Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Nghiên cứu tình hình sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại trạm y tế xã của người dân tại huyện Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.36 KB, 78 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................................1

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU.............................................................3
1.1.Hệ thống y tế..........................................................................................3
1.2.Một số khái niệm về dịch vụ khám chữa bệnh...................................5
1.3.Một số đặc điểm về tuyến y tế cơ sở tại Việt Nam.................................8
1.4.Những yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh
13
1.5.Các nghiên cứu về sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh..........................16
1.6.Đặc điểm hệ thống cung cấp dịch vụ y tế huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa
Thiên Huế.......................................................................................................20
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..............23
2.1.Đối tượng nghiên cứu..........................................................................23
2.2.Địa điểm và thời gian nghiên cứu.....................................................23
2.3.Phương pháp nghiên cứu....................................................................23
2.4.Nội dung và các biến số nghiên cứu...................................................28
2.5.Phương pháp thu thập thông tin........................................................31
2.6.Hạn chế sai số.......................................................................................32
2.7.Xử lý số liệu..........................................................................................32
2.8.Hạn chế của nghiên cứu......................................................................32
2.9.Đạo đức trong nghiên cứu..................................................................33
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.........................................................34
3.1.Tình hình sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại
trạm y tế xã của người dân.................................................................34
3.2.Một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa
bệnh tại trạm y tế xã của người dân..................................................44
Chương 4. BÀN LUẬN.................................................................................52
4.1.Tình hình sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại
trạm y tế xã của người dân.................................................................52
4.2.Một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa


bệnh tại trạm y tế xã của người dân..................................................60
KẾT LUẬN....................................................................................................67
KIẾN NGHỊ...................................................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHỤ LỤC


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhà nước ta ln chú trọng vai trị của trạm y tế xã, phường nói riêng
cũng như vai trị của y tế cơ sở nói chung. Ngay từ những ngày đầu giải
phóng, Đảng và Chính phủ đã có chủ trương đưa các hoạt động y tế chuyên
về giải quyết các vấn đề của sức khỏe cộng đồng [27]. Vì vậy, y tế cơ sở đã
góp phần làm nên nhiều thành tựu cho hệ thống y tế Việt Nam trong những
thập kỷ qua.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, nhiệm vụ của y tế cơ sở cũng
có nhiều thay đổi để đáp ứng với chức năng chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Trong thời gian qua, hệ thống y tế nước ta đã được kiện toàn mạng
lưới tổ chức từ trung ương đến địa phương, đảm bảo thực hiện công bằng
trong khám chữa bệnh cho đối tượng người nghèo, trẻ em và nhân dân
miền núi vùng sâu, vùng xa, đã góp phần đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân
dân về chăm sóc sức khoẻ và thực hiện công bằng trong khám chữa bệnh.
Những thay đổi gần đây của ngành y tế Việt Nam, đặc biệt là sự phát triển các
loại hình bảo hiểm và sự đầu tư của chính phủ, đã tạo nên sự chuyển biến
trong cung và cầu của hệ thống khám chữa bệnh, đặc biệt là ở tuyến xã.
Những chính sách miễn giảm chi phí chăm sóc y tế của Chính phủ đã giúp
làm tăng khả năng tiếp cận của đối tượng nghèo và dễ bị tổn thương với

dịch vụ y tế tuyến xã đồng thời làm tăng khối lượng công việc của đội ngũ
nhân viên y tế tuyến này.
Tuy vậy, vẫn có một thực tế nhiều trạm y tế cơ sở xã phường, thị trấn,
nhất là những vùng nông thôn miền núi, mặc dù đã được đầu tư xây dựng
khang trang, nhưng tình hình khám chữa bệnh vẫn khơng khả quan, tỷ lệ
người dân đến khám chữa bệnh tại trạm y tế cịn q thấp. Theo một số
nghiên cứu về tình hình sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh thì hình thức tự mua
thuốc điều trị khá cao với lý do bệnh nhẹ, trạm y tế ở xa [8], [33], [40].


2
Phú Lộc là một huyện phía nam của tỉnh Thừa Thiên Huế, bao gồm 16
xã và 2 thị trấn vùng đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển, nghề nghiệp
chính của người dân ở đây là nông nghiệp, ngư nghiệp và trồng rừng... Là một
huyện nghèo thứ 3 của tỉnh Thừa Thiên Huế, cuộc sống của người dân nơi
đây hiện đang gặp nhiều khó khăn và rất cần sự giúp đỡ, hỗ trợ của các cơ
quan tổ chức, ban ngành các cấp cũng như của Nhà nước.
Trong thời gian qua, mặc dù đã có một số đề tài nghiên cứu về tình hình
cung cấp và sử dụng dịch vụ y tế tại trạm y tế xã nhưng chưa tập trung vào
các yếu tố liên quan trực tiếp đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh.
Xuất phát từ thực tế trên và để góp phần củng cố, nâng cao cơng tác khám
chữa bệnh, đồng thời giúp cho việc đưa ra các giải pháp, chính sách phù hợp
làm tăng tỷ lệ người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại trạm
y tế xã, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tình hình sử dụng
dịch vụ khám chữa bệnh tại trạm y tế xã của người dân tại huyện Phú Lộc
tỉnh Thừa Thiên Huế” với hai mục tiêu:
1. Mơ tả tình hình sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại trạm y tế xã của
người dân tại huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa
bệnh tại trạm y tế xã của người dân tại huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.



3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. HỆ THỐNG Y TẾ
Hệ thống y tế bao gồm 5 hợp phần nguồn lực đầu vào: nhân lực y tế;
cơ chế tài chính y tế; hệ thống thông tin y tế; dược phẩm, vaccine, sinh phẩm
y tế, trang thiết bị, công nghệ và cơ sở hạ tầng; lãnh đạo và nguồn lực nhằm
để cung ứng dịch vụ y tế tốt nhất cho mọi người dân, bao gồm các dịch vụ
khám chữa bệnh (KCB), phục hồi chức năng, phòng bệnh, nâng cao sức
khỏe, được sắp xếp thành mạng lưới có chức năng phù hợp theo các tuyến.
Các dịch vụ y tế cũng cần đạt được những tiêu chí cơ bản, đó là bao phủ tồn
dân, người dân có khả năng tiếp cận được (về tài chính và địa lý), các dịch vụ
phải bảo đảm công bằng, hiệu quả và chất lượng [4]. Các hợp phần nguồn lực
đầu vào của hệ thống y tế cần có những tiêu chí cơ bản sau:
Nhân lực y tế phải đủ về số lượng, cơ cấu và phân bố hợp lý, đảm bảo
trình độ chun mơn theo nhiệm vụ được giao, làm việc với tinh thần trách
nhiệm cao và ứng xử tốt.
Cơ chế tài chính y tế cần huy động đủ nguồn kinh phí đầu tư cho y tế với
cơ cấu hợp lý giữa chi tiêu công và chi tiêu tư cho y tế, bảo đảm người dân có
khả năng tiếp cận và sử dụng được các dịch vụ y tế (DVYT) khi cần thiết,
được bảo vệ để tránh khỏi rủi ro tài chính hoặc nghèo đói do các chi phí liên
quan đến y tế; đồng thời khuyến khích việc sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí
sẵn có dành cho y tế.
Hệ thống thông tin y tế phải thu thập, phân tích và cung cấp các thơng tin
tin cậy và kịp thời giúp cho việc hoạch định chính sách và quản lý các hoạt
động của hệ thống y tế.



