập làm nảy sinh nhóm động
cơ hồn thiện tri thức. Những động cơ tạo được như thế sẽ bền vững và giúp học sinh
vượt qua những trở ngại trong quá trình học tập.
Tóm lại, giáo viên cần nhận thức được rằng, động cơ học tập của học sinh là đa dạng,
nhiều cung bậc, ảnh hưởng khác nhau. Cần kết hợp các loại động cơ để phát huy tác dụng
tổng hợp, nhưng nhiệm vụ mang tính chiến lược và bền vững của giáo viên là khơi dậy
nhu cầu nhận thức của học sinh bằng cách thiết kế các bài giảng súc tích, hấp dẫn để đưa
nhóm động cơ hồn thiện tri thức lên ưu tiên hàng đầu.
3
Mục đích
Mục đích học tập chính là những kết quả (nội dung học tập) mà người học sẽ đạt được
sau một quá trình học tập. Người học phải “thấy” trước được chúng, làm cơ sở định
hướng cho q trình hành động. Trong q trình đó, người học sẽ hồn thành dần dần các
mục đích bộ phận bằng cách thực hiện các hành động học tập tương ứng.
Từ đây sẽ thấy rõ hơn nhiệm vụ của giáo viên khi tổ chức, điều khiển việc lĩnh hội tri
thức ở học sinh. Ở một môn học, các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,… mà học sinh phải lĩnh
7


hội trong một học kỳ (mục đích lớn) được phân chia thành các nội dung cụ thể trong từng
chương, bài, tiết học (các mục đích bộ phận) và thể hiện thành các nhiệm vụ học tập (bài
học, bài làm trên lớp, thực hành ở phịng thí nghiệm, bài làm ở nhà, bài kiểm tra và thi,
vv..). Giáo viên sẽ sắp xếp hệ thống các nhiệm vụ học tập này theo trật tự hợp lý và tổ
chức cho học sinh thực hiện. Qua các tiết giảng, giáo viên dẫn dắt học sinh thực hiện các
nhiệm vụ trong chuỗi. Mỗi khi hoàn thành một nhiệm vụ, học sinh sẽ lĩnh hội được một
tri thức, một khái niệm khoa học hoặc một kỹ năng, một phương pháp thuộc một mơn
học đó.
Như vậy, mục đích học tập chính là nội dung học tập trong một giai đoạn ngắn,

gồm các tri thức, khái niệm, kỹ năng, kỹ xảo,... mà người học phải lĩnh hội được trong
một phân đoạn, một tiết giảng, một bài học (ở một môn học). Giáo viên khi soạn giáo án
phải nắm vững các mục đích này và giúp học sinh đạt được chúng trong q trình học
tập. Nói hình thành mục đích học tập cho học sinh chính là giáo viên định hướng cho học
sinh có ý thức về những đối tượng này khi bắt đầu mỗi tiết học và tổ chức chuỗi các
nhiệm vụ học tập phù hợp để qua đó người học chiếm lĩnh chúng.
4
Phương tiện
Phương tiện học tập.Hoạt động bao giờ cũng hướng tới một đối tượng cụ thể, và chủ thể
phải có những phương tiện, những điều kiện cụ thể để chiếm lĩnh đối tượng. Trong hoạt
động học tập, ngoài những phương tiện như: giấy, bút, sách, giáo trình, máy tính…mà nó
cịn mang tính chất đặc thù của hoạt động học tập đó là mọi yếu tố của q của nó đều
được hình thành trong q trình học tập. Phương tiện của học tập khơng có sẵn trong tâm
lý chủ thể mà hình thành chính trong q trình chủ thể tham gia hoạt động học
tập.Phương tiện chủ yếu của hoạt động học tập đó là các hành động học tập: so sánh,
phân loại, phân tích, khái quát hoá.. Tâm lý học đã khẳng định so sánh, phân loại là
những hành động học tập là phương tiện đắc lực cho việc hình thành những khái niệm
kinh nghiệm, cịn phân tích, khái qt hố là phưong tiện để hình thành nên những khái
niệm khoa học.Cần nhấn mạnh rằng trong hoạt động học, phương tiện chủ yếu là tư duy.
Trong giáo dục, tất cả các hình thức tư duy đều quan trọng và cần thiết.
Trong dạy học, giáo viên cần hiểu rằng các hành động học tập này trước hết cũng là đối
tượng học sinh cần lĩnh hội (mục đích hướng tới là lĩnh hội các hành động). Về sau khi đã
hình thành chúng sẽ trở thành phương tiện để tiếp thu tri thức.
Hành động phân tích
8


