Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

cac tac pham van hoc lop 12 p2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 56 trang )

Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
Dưới đây là tài liệu mà mình tìm kiếm và tổng hợp lại để phù hợp với việc ơn thi ĐGNL cho
các bạn. Có 1 lưu ý quan trọng là các bạn nhớ đọc kĩ SGK, trong lúc đọc tài liệu cần kết hợp
đọc tác phẩm trong SGK nhé. Chúc các bạn ôn thi thật tốt nha^^.

8. NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ
1.

Tác giả Nguyễn Tn

-

Nguyễn Tn (1910- 1987) sinh ra trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn

-

Cách mạng tháng Tám thành cơng, ơng đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngịi bút

của mình để phục vụ cuộc kháng chiến
-

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn. Ơng có vị trí và vai trò to lớn đối với nền văn học Việt

Nam
-

Nguyễn Tuân là một con người của “chủ nghĩa xê dịch”, một nhà văn “suốt đời đi tìm

cái đẹp”
-


Các tác phẩm chính: Vang bóng một thời, Một chuyến đi, Thiều quê hương, Sông Đà,

Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…
-

Phong cách nghệ thuật: phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự thay đổi trong

những sáng tác ở thời kì trước và sau cách mạng tháng Tám song có thể thấy những điểm nhất
quán sau:
+ Phong cách của Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ “ngông”, trong mỗi trang viết,
Nguyễn Tuân luôn thể hiện sự tài hoa, uyên bác của bản thân. Chất tài hoa uyên bác của Nguyễn
Tuân được thể hiện:


Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện thẩm mĩ



Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ



Vận dụng tri thức, vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo dựng hình tượng


Tuy nhiên, sau Cách mạng tháng Tám, phong cách văn chương của ông đã có những
biến chuyển rõ rệt, khơng mất đi cái “ngơng” đặc trưng độc nhất, không mất đi sự tài hoa un
bác vốn có, cũng khơng mất đi sự tơn thờ cái đẹp mà nhiều thêm một niềm tin với thời đại, nhiều
thêm tình yêu với quê hương đất nước và con người
+ Ơng là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của

những phong cách tuyệt mĩ,…
+ Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng,
có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba…
NGOAN BÙI

1


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
2.

Tác phẩm

a. Hoàn cảnh ra đời
Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả
của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến
đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công
nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho
nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
-

Người lái đị sơng Đà là bài tùy bút được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960)

b. Bố cục (3 phần)
- Phần 1 (từ đầu đến “cái gậy đánh phèn”): Vẻ hung dữ của con sông Đà
- Phần 2 (tiếp đó đến “dịng nước sơng Đà”): Cuộc sống của con người trên sơng Đà và hình
ảnh người lái đị sơng Đà
- Phần 3 (cịn lại): vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sơng Đà
c. Nội dung chi tiết
c.1. Lời đề từ

Nguyễn Tuân chọn đề từ bằng hai câu thơ:
-

“Đẹp vậy sao tiếng hát trên dịng sơng”: ca ngợi vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt của sông Đà.
“Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu”: mọi con sơng đều chảy về phía Đơng,

riêng sơng Đà chảy về phương Bắc → Sự khác biệt độc nhất vô nhị của sơng Đà, gợi ra những
cá tính riêng của con sơng.
→ Nguyễn Tn kể chuyện về một dịng sơng, về một vùng đất và cuộc sống con người Tây
Bắc; cung cấp cho người đọc hiểu biết phong phú, tình yêu tha thiết với thiên nhiên, đất nước
con người Việt Nam. Thiên tùy bút vừa là một cơng trình khảo cứu cơng phu, vừa là một áng
văn trữ tình giàu tính thẩm mĩ về con Sơng Đà.
c.2. Hình tượng con sơng Đà
Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Tn, sơng Đà hiện lên như một sinh thể có diện mạo, có
tính cách, có tâm trạng, cảm xúc. Đà giang được biết đến với hai tính cách nổi bật: Hung bạo
là hung bạo nhất, cịn thơ mộng thì cũng thơ mộng đến ngọn bến bờ.
1.

Vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ của sông Đà



Cảnh đá hai bên bờ sông dựng vách thành

NGOAN BÙI

2


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội

“Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”: Hình ảnh khiến người đọc không khỏi
rợn ngợp trước độ cao sừng sững của vách đá sông Đà cùng sự lãnh lẽo, tăm tối, những hiểm
nguy của Đà giang.
Hình ảnh so sánh độc đáo, lạ lùng và thú vị “Có vách đá thành chẹn lịng sông như một
cái yết hầu” gợi độ chật hẹp của dịng sơng. Vách đá ép chặt lấy lịng sơng tưởng chừng như
nghẹt thở, hẹp đến độ chỉ lúc đúng “ngọ”, tức là thời điểm khi mặt trời lên cao nhất và chói
chang nhất, chiếu thẳng xuống lịng sơng thì lịng sơng mới hứng được chút nắng ít ỏi.
Vách đá đó hẹp đến mức chỉ cần đứng bờ bên này nhẹ tay ném một hịn đá cũng có thể
qua đến vách đá bên kia bờ sơng, hay có qng hẹp đến nỗi có con nai, con hổ nhảy vọt từ bờ
này sang bờ kia.
Cảm giác của con người: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng
thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”: Những vách đá kia sừng sững như tòa nhà
cao tầng, con đò nào đứng ở quãng ấy cũng cảm thấy vơ cùng lạnh lẽo, âm u trước thiên nhiên
hoang sơ.

Ngịi bút của Nguyễn Tn thật tự do, phóng khống, ơng cố gắng thể hiện đến tận cùng,
tỉ mỉ, cụ thể về thế giới sơng Đà về nhiều góc nhìn, đưa người đọc từ trường liên tưởng này đến
trường liên tưởng kia.


Sơng Đà cịn hiện lên đầy hùng vĩ, dữ dội ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng

Câu văn nhịp ngắn, dài, đan xen tạo nên âm hưởng sôi động. “Lại như qng mặt ghềnh
Hát Lng, dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè
suốt năm như lúc nào cũng địi nợ xuýt tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Những vế trùng điệp về cấu trúc: “Nước xô đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió” làm cho nhịp
câu văn dồn dập như nhịp xơ đẩy của nước, đá, gió.
-


Những động từ mạnh ngày càng tăng "xô", "cuồn cuộn", "gùn ghè"


Nguyễn Tuân đã làm sống dậy cả quãng sông Đà cuồng nộ. Nước, đá, gió đã hợp sức
với nhau tạo lên đỉnh điểm của sự dữ dội, làm cho ghềnh sông sôi lên nhịp chảy dữ dằn.
Nguyễn Tuân so sánh, nhân hóa sơng Đà như một kẻ địi nợ th dữ dằn, ghê sợ, địi
người khơng mắc nợ mình một cách vơ lí “... như lúc nào cũng địi nợ xt bất cứ người lái đị
Sơng Đà nào tóm được qua đấy”.


Con sơng như trở thành một sinh thể có hồn với tính cách hung tợn.

NGOAN BÙI

3


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội

Diện mạo hung bạo, dữ dằn của sông Đà thể hiện qua những cái hút nước trên sông
ở quãng tà Mường Vát .
Bằng bút pháp miêu tả tài hoa, nhà văn đem đến cho người đọc cảm nhận và hình ảnh
chân thực nhất của những cái hút nước dưới nhiều góc độ khác nhau:

Diện mạo của nó: được so sánh như “cái giếng bê tơng thả xuống sơng để chuẩn bị làm
móng cầu”, xốy tít trên mặt sông sâu vô cùng nguy hiểm.