4
Dược phẩm, vaccine, sinh phẩm y tế, trang thiết bị y tế, công nghệ và
cơ sở hạ tầng là những yếu tố đầu vào không thể thiếu cho hệ thống y tế
vận hành. Các yếu tố này cần có chất lượng đúng theo quy định để dịch vụ
y tế có chất lượng, an toàn và hiệu quả.
Lãnh đạo và quản trị bao gồm phải đảm bảo có các khung chính sách
chiến lược, kết hợp với việc giám sát hiệu quả, xây dựng sự liên kết, các văn
bản pháp quy, quan tâm đến thiết kế hệ thống và tính trách nhiệm.
Đầu vào

Q trình

Nhân lực
Mức độ bao phủ
Tài chính y tế

Tiếp cận và sử dụng

Hệ thống
thông tin y tế

Cung ứng
dịch vụ

Dược, TTB y tế,
công nghệ

Đầu ra, mục tiêu
Phát triển

kinh tế -xã hội

Chất lượng
Cơng bằng, hiệu quả

Tình trạng
sức khỏe
Cơng bằng
xã hội

Quản lý và quản trị
Hình 1.1. Khung hệ thống y tế Việt Nam[4]
Kết quả đầu ra và mục đích cuối cùng của hệ thống y tế là nâng cao
sức khỏe nhân dân, đồng thời góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội và phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước [4].
Hệ thống y tế Việt Nam với sự phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ
y tế cơng và tư đã làm cho người dân có nhiều cơ hội lựa chọn các cơ sở y tế.
Việc lựa chọn này bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: khoảng cách, thời gian
phục vụ, giá cả, tinh thần thái độ của người thầy thuốc… Ngồi ra cịn là một
yếu tố rất quan trọng khác và có tính chất quyết định đến lựa chọn cơ sở y tế,


5
đó là chất lượng khám chữa bệnh của cơ sở. Người dân thường lựa chọn những
cơ sở y tế (CSYT) có chất lượng tốt hoặc dễ tiếp cận để khám chữa bệnh [5].
Về cơ bản hệ thống y tế Việt Nam được xây dựng theo bậc thang hành
chính, từ xã, phường đến tỉnh, trung ương. Do vậy, hệ thống y tế Việt Nam
được chia làm 4 tuyến: tuyến trung ương, tuyến tỉnh, tuyến huyện và tuyến
xã. Trong tuyến xã có trạm y tế (TYT) và y tế thôn. Y tế cơ sở bao gồm y tế
tuyến huyện và y tế tuyến xã [6].

1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH
1.2.1. Khái niệm về dịch vụ khám chữa bệnh
Dịch vụ y tế bao gồm tất cả các dịch vụ liên quan đến chẩn đoán và
điều trị bệnh hay dịch vụ khám chữa bệnh (DVKCB), phòng bệnh, phục hồi
chức năng, bao gồm những dịch vụ liên quan trực tiếp và gián tiếp đến con
người. Dịch vụ y tế là kết quả cụ thể của bất kì hệ thống y tế nào. Nói đến
cung cấp dịch vụ tức là nói đến những biện pháp mà các nhà cung cấp dịch
vụ áp dụng để kết hợp các nguồn lực đầu vào như tiền, con người, trang thiết
bị và thuốc, nhằm cung cấp các dịch vụ/can thiệp y tế. Để cải thiện sự tiếp
cận, độ bao phủ và chất lượng dịch vụ, các nhà quản lý y tế cần phải dựa vào
những nguồn lực đầu vào, dựa vào cách thức tổ chức và hệ thống quản lý
các dịch vụ y tế và dựa vào việc động viên, khuyến khích người cung cấp và
người sử dụng dịch vụ [53].
Dịch vụ khám chữa bệnh liên quan đến biện pháp can thiệp để chữa
bệnh. Khi người dân bị mắc bệnh họ sẽ có nhu cầu được khám bệnh để phát
hiện bệnh bị mắc, sau đó được điều trị và chăm sóc để khỏi bệnh [52].
Khám bệnh là việc hỏi bệnh, khai thác tiền sử bệnh, thăm khám thực thể,
khi cần thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, thăm dò chức năng
để chẩn đoán và chỉ định phương pháp điều trị phù hợp đã được công nhận.
Chữa bệnh là việc sử dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật đã được công


6
nhận và thuốc đã được phép lưu hành để cấp cứu, điều trị, chăm sóc, phục hồi
chức năng cho người bệnh [37], [53].
1.2.2. Đặc điểm của dịch vụ khám chữa bệnh
Cung ứng dịch vụ y tế được coi là chức năng chủ yếu của hệ thống y tế,
có vai trị chi phối kết quả hoạt động của cả hệ thống y tế. Theo Tổ chức y tế
thế giới, dịch vụ y tế tốt là dịch vụ có hiệu lực, an tồn, có chất lượng, được
cung cấp cho những người cần sử dụng tại thời điểm và nơi hợp lý, giảm thiểu