Hành động này giúp phát hiện nguồn gốc xuất phát của khái niệm, là phương tiện quan
trọng nhất giúp đi sâu vào đối tượng. Có ba hình thức: phân tích vật chất, phân tích dựa
trên lời nói và phân tích tinh thần. Mức độ phát triển cao hay thấp trong hành động phân

tích tùy thuộc vào trình độ nắm vững tri thức trước đó. Tri thức cũ là phương tiện quan
trọng cho hành động phân tích.
Hành động mơ hình hóa
Hành động mơ hình hóa giúp con người diễn đạt logic khái niệm một cách trực quan.
Trong dạy học thường dùng 3 loại mơ hình sau:
- Mơ hình gần giống vật thật: Có tính trực quan cao. Học sinh có thể theo dõi tồn bộ
q trình hành động, vị trí các yếu tố và mối quan hệ giữa chúng với nhau.
Thí dụ mơ hình sa bàn.
Ví dụ : Khi dạy bài “Xem đồng hồ”
Để giúp học sinh xác định giờ một cách chính xác nhất theo yêu cầu bài tập, giáo viên
cần sử dụng mơ hình đồng hồ. Qua đó các em dùng tay xoay kim trực tiếp trên mơ hình
đồng hồ theo từng câu hỏi. Như vậy ngồi việc mơ hình làm phương tiện trực quan giúp
học sinh quan sát hình dáng, mơ hình cịn có thể giúp học sinh làm việc trực tiếp trên nó
để phát triển tư duy một cách hiệu quả nhất.
- Mơ hình tượng trưng: Có tính trừu tượng cao hơn, chỉ giữ lại cái tinh túy của đối
tượng và mơ tả trực quan. Thí dụ dùng sơ đồ đoạn thẳng để mô tả một quan hệ tốn học.
- Mơ hình “mã hóa”: Hồn tồn có tính quy ước, yếu tố trực quan bị tước bỏ, chỉ giữ
lại mối liên hệ logic thuần khiết. Đó là các công thức, các ký hiệu. Là công cụ quan trọng
để diễn tả logic của khái niệm, diễn ra các hành động tinh thần.
Ví dụ: khi xác định gia tốc của một vật có khối lượng đã cho dưới tác dụng của một lực
cho trước do định luật thứ hai của Newton xác định bằng cơng thức F = ma. Trong loại
mơ hình này, yếu tố trực quan hầu như bị tước gần hết, chỉ giữ lại mối quan hệ logic
thuần khiết. Nó là cơng cụ quan trọng để diễn ra những hành động tinh thần (trí óc), để
phát triển tư duy trừu tượng.
Hành động cụ thể hóa
Hành động này giúp học sinh vận dụng phương thức hành động chung vào việc giải quyết
những vấn đề cụ thể trong cùng một lĩnh vực.
9