Âm thanh tiếng nước: Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa kết hợp
với so sánh để miêu tả tiếng nước, khi thì nó "thở và kêu như cửa móng cái bị sập", khi thì nó
"ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Kết hợp với các động từ mạnh "thở", "kêu", "ặc ặc", từ láy

tượng hình “ lừ lừ”, từ láy tượng thanh “ặc ặc” đã tái hiện hình ảnh và thái độ dữ dằn cùng âm
thanh ghê rợn hãi hùng của những cái hút nước trên sơng Đà.

Nó như là con thủy quái đang há miệng và sẵn sàng nuốt trọn mọi thứ đi qua xuống đáy
sông. Con thuyền nào sơ ý bị nó cuốn ngay lập tức "thuyền trông cây chuối ngược" mươi phút
sau mới thấy "tan xác ở cửu sông dưới". Những cái hút nước hiện ra thật nguy hiểm và hung
bạo.
Từ góc nhìn cuộc sống hiện đại, Nguyễn Tuân liên tưởng con thuyền nào qua quãng ấy
cũng phải chèo nhanh như là "ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn
cạp ra ngoài bờ vực". Chân thực hơn nữa, nhà văn tưởng tưởng ra anh bạn quay phim táo bạo,
dũng cảm ngồi trên con thuyền thúng để cho cả thuyền cả mình và máy quay xuống tận đáy hút
nước sơng Đà.

Quả thực Nguyễn Tn chính là một nhà văn của cảm giác mạnh. Bằng sức mạnh ngôn
từ, nhà văn đã truyền trực tiếp cảm giác vừa hồi hộp sợ hãi vừa thích thú cho người đọc khi
khám phá vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội và hết sức tàn nhẫn của những cái hút nước sông Đà.


Thác nước sông Đà

Được miêu tả với muôn vàn giọng điệu: Nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin,
rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo...; “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”

Câu văn có kết cấu trùng điệp, liên hoàn, nhịp ngắn tạo giọng văn dồn dập, gấp gáp,
căng thẳng, từ ngữ cực tả trạng thái dữ dội; hình ảnh so sánh độc đáo “rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng...” gợi ấn tượng hãi hùng, rùng rợn và sức tàn phá khủng khiếp.

Dùng lửa để tả nước, lấy rừng tả sông, đem những yếu tố vốn tương khắc, giờ lại hòa

hợp để tương sinh. Nhà văn đã làm sống dậy cả thế giới thiên nhiên hoang dại như đang trong
đỉnh điểm của một trận chiến kịch liệt, dữ dội.
NGOAN BÙI

4


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội

Nét hung bạo còn được thể hiện rõ nét qua 3 trùng vi thạch trận mà con sơng đã
giăng ra.
Trận địa đá với các kích cỡ to nhỏ khác nhau đã mai phục ở lịng sơng từ ngàn năm rồi.
Trong không gian “ầm ầm mà quạnh hiu”, chỉ có tiếng thác nước dội xuống giữa một vùng rừng
núi hoang vu, những tảng đá nằm dưới lòng sông Đà tưởng vô tri lại trở thành kẻ thù số một của
con người với tâm địa đầy mưu mô xảo quyệt và độc ác.
-

Bằng nghệ thuật nhân hóa, đá sơng Đà hiện ra với đầy đủ diện mạo, tính cách.


Nó mang diện mạo của một kẻ độc ác, hung bạo: "Mặt hịn đá nào cũng nhăn nhúm,
méo mó".

Nó mang tính cách như một ác nhân xấu xa. Nó cịn biết dụ, biết lừa và biết đánh những
đòn độc hiểm nhằm lấy tính mạng của người lái đị. Mỗi hịn đá sẽ được phong một chức vụ
khác nhau mà canh gác sông Đà, nào là đá tướng, đá quân, nào là đứa nằm, đứa ngồi,... được
sắp xếp thành ba trùng vi thạch trận tinh vi với chiến thuật linh hoạt qua từng trận nhằm
giăng bẫy mọi thứ đi qua con sơng này.