chi phí nguồn lực [58].
Sử dụng dịch vụ y tế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: nhu cầu chăm sóc
sức khỏe (CSSK), khả năng cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khả năng
chi trả, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế (tiếp cận về khoảng cách xa-gần, tiếp
cận về kinh tế đắt-phù hợp-rẻ-miễn phí, tiếp cận về các dịch vụ thuận tiện,
thái độ phục vụ, sự hài lịng hay u cầu chăm sóc sức khỏe, tiếp cận về văn
hóa, các tập quán sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh [48].
Chi phí chăm sóc sức khoẻ có thể cao hơn so với thu nhập, sức khoẻ kém
sẽ giảm khả năng làm việc, khi bị bệnh người bệnh thường ít tính toán khả
năng kinh tế mà chủ yếu tập trung để chữa bệnh, thậm chí là cầm cố cả gia tài
để điều trị, số khác có hồn cảnh kinh tế khá thường yêu cầu phục vụ rất cao.
Người bệnh trực tiếp tham gia sản xuất cũng như tiêu thụ dịch vụ y tế,
tuy nhiên có khi họ khơng địi hỏi tiêu thụ vì bản thân họ khơng có tiền, lúc
đó vai trị của Nhà nước cần có phương pháp điều chỉnh để thực hiện công
bằng trong sử dụng DVKCB đối với người nghèo, người có thu nhập thấp.
Quyết định DVKCB có khi khơng phục hồi được, thầy thuốc quyết định
và chỉ định phương pháp chữa bệnh, còn người bệnh phải thanh toán chi trả
tiền dịch vụ mà thầy thuốc ra quyết định nhưng cũng có khi người bệnh chi
trả nhiều tiền nhưng tình trạng bệnh tật vẫn khơng cải thiện, thậm chí lâm
vào cảnh tiền mất tật mang.
Dịch vụ khám chữa bệnh không hướng tới tự do cạnh tranh, sự cạnh
tranh và hành nghề phải có tiêu chuẩn và cần có cả uy tín và sự tin cậy (bệnh


7
nhân nào cũng muốn đến nơi chữa bệnh tốt dù chi phí rất cao). Marketing
của dịch vụ khám chữa bệnh khơng phải là chữa bệnh. Mục đích của y tế là
làm sao cho dân khoẻ mạnh ít vào bệnh viện, vì vậy marketing chỉ sử dụng
cho phịng bệnh tạo ra sức khoẻ và tăng cường sức khoẻ.
1.2.3. Hệ thống dịch vụ khám chữa bệnh


Bệnh
hiểm nghèo,
cần KCB
chuyên sâu
Bệnh vừa, nặng
cần chăm sóc
chun khoa
Nhu cầu phịng bệnh,
CSSKBĐ
Nhu cầu của
người bệnh

Dịch vụ
y tế
chun
sâu
Dịch vụ y tế
chuyên khoa

Bệnh
viện
TW,
tỉnh
hạng 1

Bệnh
viện
tỉnh,
huyện

hạng
2,3,4

CSSKBĐ

Hệ thống có chuyển
tuyến hiệu quả

Bệnh viện
huyện, trung
tâm y tế dự
phịng,
Trung tâm
HIV/AIDS,
y tế thơn
bản, chương
trình mục
tiêu quốc gia

Hệ thống hiện nay của
Việt Nam

Hình 1.2. Nhu cầu KCB, mơ hình chuyển tuyến
và cơ cấu tổ chức KCB hiện nay ở Việt Nam [4]
Mạng lưới khám bệnh, chữa bệnh từ trung ương đến địa phương đang
ngày càng được củng cố và hoàn thiện hơn với 13239 cơ sở y tế gồm 1030
bệnh viện, 641 phòng khám đa khoa khu vực và 11472 trạm y tế xã/phường
và trạm y tế bộ/ngành [43]. Hệ thống y tế xã, phường đã đóng góp tích cực
vào cơng tác chăm sóc sức khỏe ban đầu và khám, chữa bệnh thông thường
cho cộng đồng dân cư. Số phòng khám bệnh đa khoa, chuyên khoa tuy là loại

hình y tế chiếm số lượng ít nhất và khơng có sự biến động nhiều về số lượng
nhưng lại thay đổi theo hướng phát triển các phòng khám đa khoa thuộc khối
doanh nghiệp, điều này thể hiện sự đúng đắn của chính sách phát triển đa


8
dạng hóa các loại hình sở hữu của Đảng và nhà nước, góp phần đáp ứng tốt
hơn nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng tăng của người dân [44].
Tuyến y tế xã, phường là nơi tiếp cận gần gũi dân nhất là nơi nhân dân
tiếp xúc đầu tiên với dịch vụ y tế. Trạm y tế xã, phường không chỉ thực hiện
CSSK ở trạm mà cịn có trách nhiệm tổ chức, hướng dẫn, giám sát, hỗ trợ các
hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân tại gia đình, thơn, bản [6].
1.3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ TUYẾN Y TẾ CƠ SỞ TẠI VIỆT NAM
1.3.1. Định nghĩa y tế cơ sở
Y tế cơ sở (YTCS) là đơn vị kỹ thuật y tế đầu tiên tiếp xúc với nhân dân,
nằm trong hệ thống y tế Nhà nước có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ kỹ thuật
chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ), phát hiện dịch sớm, chữa các bệnh và
đỡ đẻ thông thường, vận động nhân dân thực hiện các biện pháp kế hoạch hố
gia đình, vệ sinh phòng bệnh, tăng cường sức khoẻ [3], [45].
Y tế cơ sở được tổ chức theo địa bàn cụm dân cư và nhu cầu chăm sóc
sức khoẻ của cộng đồng. Cán bộ y tế cơ sở phải có trình độ chun môn kỹ
thuật phù hợp, cán bộ phụ trách y tế cơ sở phải có năng lực quản lý để chỉ đạo
thống nhất các mặt hoạt động y tế, bảo đảm chất lượng và hiệu quả [45].
YTCS chiếm một vị trí chiến lược rất quan trọng trong hệ thống y tế Nhà
nước, góp phần quyết định thành cơng của cơng tác chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân. TYT là tuyến gần nhất, sát với dân nhất, phát hiện những vấn
đề sức khỏe đầu tiên và quyết định đúng hướng, xử lý sớm để quyết định kết
quả của mọi vấn đề sức khỏe là nơi thể hiện sự công bằng trong CSSKBĐ rõ
nhất, là bộ phận quan trọng nhất của ngành y tế tham gia phát triển y tế và ổn
định chính trị xã hội ở cơ sở.