* Mối quan hệ giữa các hành động: Hành động phân tích giúp phát hiện mối quan hệ tổng
quát. Hành động mơ hình hóa giúp diễn đạt quan hệ tổng qt đó dưới hình thức trực
quan. Hành động cụ thể hóa giúp triển khai quan hệ tổng quát, trừu tượng đến các trường
hợp cụ thể.
Trong dạy học, ba hành động trên được hình thành và phát triển chính trong q trình
hình thành khái niệm. Lúc đầu các hành động này là đối tượng lĩnh hội, sau khi hình
thành nó trở thành cơng cụ, phương tiện học tập.
Mặt khác, do tính chất quan trọng của việc tự kiểm tra, tự đánh giá trong học tập, giáo
viên cần hình thành thêm ở học sinh hai hành động dưới đây.
Hành động tự kiểm tra và tự đánh giá
Đây là những hành động học tập đặc biệt. Chúng khơng nhằm đến mục đích lĩnh hội tri
thức, kỹ năng mà nhằm đến mục đích kiểm tra và đánh giá quá trình lĩnh hội.
* Hành động tự kiểm tra: Đối chiếu những hành động học tập của bản thân với mẫu hành
động do thầy nêu ra. Có ba kiểu:
- Tự kiểm tra theo kết quả cuối cùng. Thực hiện sau khi kết thúc một nhiệm vụ học tập
dưới sự điều khiển của giáo viên. Giáo viên u cầu: “Các em xem lại có sai sót gì khi
làm bài không?” hoặc “Hãy nghĩ lại cách làm của em có thích hợp khơng?”.
- Tự kiểm tra từng bước của tiến trình hành động. Cho phép học sinh nhìn thấy kết quả
thực hiện trong từng bước với chất lượng ra sao và quyết định bước tiếp theo.
- Tự kiểm tra theo triển vọng. Đối chiếu hoạt động được đặt ra với những khả năng bản
thân khi thực hiện hoạt động ấy, giúp học sinh lường trước những thuận lợi, khó khăn để
phát huy hay quyết tâm khắc phục.
Ba kiểu tự kiểm tra này đều cần thiết và tác dụng bổ sung cho nhau. Giáo viên cần
quan tâm tổ chức học sinh luyện tập và hình thành chúng.
* Hành động tự đánh giá: Học sinh đánh giá từng giai đoạn hoạt động hay toàn bộ hoạt
động trên cơ sở tự kiểm tra. Có hai kiểu:
- Đánh giá kết quả đã đạt: Học sinh đánh giá kết quả bài làm, thí nghiệm,… là tốt hay
chưa tốt.

10



- Đánh giá chẩn đoán: Học sinh đánh giá khả năng, thí dụ: “Tơi có làm được bài tập này
khơng?”.
Sự tự tin vào bản thân có ảnh hưởng đến tự đánh giá. Những học sinh tự đánh giá phù
hợp thường có tính tích cực cao, biết đặt ham muốn đạt thành tích học tập tốt, thể hiện tối
đa tính tự lực. Những học sinh có tự đánh giá thấp thường không tỏ ra tự tin vào bản thân,
sợ thầy cô, có tâm thế chờ đợi điểm kém, trong lớp thụ động nghe bạn phát biểu, ít tự nêu
ý kiến.
Giáo viên cần có những nhiệm vụ và biện pháp giúp học sinh hình thành năng lực tự
đánh giá phù hợp với bản thân, tránh các trường hợp tự đánh giá quá cao hoặc quá thấp.

IV.

Một số học thuyết về tạo động lực
1 Thuyết nhu cầu của Abraham Maslow
Theo Maslow, con người có 5 nhu cầu cơ bản được xếp theo
bậc từ thấp đến cao.
Mỗi cá nhân có hệ thống nhu cầu khác nhau và nó được
mãn bằng những cách, những phương
khác nhau. Về nguyên tắc, con người cần
thõa mãn các nhu cầu ở bậc thấp hơn
khi được khuyến khích để thõa mãn
những nhu cầu ở bậc cao hơn.

thứ
thỏa
tiện
được
trước


 Để tạo động lực cho người học, giáo viên cần phải hiểu học sinh của mình đang ở
đâu trong hệ thống thứ bậc này. Từ đó có biện pháp để thõa mãn nhu cầu đó một
cách hợp lý.
5. Học thuyết tăng cường tích cực
Học thuyết dựa vào những cơng trình nghiên cứu của B. F. Skinner, hướng vào việc làm
thay đổi hành vi của con người thông qua các tác động tăng cường.
Học thuyết cho rằng:

- Những hành vi được thưởng sẽ có xu hướng được lặp lại, cịn những hành vi
-

khơng được thưởng (hoặc bị phạt) sẽ không được lặp lại.
Khoảng thời gian giữa thời điểm xảy ra hành vi và thời điểm thưởng/phạt càng
ngắn thì càng có tác dụng thay đổi hành vi.
11


- Phạt có tác dụng loại trừ những hành vi ngồi ý muốn của người dạy nhưng có thể
gây ra những hậu quả tiêu cực, do đó đem lại ít hiệu quả hơn so với thưởng.
 Giáo viên cần quan tâm đến các thành tích tốt và thưởng cho các thành tích đó. Sự
nhấn mạnh các hình thức thưởng sẽ đem lại hiệu quả cao hơn sự nhấn mạnh các
hình thức phạt.
6. Học thuyết kỳ vọng của Victor Vroom
Học thuyết nhấn mạnh mối quan hệ nhận thức: con người mong đợi cái gì? Theo học
thuyết, động lực là chức năng của sự kỳ vọng của cá nhân. Một sự nổ lực nhất định sẽ
đem lại một thành tích nhất định và thành tích đó sẽ dẫn đến những kết quả hoặc phần
thưởng như mong muốn.

 Giáo viên cần phải làm cho học sinh hiểu được mối quan hệ trực tiếp giữa

nổ lực - thành tích; thành tích - kết quả/phần thưởng cũng như cần tạo nên sự
hấp dẫn của các kết quả/phần thưởng đối với học sinh.
7. Học thuyết Công bằng của J.Stacy Adams
Giả thuyết cơ bản của học thuyết là mọi người đều muốn được đối xử công bằng; các cá
nhân trong tổ chức có xu hướng so sánh sự đóng góp của họ và các quyền lợi họ nhận
được với sự đóng góp, các quyền lợi của những người khác và cảm nhận được đối xử
công bằng, khi cảm thấy tỷ lệ quyền lợi/đóng góp của mình ngang bằng với tỷ lệ đó ở
những người khác.

 Giáo viên cần tạo ra và duy trì sự cân bằng giữa sự đóng góp của học sinh và
các quyền lợi mà học sinh đó được hưởng.
8. Học thuyết Hệ thống hai yếu tố
Herzberg cho rằng có 2 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến động lực của người lao động:

- Yếu tố duy trì: Các yếu tố thuộc về cơng việc và về nhu cầu bản thân của người

-

lao động. Các nhân tố này chỉ có tác dụng duy trì trạng thái làm việc bình thường.
Tuy nhiên nếu thiếu đi yếu tố này, người lao động sẽ trở nên bất mãn và ảnh
hưởng tới hiệu suất làm việc.
Yếu tố động viên: Các yếu tố có tác dụng thúc đẩy thật sự, liên quan tới bản chất
công việc (sự công nhận, trách nhiệm lao động…). Khi thiếu yếu tố này,
12


người lao động sẽ biểu lộ sự khơng hài lịng, lười biếng, thiếu hứng thú làm
việc. Những điều này gây ra sự bất ổn về mặt tinh thần.
Vì vậy theo Herzberg, thay vì cố gắng cải thiện các yếu tố duy trì, các nhà quản lý nên
gia tăng yếu tố thúc đẩy nếu muốn có sự hưởng ứng tích cực của người lao động.


V.