Thác đá Sơng Đà dường như cịn mang trong mình tư duy của một chiến lược gia tài

ba, khi bày trí, sắp xếp những trận địa mai phục để chờ thời cơ, tấn công con người một cách
vô cùng cơng phu: vịng đầu, nó mở ra năm cửa trận, có bốn của tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm
lập lờ phía tả ngạn sơng, vịng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử ...
Nguyễn Tuân đã phối hợp giữa các tri thức từ các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau như
võ thuật, quân sự, hội họa… kết hợp với thủ pháp nhân hóa, liên tưởng, so sánh cùng những câu
văn dài ngắn đan xen đầy tính tạo hình, gân guốc, để gợi lên cái bí ẩn, hiểm ác, hung dữ ngàn
năm của đá sông Đà, đồng thời khắc họa nên cảnh tượng cuộc chiến cam go, khốc liệt và không
cân sức giữa con người nhỏ bé và thiên nhiên hùng vĩ đầy ác hiểm.

Từ đó vừa làm nổi bật sự hùng vĩ, dữ dội của thác đá sông Đà, vừa để tôn vinh vẻ đẹp
con người lao động đấu tranh với thiên nhiên- vẻ đẹp “thứ vàng mười” mà Nguyễn Tn ln
kiếm tìm.
2.

Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng



Vẻ đẹp ấy trước hết đến từ hình dáng uốn lượn của dịng sơng.

Từ trên cao nhìn xuống, sơng Đà tn dài mềm mại, duyên dáng hòa với vẻ thơ mộng
của thiên nhiên Tây Bắc.
Nếu ở vẻ hung bạo, Nguyễn Tuân sử dụng các động từ mạnh, nhịp văn ngắn dài, giọng
hùng tráng, thì đến đây câu văn cũng trở nên mềm mại với hình ảnh giàu chất thơ. “Con Sơng
Đà tn dài, tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”.
NGOAN BÙI

5



Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội

Điệp ngữ "tuôn dài" làm cho nhịp văn chậm lại, câu văn như dài hơn, mềm hơn. Nó gợi
dịng chảy mềm mại, uốn lượn của sơng Đà ẩn hiện trong khung trời Tây Bắc. Hòa quyện với
cái thơ mộng của thiên nhiên hoa ban, hoa gạo tháng hai, với sự huyền ảo của khói mù sương
tạo nên một bức tranh hữu tình.

Nguyễn Tuân so sánh vẻ đẹp của dịng sơng như một áng tóc trữ tình của người thiếu
nữ. Đó là sự liên tưởng độc đáo, sơng Đà hiện lên như áng tóc bỗng bềnh của người thiếu nữ
Tây Bắc trẻ trung, quyến rũ, đầy xuân sắc.

Dường như, sơng Đà được lột xác, nó khơng cịn vẻ dữ dằn, hung bạo như khúc thượng
nguồn mà trở nên hiền hòa, thơ mộng, đẹp đến nao lòng.


Sự biến đổi kì ảo của màu nước theo mùa, mỗi mùa một sắc

Tây Bắc vào xuân, sắc nước sông Đà cũng trong xanh kì lạ: “Mùa xn dịng xanh ngọc
bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô”. Nhà văn đã
soi chiếu nước sông Đà với sông Lô sông Gâm để thấy được vẻ đẹp riêng của Đà giang. Sông
Đà mang màu xanh ngọc bích, màu xanh trong, thanh q.

Phép so sánh khơng tương đồng với màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô cho
thấy sự tài hoa, uyên bác của nhà văn. Có lẽ, với trái tim sâu đậm nơi sơng Đà, Nguyễn Tn
đã có sự thiên vị ít nhiều cho Đà giang.
Sang thu nước sông cũng đỏ hẳn đi: “Mùa thu nước Sơng đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ
thu về” .


Nhà văn so sánh dịng sơng với con người, khéo léo trao thần sắc, tâm trạng của con
người vào dịng sơng vơ tri, vơ giác, từ đó làm nổi bật dịng chảy nặng nề, điềm đạm chậm rãi
của con sông.
Nguyễn Tuân chưa bao giờ thấy sông Đà có màu đen “như thực dân Pháp đã đè ngửa
con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu là sông Đen”. Bằng sự
khẳng định này, nhà văn đã thể hiện niềm yêu mến, trân trọng, tự hào vô cùng của bản thân
mình với con sơng q hương.