1.3.2. Đặc điểm của trạm y tế xã, phường và y tế thôn bản
1.3.2.1. Trạm y tế xã phường
Trạm y tế là đơn vị kỹ thuật đầu tiên tiếp xúc với nhân dân, nằm trong
hệ thống y tế Nhà nước, có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ kỹ thuật CSSKBĐ,


9
phát hiện dịch sớm và phòng chống dịch bệnh, CSSKBĐ và đỡ đẻ thông
thường, cung ứng thuốc thiết yếu, vận động nhân dân thực hiện các biện pháp
kế hoạch hóa gia đình, tăng cường sức khỏe [6].
Nhiệm vụ của trạm y tế xã, phường (Theo thông tư liên bộ số 08/TT-LB
ngày 20/04/1995)[3],[6]:
- Lập kế hoạch các mặt hoạt động và lựa chọn chương trình ưu tiên về
chun mơn y tế và tổ chức triển khai thực hiện.
- Phát hiện, báo cáo kịp thời các bệnh dịch lên tuyến trên và thực hiện
các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, phòng chống dịch; tuyên truyền ý thức bảo
vệ sức khoẻ cho mọi đối tượng tại cộng đồng.
- Tổ chức sơ cứu ban đầu, khám, chữa bệnh thông thường cho nhân dân
tại trạm y tế và mở rộng dần việc quản lý sức khoẻ tại hộ gia đình.
- Xây dựng vốn tủ thuốc, hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn và hợp lý;
phát triển thuốc nam, kết hợp y học dân tộc trong phòng và chữa bệnh.
- Quản lý các chỉ số sức khoẻ và tổng hợp báo cáo, cung cấp thông tin
kịp thời, chính xác lên tuyến trên.
- Bồi dưỡng kiến thức chuyên môn kỹ thuật cho cán bộ y tế thôn, làng,
ấp, bản và nhân viên y tế cộng đồng.
- Tham mưu cho chính quyền địa phương chỉ đạo thực hiện các nội dung
CSSKBĐ và tổ chức thực hiện những nội dung đó tại địa phương.


10

1.3.2.2. Y tế thơn, bản
Y tế thơn bản khơng có tổ chức, chỉ có nhân lực bán chuyên trách, có tên
là Nhân viên Y tế thôn bản. Y tế thôn, bản không thuộc biên chế của Nhà
nước, là lực lượng tình nguyện, do dân tại thơn bản cử ra [6].
Nhân viên Y tế thơn, bản có các nhiệm vụ: Truyền thông, giáo dục sức
khỏe, hướng dẫn nhân dân thực hiện vệ sinh phòng dịch bệnh; CSSK bà mẹ
trẻ em và kế hoạch hóa gia đình; Sơ cứu ban đầu và chăm sóc bệnh thơng
thường, thực hiện các chương trình y tế trong thôn bản [6].
1.3.3. Mạng lưới y tế cơ sở ở Việt Nam
Nước ta là một nước nông nghiệp, gồm 80% dân số là nơng dân. Vì vậy
đặc trưng của y tế cơ sở ở nước ta là y tế nơng thơn. Mơ hình bệnh tật ở nước
ta đang thay đổi nhưng cơ bản vẫn là mơ hình bệnh tật của nước công nghiệp
đang phát triển, đứng đầu là các bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng .
Trong những năm gân đây, nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ở nước ta tăng
cao và đa dạng. Ngành y tế đã có nhiều cố gắng để nâng cao chất lượng khám
chữa bệnh bằng cách đầu tư con người và thiết bị để phát triển kỹ thuật mới
và gia tăng quy mô để đảm bảo phục vụ nhu cầu ngày càng tăng. Tuy vậy, cho
một số đối tượng có nhu cầu và khả năng chi trả cao hay ở một số vùng khó
khăn như miền núi, hải đảo thì khả năng cung cấp các dịch vụ khám chữa
bệnh còn chưa đáp ứng được nhu cầu. Trong bối cảnh đó, mơ hình phân phối
dịch vụ y tế ở Việt Nam đã có những biến động, một phần người bệnh có nhu
cầu cao về dịch vụ khám chữa bệnh bắt đầu chuyển sang chọn lựa các cơ sở
dịch vụ y tế tư nhân, nơi cung cấp dịch vụ y tế có chất lượng chức năng tốt
hơn, một số người bệnh có điều kiện sẵn sàng ra nước ngoài để khám và điều
trị, những người bệnh ở các vùng miền núi, hải đảo vẫn cịn khó khăn để tiếp
cận được các dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng. Trước tình hình này, nếu
khơng có những bước can thiệp hiệu quả, khơng đưa ra được những loại
hình dịch vụ khám chữa bệnh trong nước phù hợp cho các cấp độ chất
lượng, cho những nhu cầu khác nhau thì tình trạng thiệt hại nguồn lực của



11
các cơ sở y tế công, cũng như nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ khám chữa
bệnh chất lượng cho người bệnh ở những vùng miền núi, hải đảo sẽ tiếp tục
gặp nhiều khó khăn [28].
Để cải thiện tình hình trên, Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách
nhằm bảo đảm công bằng trong cung ứng dịch vụ y tế, đặc biệt là chủ trương
phát triển y tế cơ sở; đẩy mạnh CSSKBĐ; ưu tiên miền núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn; hỗ trợ tài chính cho người nghèo, cận nghèo, trẻ em dưới
6 tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số khi đi KCB [3], [10], [45]... Mặc dù vậy,
người nghèo và người dân tộc thiểu số vẫn gặp khó khăn trong tiếp cận và sử
dụng dịch vụ KCB nội trú và ngoại trú so với những nhóm dân cư khác. Mạng
lưới KCB được phát triển rộng khắp toàn quốc, từ trung ương đến địa
phương, nhưng chất lượng dịch vụ giữa các địa phương, vùng miền còn khác
nhau khá nhiều. Y tế tư nhân phát triển, nhưng tập trung chính ở các vùng
thuận lợi, vùng đơ thị, kinh tế khá.
Ngồi ra, khi mơ hình bệnh tật thay đổi theo hướng tỷ lệ mắc bệnh mạn
tính, khơng lây nhiễm, số người cao tuổi tăng nhanh với nhiều bệnh kèm
theo, hệ thống khám chữa bệnh chưa được điều chỉnh cho phù hợp, bảo đảm
cho tuyến y tế cơ sở có thể quản lý các bệnh mạn tính, bệnh nhân người cao
tuổi, nhằm tăng hiệu lực của hệ thống y tế, giảm chi phí xã hội của những
nhóm bệnh này.
Trạm y tế xã với cơ cấu đội ngũ nhân lực gồm có một bác sĩ đa khoa,
điều dưỡng, y sĩ, nữ hộ sinh, dược sĩ… có thể giải quyết tốt các bệnh thông
thường ở cộng đồng nhằm thực hiện 10 nội dung trong chăm sóc sức khỏe
ban đầu CSSKBĐ của trạm y tế. Tuy nhiên hoạt động khám chữa bệnh tại
trạm y tế nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc bảo vệ sức khỏe
nhân dân. Do sự hạn chế về mặt năng lực của tuyến y tế xã nên tình trạng
vượt tuyến để khám chữa bệnh thơng thường cịn phổ biến, một phần cũng do