Tạo động lực cho bản thân (người dạy)

Thứ nhất là minh bạch về kinh tế: Thu nhập chính đáng chỉ trở thành động lực khi nó đáp
ứng được nhu cầu vật chất tối thiểu cho người giáo viên, giúp họ yên tâm, đủ chi tiêu cho
bản thân và gia đình. Cần bảo đảm cơng bằng, cơng khai và kịp thời các nguồn thu nhập
hợp pháp của giáo viên. Đó có thể là chế độ lương của nhà nước hay các hoạt động cơng
ích, lao động tập thể làm thêm mà có. Cần bảo đảm ngun tắc khơng phân biệt đối xử,
bàn bạc dân chủ, dựa trên thành tích và hồn cảnh thực tế khi phân chia quyền lợi cho
giáo viên. Cố gắng tổ chức các hoạt động phúc lợi bảo đảm cân đối mặt kinh tế và mặt
tâm lý-xã hội trong cuộc sống cho giáo viên.
Thứ hai, phân chia cơng việc cơng bằng, có tình, có lý: Phân công công việc phải dựa
trên việc xác định rõ nhu cầu cho cá nhân người giáo viên với yêu cầu của nhà trường và
phải có bàn bạc trao đổi chân tình, thẳng thắn với giáo viên. Nên giao những cơng việc
cho giáo viên có u cầu cao hơn, có tính thử thách và có cơ hội để đổi mới. Trao quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, đồng thời luôn theo dõi giúp đỡ họ khi gặp khó khăn, tạo cơ
hội cho họ vận dụng những sáng kiến vào thực tiến cơng việc. Được như vậy, sẽ kích
thích giáo viên tìm tịi cải tiến cơng tác chun mơn, đạt niềm vui khi hồn thành cơng
việc, cảm nhận được sự tơn trọng và tự khẳng định được bản thân.
Thứ ba là cải thiện môi trường làm việc: Cải thiện môi trường làm việc cho giáo viên,
như cung cấp các thiết bị tối thiểu để giảm bớt tiêu hao về thể lực, trí lực của giáo viên
trong q trình lao động. Coi trọng vệ sinh và an toàn lao động, trồng nhiều cây xanh và
đủ ánh sáng trong phòng học. Bảo đảm chuẩn lớp học, bàn ghế và sĩ số học sinh trong
mỗi lớp học.
Tạo điều kiện cho giáo viên phát triển và thăng tiến nghề nghiệp như khuyến khích giáo
viên tham gia các khóa đào tạo, kể cả bên ngồi cơng việc. Cơng khai, minh bạch, khách
quan hệ thống tiêu chí đánh giá giáo viên, theo hướng cụ thể, có quy trình và định lượng
được. Loại bỏ kiểu đánh giá người lao động theo kiểu định kiến, chủ quan hay cào bằng.


13


Kết quả đánh giá làm căn cứ xác định mức tiền thù lao, tiền thưởng hay đề bạt, nâng
lương trước hạn.
Một bầu khơng khí tâm lý thuận lợi, thoải mái, tôn trọng, hỗ trợ lẫn nhau trong tập thể lao
động sẽ có tác động tốt đến động lực làm việc của giáo viên và sự gắn bó của họ tới sự
phát triển của nhà trường. Có thể tổ chức các hoạt động vui chơi, nghỉ ngơi và các hoạt
động xã hội khác theo điều kiện và khả năng hiện thực của nhà trường. Hiệu trưởng là
người đi đầu và lan tỏa thái độ sống tích cực, sống bình an và hạnh phúc trong trường.

VI.

Tạo động lực cho người khác (người học)
1 Tạo một Mơi trường Thân thiện và Tích cực
- Tạo ấn tượng tích cực. Nếu bạn muốn tạo động lực cho học sinh thì phải chứng minh
được rằng bạn là người đáng để học sinh lắng nghe. Các em có thể nghi ngờ bạn vào
ngày đầu tiên, nhưng bạn có thể cố gắng cải thiện để chiếm được niềm tin cũng như sự
tôn trọng của các em. Để làm được điều này, bạn phải trở nên nổi bật trong mắt học sinh.
Bạn sẽ không thể làm được điều này nếu cứ bình thường khơng khác gì đám đơng lắm.
Bạn cần phải thật nổi bật, nắm bắt được sự chú ý của học sinh và giữ lấy sự chú ý đó.
Dưới đây là một số cách sẽ giúp bạn tạo ấn tượng tốt đối với học sinh:
Hãy say mê những gì bạn đang dạy. Sự nhiệt tình chân thành của bạn chắc chắn sẽ tạo
nên hiệu quả rất lớn đối với học sinh. Ngay cả khi các em không hứng thú với mơn học
của bạn thì chính cách cư xử của bạn cũng có thể làm các em thích thú. Bởi điều quan
trọng nhất là vì bạn kiên trì thể hiện tình yêu của bạn đối với vấn đề nào đó, học sinh sẽ
sớm nhận ra bạn là một con người chân thành.
Hãy là người đầy nhiệt huyết. Sự nhiệt huyết có khả năng lây lan, và học sinh sẽ khó ngủ
gật trong lớp nếu giáo viên là người tràn đầy nhiệt huyết và không đứng yên một chỗ.

Hãy đảm bảo rằng bạn có đủ năng lượng để khiến vấn đề bạn đang nói cũng như bản thân
bạn trở nên hấp dẫn trong mắt học sinh.
Cải thiện ngoại hình của bạn. Bạn cần tạo ấn tượng tốt, vì vậy hãy đảm bảo rằng bạn
trông thật đẹp khi bước vào lớp. Hãy cố gắng ăn mặc đẹp hơn hay khác hơn một chút so
với người bình thường.
- Ra những bài tập khiến học sinh phải sáng tạo. Hãy tạo ra một dự án tổng thể thật độc
đáo và thú vị. Ví dụ, lớp học của bạn có thể tổ chức một vở kịch liên quan đến khoa học
(hay bất cứ môn học nào khác) để biểu diễn ở một viện bảo tàng trong vùng cho trẻ em.
14


Cả lớp có thể viết một cuốn sách và đem xuất bản ở dịch vụ tự xuất bản rồi quyên góp
cuốn sách cho một thư viện ở địa phương.
Điểm mấu chốt của hoạt động này là ý tưởng phải khác biệt, bạn cần thực hiện hoạt động
này trong giờ học hoặc trong một giờ nào đó ở trường (để tránh phải di chuyển nhiều hay
tiêu tốn thời gian) và bạn cần đồng hành cùng cả lớp ở mỗi bước trong cả hoạt động này.
- Khuyến khích các cuộc thảo luận sôi nổi trong lớp. Nếu lúc nào bạn cũng giảng bài thì
học sinh sẽ rất dễ mất tập trung. Nếu bạn muốn học sinh có hứng thú và sẵn sàng học tập
thì bạn cần tạo điều kiện cho các buổi thảo luận có giá trị diễn ra trong lớp học. Hãy trực
tiếp đặt câu hỏi cho mỗi học sinh thay vì hỏi chung cả lớp và nhớ gọi tên từng học sinh.
Thực tế là, không học sinh nào muốn bị gọi khi không biết câu trả lời, và nếu biết chuyện
này có thể xảy ra thì các em sẽ chuẩn bị sẵn câu trả lời khi học. Điều này khiến học sinh
cần phải tập trung vào bài học hơn.
Điều này khơng chỉ khiến học sinh tích cực đọc tài liệu và chuẩn bị trước khi đến lớp hơn
mà còn giúp học sinh thấy hứng thú khi đến lớp vì cảm thấy ý kiến của mình có giá trị.
- Có khiếu hài hước. Khi có khiếu hài hước, bạn sẽ dễ dàng thu hút học sinh, làm cho tài
liệu học trở nên sống động hơn và giúp học sinh kết nối với bạn tốt hơn. Vấn đề là, nếu
bạn luôn luôn nghiêm túc thì học sinh sẽ thấy khó để quan tâm và thực sự kết nối với bạn.
Bạn không cần phải làm một anh hề và lúc nào cũng đùa được nhưng nếu bạn tạo một
môi trường học vui vẻ cho học sinh, các em sẽ có động lực và thấy hứng thú hơn khi học.