12
các bệnh viện tuyến trên có nhu cầu thu hút bệnh nhân, vừa gây quá tải bệnh
viện tuyến trên, vừa gây lãng phí của xã hội [4].
Ở Việt Nam, cơ sở y tế gần với người dân nhất, dễ tiếp cận nhất chính là
trạm y tế xã. Việc củng cố hoạt động cũng như khả năng nâng cao chất lượng
hoạt động YTCS, đặc biệt trạm y tế xã là cần thiết để làm tăng khả năng tiếp
cận của người dân đối với cơ sở y tế cũng như đảm bảo được sự cơng bằng
trong chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
1.3.4. Một số giải pháp củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở
Theo Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến 2030, các giải pháp chủ yếu để củng cố
và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đổi mới CSSKBĐ [47] bao gồm:
Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới trạm y tế xã, trung tâm y tế
huyện; bảo đảm 100% số xã có trạm y tế phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội
và nhu cầu KCB từng vùng; tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ
chăm sóc sức khỏe ban đầu; kết hợp hài hòa các hoạt động giữa các đơn vị y
tế trong huyện; thực hiện tốt tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011-2020;
phát triển đội ngũ nhân viên y tế thôn bản nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng
xa, khu vực biên giới; chú trọng nâng cao năng lực cho các bà đỡ dân gian tại
các thôn, bản chưa đủ cán bộ y tế hoạt động; tăng cường hoạt động bác sỹ gia
đình; triển khai quản lý bệnh không lây nhiễm gắn với chăm sóc sức khỏe ban
đầu và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại cộng đồng.
Mở rộng các hình thức đào tạo và bồi dưỡng để phát triển đội ngũ cán bộ
y tế cơ sở, ưu tiên đào tạo cán bộ y tế người dân tộc tại chỗ. Bảo đảm đủ chức
danh cán bộ cho TYT, chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ y-dược
học cổ truyền.
Xây dựng các chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ nhân dân miền núi,
vùng sâu, vùng xa, đặc biệt quan tâm tới đồng bào các dân tộc thiểu số, nâng



13
cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng cho nhân dân vùng nghèo,
dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng khó khăn.
Củng cố tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả
của Ban chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở cơ sở; nâng cao nhận thức và tăng
cường sự tham gia, phối hợp của chính quyền địa phương, các tổ chức chính
trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp đối với hoạt động chăm
sóc sức khoẻ ban đầu; thực hiện lồng ghép các chương trình, mục tiêu, đẩy
mạnh các hoạt động truyền thông-giáo dục sức khỏe tại cộng đồng.
1.4. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG DỊCH VỤ
KHÁM CHỮA BỆNH
1.4.1. Tiếp cận
Tiếp cận y tế là khả năng mà người sử dụng các dịch vụ sức khỏe cần có
thể đáp ứng tại nơi cung cấp dịch vụ. Mục đích của dịch vụ y tế là đến với
mọi người cộng đồng nhằm thỏa mãn nhu cầu về sức khỏe cho con người và
cộng đồng.
Các yếu tố chính quyết định việc tiếp cận với các dịch vụ y tế là điều
kiện kinh tế, xã hội của một gia đình. Hành vi tìm kiếm DVYT trong một hộ
gia đình là một q trình ln biến đổi phụ thuộc vào kiến thức, nguồn lực,
thông tin, kĩ năng và sự sẵn có của cơng nghệ và các dịch vụ. Các lí do về văn
hố như trình độ học vấn (TĐHV) thấp, bất bình đẳng giới, ngăn cản phụ nữ
tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản. Bên cạnh sự khác nhau về giới, sự mất công
bằng khi tiếp cận DVYT càng trở nên rõ ràng hơn ở nhóm người cao tuổi và
điều kiện kinh tế thấp [53].
Để việc sử dụng dịch vụ của CSYT có hiệu quả cao thì cần nâng cao chất
lượng KCB. Một số nghiên cứu cho thấy việc nâng cao chất lượng dịch vụ y


14

tế có thể sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng dịch vụ y tế của người dân, làm tăng
nhu cầu đối với dịch vụ y tế và do vậy tăng sự tiếp cận. Nếu người dân sẵn
sàng chi trả để có được chất lượng dịch vụ y tế cao hơn thì chúng ta cũng cần
xác định các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và nâng cao
hiệu quả sử dụng của CSYT [5].
Tiếp cận dịch vụ y tế phụ thuộc vào 4 nhóm yếu tố sau:
- Nhóm khoảng cách từ nơi ở đến cơ sở y tế
- Nhóm yếu tố kinh tế
- Nhóm yếu tố dịch vụ y tế
- Nhóm yếu tố về văn hóa
1.4.2. Yếu tố bệnh
Mức độ bệnh sẽ quyết định sự lựa chọn cách thức chữa bệnh của người
dân. Khi bị những bệnh thông thường mọi người đều chung cách giải quyết là
để tự khỏi hoặc sử dụng các loại thuốc sẵn có trong nhà hoặc mua thuốc tự
chữa mà khơng có sự can thiệp của thầy thuốc. Họ chỉ đến các CSYT khi
bệnh khơng khỏi. Đối với những người có điều kiện khá hơn thì đi khám chữa
bệnh ở tuyến trên; cịn đối với những người nghèo thì chọn y tế địa phương.
1.4.3. Yếu tố giá cả
Các trường hợp bệnh nặng, cấp cứu thì việc lựa chọn các DVYT khơng
phụ thuộc vào thu nhập. Dù nghèo khó đến mức nào họ cũng sẵn sàng bán cả
tài sản thậm chí là cả nhà cửa chỉ mong sao người thân của họ được cứu sống.
Thế nhưng các trường hợp nhẹ và vừa thì vấn đề thu nhập và giá cả có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn và sử dụng đến dịch vụ y tế. Lúc này họ
đến các cơ sở y tế thuộc địa bàn họ cư trú để KCB, vì giá cả thấp hơn hợp lý
với thu nhập của họ. Nhiều nghiên cứu đã nhận xét là người bệnh mua thuốc về
tự điều trị là hình thức điều trị tiết kiệm nhất lại chiếm tỉ lệ cao nhất 61,5% [14],
hoặc đến thầy thuốc gần nhà. Người ở thành thị đến bệnh viện khám chữa