Cho học sinh thấy được bạn có năng lực. Bạn cần cố gắng thuyết phục học sinh rằng
những nội dung bạn nói là có giá trị, đặc biệt là khi bạn muốn khiến cho học sinh hứng
thú với chuyên ngành của mình. Bạn cần phải thể hiện tài năng của mình. Bạn khơng chỉ
là một giáo viên mà còn là một người rất tài giỏi trong lĩnh vực của mình. Nếu học sinh
nghĩ rằng bạn khơng thực sự nắm vững kiến thức của mình, các em sẽ dễ lười biếng khi
làm bài tập hơn hoặc nghĩ rằng bạn sẽ không để ý nếu các em chưa đọc kĩ tài liệu.
Để ý đến những học sinh cần được quan tâm. Nếu một học sinh có biểu hiện chán nản
hay khơng được khoẻ thì hãy gọi học sinh đó ở lại sau giờ học và hỏi xem em đó có ổn
khơng. Cố gắng đừng q chú ý đến học sinh khi làm điều này. Hãy nhìn vào mắt các em
khi hỏi nhưng đừng nhìn chằm chằm để có được câu trả lời từ phía học sinh. Nếu các em
nói rằng mình ổn thì đừng tạo áp lực cho học sinh đó trừ phi bạn nghĩ rằng em đó đang
thực sự có vấn đề nghiêm trọng. Chỉ cần nói, “Thầy/Cơ thấy em có vẻ hơi buồn lúc ở
15


trong lớp” rồi thôi và tiếp tục làm việc. Chỉ riêng việc bạn thể hiện sự quan tâm như vậy
đã là quá đủ đối với các em rồi.
- Tôn vinh những ý tưởng của học sinh: Điều quan trọng là tạo cho học sinh một khơng
gian để có được tiếng nói trong q trình học tập.
Ln hoan nghênh các ý tưởng của học sinh và thảo luận với học sinh về các vấn đề
chung của lớp học. Cho phép học sinh được có tiếng nói và sự lựa chọn trong các nhiệm
vụ học tập. Điều này sẽ khiến học sinh cảm thấy mình quan trọng và cảm giác được tham
gia vào việc giảng dạy của giáo viên. Khi đó học sinh sẽ có cảm hứng để thể hiện ý tưởng
của mình.
- Cơ hội trải nghiệm: Có kinh nghiệm thực tế về các chủ đề bài học, học sinh sẽ học tập
tích cực và hiệu quả hơn. Nó cũng là nguồn cảm hứng thôi thúc học sinh tiếp tục nghiên
cứu và tìm hiểu sâu hơn về nội dung bài học.
Cơ hội trải nghiệm là một nền tảng cần thiết để học sinh áp dụng những gì đã học trong
lý thuyết trên lớp, từ đó cải thiện mức độ tự tin đối với chủ đề này.
9. Tạo các Thử thách

- Khuyến khích làm việc theo nhóm. Làm việc theo nhóm sẽ giúp học sinh có cơ hội hiểu
rõ nhau hơn, nhìn nhận tài liệu mơn học theo một cái nhìn khác và có động lực để thành
cơng. Khi làm việc một mình, học sinh sẽ không cảm thấy áp lực cần phải thành cơng
như khi làm việc cùng nhóm với những người khác mà trong đó mỗi học sinh đều có một
vai trị nhất định. Làm việc theo nhóm cũng là một cách rất tốt để làm mới chương trình
học và là cơ hội để học sinh có một hoạt động khác biệt khi học.
Bạn cũng có thể khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhóm. Một thử thách về
ngữ pháp trên bảng, trị chơi đố vui theo nhóm về một chủ đề hay một hoạt động hoặc trò
chơi nào khác mà mỗi nhóm đều cố giành chiến thắng thì bạn sẽ thấy rằng học sinh sẽ có
hứng thú tham gia và trả lời đúng khi thi đấu (miễn là cạnh tranh lành mạnh và khơng
khiến học sinh chán nản).
Trị chơi tạo động lực
Có rất nhiều trị chơi vận động giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi theo nhóm, cả
lớp hoặc cá nhân.