15

bệnh gấp 1,6 lần so với người ở nông thôn [42].
1.4.4. Yếu tố dịch vụ khám chữa bệnh
DVKCB là một dịch vụ khá đặc biệt. Về bản chất, dịch vụ khám chữa
bệnh bao gồm các hoạt động được thực hiện bởi nhân viên y tế như khám,
chữa bệnh phục vụ bệnh nhân và gia đình.
Chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh là khả năng của các dịch vụ khám
chữa bệnh đáp ứng các nhu cầu của người bệnh và các bên có liên quan. Nhu
cầu ln ln biến động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời
gian, không gian, điều kiện sử dụng từ phía người bệnh, từ các yêu cầu mang
tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội. Chất lượng của dịch vụ khám
chữa bệnh cịn liên quan đến khả năng thanh tốn của người bệnh cho một
mức độ chất lượng nào đó [28].
1.4.5. Yếu tố đặc trưng cá nhân
Nhiều tác giả cho thấy rõ các yếu tố liên quan gần nhất đến việc sử dụng
dịch vụ y tế là yếu tố cá thể của con người như tuổi, giới, văn hóa, nghề
nghiệp, dân tộc… [8], [33], [40] và sự lựa chọn dịch vụ y tế của người dân.
Các lựa chọn sử dụng dịch vụ y tế của người dân:
- Tự điều trị: Người dân thường hay sử dụng thuốc có sẵn trong nhà,
hoặc tự mua thuốc ở quầy thuốc, đây là loại hình hay được sử dụng nhất cho
những trường hợp nhẹ và thông thường hay gặp ở cộng đồng.
- Đến phòng khám tư hay thầy thuốc tư: Khi tự điều trị khơng có kết quả
người dân đặc biệt là ở những người không có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT)
thường lựa chọn hình thức này vì ở đây có rất nhiều yếu tố thuận lợi để chăm
sóc sức khỏe tốt hơn như là tiếp cận nhanh chóng dễ dàng và giảm thiểu thời
gian chờ đợi. Tuy nhiên giá thành tại những cơ sở y tế này thường cao hơn.
- Đến các trạm y tế xã, phòng khám khu vực: Hầu hết người dân đến đây
để khám và chữa bệnh thông thường, sinh đẻ. Đặc biệt là để thực hiện các


16

dịch vụ phòng bệnh: tiêm chủng các loại vắc xin, uống vitamin A… Điều kiện
cơ sở vật chất và trang thiết bị của trạm y tế theo đánh giá của phần lớn người
dân là còn nghèo nàn, danh mục thuốc hạn chế và niềm tin vào trình độ
chun mơn của cán bộ y tế tại những nơi này ngày càng sụt giảm.
- Đến bệnh viện: Khi đã điều trị không khỏi ở các cơ sở y tế nói trên thì
người bệnh mới tới bệnh viện. Vì ở đây người bệnh cũng như người nhà bệnh
nhân phải đối mặt với hàng loạt những khó khăn trong sử dụng các DVYT và
sinh hoạt thường ngày, chi phí lại tốn kém nhất.
1.5. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH
1.5.1. Các nghiên cứu nước ngồi
Một số nghiên cứu về tình hình sử dụng dịch vụ y tế trên thế giới cho
thấy quyết định của người bệnh đi đâu làm gì khi ốm đau phụ thuộc rất nhiều
vào chất lượng dịch vụ y tế, giá thành, loại bệnh, mức độ bệnh cũng như
khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế và khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế
của người dân.
Nghiên cứu của Leiyu Shi và cộng sự (2012) so sánh sự phân phối các
dịch vụ trong chăm sóc ban đầu tại Mỹ giữa các trung tâm y tế, phòng khám
ngoại trú và phòng khám tư nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy năm 2006, có
tổng số 998,6 triệu lượt khám chữa bệnh tại 3 dạng cơ sở này, trong đó mỗi
bệnh nhân có 3,4 lần khám trong 1 năm. Các trung tâm y tế chỉ tiếp nhận
khoảng 2,3% trong tất cả các lượt khám chữa bệnh, trong khi đó phịng khám
tư nhân lại chịu trách nhiệm đến 84,1% các lượt khám và 13,6% còn lại thuộc
về phòng khám ngoại trú. Ngồi ra, nhóm tuổi 18-64 đến khám chữa bệnh
chiếm đến 53,3%. Phí khám chữa bệnh thuộc về Medicare là 15,8%,
Medicaid là 20,4% và tự chi trả chiếm đến 53,2% [56].
Năm 2003, Leiyu Shi cũng đã tiến hành một nghiên cứu so sánh chất
lượng chăm sóc ban đầu của các trạm y tế xã và các tổ chức duy trì sức khỏe.


17

Nghiên cứu 333 người sử dụng dịch vụ tại các tổ chức duy trì sức khỏe thì có
đến 87% người tự chọn đến các trung tâm này để khám chữa bệnh trong khi
đó chỉ có 13% người sử dụng dịch vụ buộc phải đến đó theo yêu cầu. Trong
490 người được phỏng vấn, có 71,4% tự chọn đến trạm y tế xã và 28,6% đến
khám chữa bệnh do đã đăng kí trước đó [57].
Nghiên cứu của Wong và cộng sự (2010) tại Hồng Kông so sánh các trải
nghiệm về chăm sóc ban đầu của người trưởng thành trong các phịng khám
ngoại trú tổng quát CSSKBĐ và các phòng khám thực hành tổng quát tư
nhân. Kết quả cho thấy trong 1000 người tham gia nghiên cứu, có 20% người
chọn các phịng khám ngoại trú tổng quát CSSKBĐ, 75,9% chọn các phòng
khám thực hành tổng quát tư nhân và có 3,5% chọn các phòng khám y học cổ
truyền là nơi khám chữa bệnh ban đầu của mình. Kết quả cũng cho thấy phụ
nữ, người già, người nghèo, người mắc bệnh mãn tính và có trình độ học vấn
thấp thường sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại các phòng khám ngoại trú
tổng quát CSSKBĐ [59].
1.5.2. Các nghiên cứu trong nước
Ngay từ những năm 1990, ở nước ta có những cuộc điều tra nghiên cứu
về sử dụng dịch vụ [11], điều này hoàn tồn phù hợp với u cầu đổi mới
chính sách y tế. Các nghiên cứu đã đưa ra nhiều mơ hình sử dụng dịch vụ y tế
rất khác nhau tuỳ theo từng vùng địa lý, theo các đặc trưng của người ốm và
theo mức độ nặng nhẹ của bệnh. Nhìn chung các nghiên cứu đều đưa ra kết
quả chung nhất là hình thức tự mua thuốc điều trị khá cao với lý do bệnh nhẹ,
trạm y tế ở xa [8], [40]. Nơi khám chữa bệnh của người dân cũng đa dạng; ở
bệnh viện, tại trạm y tế xã , y tế tư nhân và thậm chí khơng sử dụng dịch vụ.
Nghiên cứu của Phan Nam Bình năm 2012 về tình hình sử dụng dịch vụ
khám chữa bệnh của người dân tại trạm y tế phường, xã thành phố Đồng Hới,


18
Quảng Bình khảo sát 717 hộ gia đình có 26,6% người dân chọn trạm y tế để

khám chữa bệnh khi ốm đau và lý do người dân chọn trạm y tế xã là vì tinh
thần thái độ phục vụ tốt (88,2%). Một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch
vụ KCB tại trạm y tế xã là tuổi, nghề nghiệp, học vấn, kết quả điều trị… [9].
Theo nghiên cứu của tác giả Trần Thị Kim Lý về tình hình sử dụng các
dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại 3 xã Ia Khươl, Ia Phí, Hồ Phú,
huyện Chưpăh, tỉnh Gia Lai năm 2007 điều tra 192 hộ gia đình có tỷ lệ người
dân mắc các triệu chứng bệnh là 73,03%, tỷ lệ người dân đến TYT xã (37,7%),
đến bệnh viện(17%), đến y tế tư nhân(26,8%) và không đi KCB là 18,5%.
Nhóm tuổi, trình độ học vấn và sở hữu thẻ bảo hiểm y tế có liên quan đến
việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân [33].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Phương Hoa và Phạm Huy Tuấn Kiệt năm
2011 về tình hình sử dụng dịch vụ y tế cơ sở tại Hà Nội, Khánh Hòa và Cần Thơ
cho thấy lý do bệnh nhân lựa chọn đến KCB tại y tế cơ sở là do gần nhà,
thuận tiện giao thông 69,7%. Tỷ lệ đến khám thường xuyên tại các cơ sở y tế
huyện mới chỉ đạt 45,1% [24].
Khi nghiên cứu tình hình sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại trạm y
tế phường, xã tại thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai năm 2007, tác giả
Ngơ Đức Tuấn đã điều tra 900 hộ gia đình có tỷ lệ người ốm là 47,6% trong
đó tỷ lệ người ốm chọn dịch vụ y tế tư nhân cao nhất (35,6%), khám tại
bệnh viện (21,9%), tại cơ sở y tế phường, xã (8%) và tự điều trị (34,5%) [40].
Một nghiên cứu về thực trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban
đầu và một số yếu tố liên quan tại 30 xã tỉnh Ninh Bình năm 2010 của tác giả
Đỗ Văn Dung đã điều tra 2103 hộ gia đình cho thấy tỷ lệ sử dụng dịch vụ
CSSKBĐ tại trạm y tế xã là 85,5%, nhất là khám chữa bệnh tư vấn sức khỏe
76,2%. Trình độ học vấn thấp ít sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu,


19
những người khơng có con dưới 5 tuổi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe
ban đầu ít hơn 1,55 lần so với người có con dưới 5 tuổi, những trạm y tế

khơng có bác sĩ thì người dân sử dụng dịch vụ ít hơn 2,83 lần so với trạm y tế
có bác sĩ [16], [17].
Nghiên cứu về tình hình cung cấp và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh
của nhân dân ở các xã miền núi huyện Cam Lộ tỉnh Quảng Trị năm 2006, tác
giả Hồ Sĩ Biên đã điều tra 800 hộ gia đình có tỷ lệ người ốm sử dụng dịch vụ
ở các tuyến lần đầu cao nhất là ở trạm y tế xã (35,55%), tại bệnh viện
huyện(16,78%), tại bệnh viện tỉnh (5,1%), tại cơ sở y tế tư nhân(8,04%)
và 28,82% người tự điều trị [8].
Tác giả Lê Văn Hết đã khảo sát về nhu cầu KCB của người dân và một
số khả năng đáp ứng của trạm y tế thị trấn Trà Lồng, huyện Long Mỹ, tỉnh
Hậu Giang năm 2008, điều tra 385 hộ gia đình có bình qn 3,2 lượt
khám/người/năm, tần suất bệnh trong 1 tháng là 22,05%, tỷ lệ KCB tại trạm y
tế trong mẫu nghiên cứu là 39,53%, đòi hỏi của cộng đồng đối với trạm y tế:
trình độ chun mơn 39,4%; phương tiện chuyển bệnh 32,05%; trang thiết bị,
y dụng cụ 29,23%. Tác giả rút ra kết luận về khả năng đáp ứng nhu cầu KCB
cho nhân dân của trạm y tế Trà Lồng: chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng
cao, địi hỏi ngày càng nhiều của cộng đồng về cơng tác KCB [23].
Điều tra về tình hình sử dụng DVKCB và một số yếu tố liên quan đến
việc sử dụng dịch vụ của người cao tuổi huyện Cần Đước, tình Long An năm
2009, tác giả Dương Thị Minh Tâm và Phùng Đức Nhật đã phỏng vấn 386
người cao tuổi và kết quả là 21,2% người có đi khám sức khỏe định kỳ và
khám bệnh ở tuyến trên chiếm tỷ lệ cao nhất (48,6%), khám tại TYT là 19,7%,
tư nhân là 17,5% và đông y là 7,7% [38].
Khi nghiên cứu về tình hình sử dụng dịch vụ y tế của người có thẻ
BHYT tại vùng nơng thơn năm 2006, Nguyễn Khánh Phương và cộng sự đã