16


Giáo viên có thể tổ chức các trị chơi trong hoạt động chuyển tiếp, các tiết trống hoặc
những khoảnh khắc học sinh cảm thấy mệt mỏi. Các trò chơi nên được đưa thành một
phần của chiến lược giảng dạy.
- Giao các bài tập cộng điểm. Những bài tập cộng điểm sẽ giúp học sinh nhìn nhận tài
liệu học ở một cấp độ khác và cố gắng làm bài để cải thiện điểm của mình. Ví dụ, nếu
bạn là giáo viên hoá học và bạn biết rằng một số học sinh đang gặp khó khăn thì hãy giao
cho học sinh một bài báo cáo tuỳ chọn về một cuốn sách hài hước nhưng có liên quan đến
khoa học như “Lược sử vũ trụ”. Học sinh sẽ thấy vui khi nhận thức được khoa học ở một
cấp độ mới và hiểu rõ hơn về tài liệu học trong khi cải thiện điểm của mình.
Bạn có thể giao các bài tập cho thấy tính ứng dụng cao hơn của tài liệu học. Ví dụ, nếu
bạn là giáo viên tiếng Anh, hãy cộng thêm điểm cho các học sinh đến dự buổi đọc thơ
trong khu vực của bạn và viết báo cáo về buổi đọc thơ đó. Hãy để học sinh chia sẻ bài

báo cáo của mình với cả lớp, điều này sẽ giúp tạo động lực cho học sinh cũng như
khuyến khích các em cố gắng nhiều hơn nữa.
- Thay đổi khơng khí cho lớp học. Việc giảng bài có thể phù hợp với môn học của bạn,
nhưng bạn càng thay đổi không khí lớp học thì học sinh sẽ càng thấy hứng thú. Ví dụ,
bạn có thể dành 10-15 phút để giảng "một đoạn kiến thức", sau đó sẽ là bài tập nhóm
minh hoạ cho kiến thức về khái niệm mà bạn vừa nêu. Tiếp đó, bạn có thể tạo ra một hoạt
động trên bảng và để học sinh trình bày một bài tập cộng điểm hoặc chiếu một video
ngắn về bài học. Việc giữ cho lớp học sôi nổi sẽ giúp học sinh có động lực và sẵn sàng
học hơn.
Việc có một kế hoạch cụ thể trên giấy hay trên bảng cho mỗi tiết học cũng giúp tạo động
lực cho học sinh vì các em ln muốn biết cần mong đợi điều gì ở bài học này.
- Đặt mục tiêu đầu mỗi học kỳ: Đặt ra những mục tiêu thực tế là điều rất quan trọng và
việc đạt được những mục tiêu sẽ mang đến cho học sinh niềm vui và cảm hứng để cố
gắng hơn.
Học sinh, giáo viên có thể tìm kiếm một số mẫu phiếu để hướng dẫn học sinh cách đặt
mục tiêu đầu học kỳ và sau đó, dành thời gian vào cuối mỗi học kỳ để suy ngẫm về mức
độ đạt được so với mục tiêu đề ra.
- Lời khen và phần thưởng: Ghi nhận thành quả của học sinh và đánh giá đúng sự nỗ lực
cố gắng là điều quan trọng để tạo động lực cho học sinh.
17


Giáo viên có thể tạo ra các lời khen nhanh, mang tính cá nhân đối với những trường hợp
học sinh có hành vi hoặc thành tích học tập tốt.
Ngồi ra, giáo viên có thể xây dựng một hệ thống phần thưởng, và dùng nó để khích lệ
khi học sinh có những thành tích hay sự nỗ lực vượt bậc.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, lời khen giúp cải thiện 73% chất lượng của quá trình học
tập của học sinh. Vì vậy, hãy sử dụng nó thật thường xun.

18




×