20
điều tra 2400 hộ gia đình tại 4 huyện thuộc 2 tỉnh Hải Dương và Bắc Giang
cho thấy trạm y tế xã và bệnh viện huyện là nơi chủ yếu cung cấp dịch vụ

khám chữa bệnh cho người có BHYT chiếm 55% tổng số lượt đi khám
chữa bệnh [36].
Tác giả Trần Tấn An khi nghiên cứu về tình hình sử dụng dịch vụ khám
chữa bệnh tại trạm y tế xã của người dân tại huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình
năm 2012 cho thấy tỷ lệ người dân chọn trạm y tế để khám chữa bệnh khi ốm
đau là 41,9% và chuyên môn của trạm y tế, thái độ phục vụ, thuốc ở trạm y tế
có ảnh hưởng đến việc chọn trạm y tế để khám chữa bệnh của người dân [1].
Kết quả điều tra thực trạng y tế tư nhân năm 2012 đã phản ánh tương đối
toàn diện về y tế tư nhân ở Việt Nam, khẳng định sự tồn tại và tính phổ biến của
y tế tư nhân trong đời sống y tế của người dân. Lực lượng y tế tư nhân có mặt
khắp mọi nơi của đất nước, ở thành thị tỷ lệ người dân đến KCB ngoại trú ở y tế
tư nhân là 33,6%, ở nông thôn 34,2%. Kết quả điều tra mức sống dân cư năm
2012 cho thấy tỷ lệ người dân đến KCB ngoại trú tại TYT (21,3%), bệnh viện
(38,9%), y tế tư nhân (34%), lang y (1,6%) và cơ sở y tế khác là 1,7%) [42].
Như vậy cùng với loại hình dịch vụ y tế cơng, y tế tư nhân góp phần
làm giảm gánh nặng cho y tế Nhà nước, làm phong phú đa dạng các loại
hình dịch vụ. Điều quan trọng là chất lượng dịch vụ thực sự như thế nào cần
có những đánh giá nghiên cứu đầy đủ rõ ràng hơn.
1.6. ĐẶC ĐIỂM HỆ THỐNG CUNG CẤP DỊCH VỤ Y TẾ HUYỆN
PHÚ LỘC, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Phú Lộc là một huyện đầm phá, ven biển, nằm ở cực nam của tỉnh
Thừa Thiên Huế; Huyện Phú Lộc có vị trí địa lý - kinh tế rất thuận lợi, có các
trục giao thơng quốc gia quan trọng chạy qua như quốc lộ 1A, tuyến đường
sắt Bắc-Nam; Phú Lộc nằm ở trung điểm của hai thành phố lớn nhất của khu
vực miền Trung là thành phố Huế và thành phố Đà Nẵng; có Cảng nước sâu


21
Chân Mây là một trong những cửa ngõ thông ra biển quan trọng của Hành
lang kinh tế Đông - Tây theo quốc lộ 1A và đường 9 nối Việt Nam với các

nước trong khu vực như Lào, Thái Lan và Myanmar [50].
Hệ thống cung cấp DVYT tại huyện Phú Lộc mang đặc trưng chung như
ở tất cả các địa phương khác, có 2 loại hình y tế Nhà nước và y tế tư nhân, tuy
nhiên hệ thống y tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo trong cơng tác chăm sóc
sức khoẻ nói chung và khám chữa bệnh nói riêng.
Xác định rõ vai trị quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe nhân dân, coi
đầu tư cho sức khỏe là đầu tư trực tiếp cho phát triển bền vững. Vì vậy, nhiều
năm qua, hệ thống y tế Phú Lộc đã được chăm lo xây dựng, đầu tư bài bản, góp
phần chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn huyện ngày càng tốt hơn.
Một trong những kết quả lớn nhất của công tác y tế huyện Phú Lộc trong
nhiều năm qua là cơ sở khám, chữa bệnh từ huyện đến xã, thị trấn được chuẩn
hóa về đội ngũ, cơ sở vật chất, trang thiết bị. Đội Y tế dự phòng của huyện
đang được đầu tư xây mới rất quy mô, hiện đại. Sau khi hoàn thành sẽ đáp
ứng tốt hơn nữa cơng tác phịng chống dịch bệnh trên địa bàn tồn huyện [12].
Hệ thống phịng khám đa khoa khu vực Vinh Giang, Lộc An; 18 trạm y
tế xã, thị trấn đã được tầng hóa, đầu tư trang thiết bị hiện đại như máy siêu
âm, điện tim, khí dung, máy sinh hóa nước tiểu, máy điện châm… đảm bảo
cho hoạt động khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Cơng tác bố trí đội ngũ, đào tạo cán bộ cũng được quan tâm đúng mức.
Ngoài đảm bảo đội ngũ y bác sỹ đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và điều trị
cho nhân dân. Điều đáng ghi nhận, biên chế y bác sỹ tại các trạm y tế đảm bảo
đầy đủ về số lượng và chất lượng. Hiện nay, ngành y tế huyện đang cử đi đào
tạo 14 bác sỹ, 15 cử nhân nhằm tiếp tục bổ sung hoàn thiện đội ngũ [12].
Bằng việc chuẩn hóa đội ngũ, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế từ huyện
đến xã, thị trấn đã đem lại nhiều hiệu quả cao trong việc CSSK, nâng cao mức
độ thụ hưởng các DVYT, giảm tải cho bệnh viện tuyến trên. Hàng năm, các


22
tuyến y tế của huyện Phú Lộc đã tiếp nhận hàng trăm ngàn lượt bệnh nhân

đến KCB và điều trị nội trú, công suất sử dụng giường bệnh luôn đạt trên
100%. Cơng tác phịng chống dịch, vệ sinh an tồn thực phẩm đạt được nhiều
kết quả quan trọng. Việc quản lý bệnh xã hội mà đặc biệt là HIV/AIDS được
chú trọng, từ đó đã hạn chế lây lan trong cộng đồng [12].
Với những kết quả đạt được về KCB và CSSK nhân dân, hy vọng bằng
sự quan tâm thiết thực của các cấp, các ngành và địa phương, ngành y tế
huyện Phú Lộc sẽ ngày càng vững mạnh, xứng đáng với niềm tin yêu của các
tầng lớp nhân dân trên địa bàn [12].

Bản đồ hành chính huyện Phú Lộc


23

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Người dân thuộc các hộ gia đình đang sinh sống và có đăng ký hộ khẩu
thường trú tại các xã Lộc Bổn, Vinh Hưng, Lộc An, Lộc Điền và thị trấn Phú
Lộc, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế đến thời điểm nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn
Người được phỏng vấn tỉnh táo hoàn toàn, có đủ khả năng tiếp xúc, trả
lời các câu hỏi và đồng ý tham gia nghiên cứu. Trong trường hợp người ốm là
trẻ em, người già, người mất ý thức khơng trả lời được thì dựa vào trả lời của
bố mẹ, người thân.
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ
Những người mới chuyển đến, khơng có đăng kí cư trú; người trong tình
trạng không tỉnh táo, sức khỏe không cho phép trả lời những câu hỏi của
người khảo sát; và những người không đồng ý tham gia nghiên cứu.

2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại huyện Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 2013.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mơ tả cắt ngang phân tích.
2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
2.3.2.1. Cỡ mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu nghiên cứu hộ gia đình được tính như sau [7], [26]:

Trong đó:
n : cỡ mẫu


×