Tác giả cảm nhận Sơng Đà như một cố nhân trong cảm hứng thi ca

Sông Đà “gợi cảm” như một “cố nhân”. Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa
dịng sơng như một người bạn cũ, tri âm tri kỉ lâu ngày không gặp vừa đưa đến cho dịng sơng
chút vương vấn, cổ kính, xưa cũ.
Những cấu trúc so sánh đặc sắc để miêu tả dịng sơng Đà gợi cảm và để bộc lộ cảm xúc
của con người khi sắp gặp lại dòng sơng.

Nhìn dịng sơng thấy “loang lống như trẻ con chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”:
NGOAN BÙI

6


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
cái nhìn của một người chưa ra tới cửa rừng, mới chỉ nhìn thấy dịng sơng lấp lóa nắng thấp
thống ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát…

Liên tưởng mặt sơng giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường
thi”: Màu nắng tháng ba Đường thi đã tô điểm thêm nét lung linh, huyền ảo, thi vị, ấm áp và
sinh động cho bức tranh thiên nhiên sông Đà.

Những cảnh vật: “Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà”.
Hai tiếng “Sông Đà” điệp lại cuối mỗi vế câu như ngân lên niềm say mê phấn khích, say mê,
hân hoan của nhà văn khi lại được nhìn thấy sơng Đà.
So sánh thú vị: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm,
vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”: Nỗi niềm nhớ thương dâng trào khiến nhà văn phải thốt
lên khi gặp lại con sơng Đà. Bởi cịn gì vui hơn khi bắt gặp cái nắng giòn tan, ấm áp sau mỗi
mùa mưa dầm dề? Cịn gì hạnh phúc hơn khi nối lại những chiêm bao đẹp đã đứt quãng?
Hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà: “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”.
Đối với một Nguyễn Tuân đã dành cả hai năm để gắn bó với miền Tây Bắc xa xôi, Sông Đà đã
thực sự trở thành người bạn cũ, một “cố nhân” tri kỉ, nặng nghĩa nặng tình, ln thủy chung đợi
chờ ơng trở lại..

Bằng lịng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về sông Đà, Nguyễn Tn miêu tả
dịng sơng với tất cả sự tinh tế của cảm xúc và tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước.


Cảnh vật ven Sơng Đà hiền hịa, thơ mộng tràn đầy sức sống

Khơng gian n ả, thanh bình, mang trong mình nét cổ kính: “Cảnh ven sơng ở đây lặng
tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”.
Vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính tồn tại như một vĩnh hằng của tự nhiên “bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Con người vắng vẻ, chỉ có thiên nhiên trong trẻo hiện lên: “Thuyền tôi trôi qua một
nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh khơng một bóng người. Cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Với những từ ngữ giàu chất gợi hình, gợi cảm, Nguyễn Tuân đã vẽ lên bức họa đồng
quê tuyệt mĩ bằng những nét vẽ vừa tinh tế, vừa phóng khống, màu sắc tươi sáng, hài hịa.
“Nương ngơ”, “cỏ gianh xanh non” nõn nà được gột rửa sương đêm lấp lánh dưới ánh mặt trời,
một đàn hươu ngốn búp cỏ ngọt lành.
Đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, nhà văn bỗng cảm thấy “thèm được

giật mình vì một tiếng cịi xúp – lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú THọ-Yên BáiLai Châu”- muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy
nhưng lại hoang sơ, “tịnh khơng một bóng người”.
-

Con người và thiên nhiên như có một mối giao cảm thần kì: “Con hươu thơ ngộ ngẩng
NGOAN BÙI

7


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
đầu những khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tơi lừ lừ trơi trên một mũi đị. Hươu vểnh tai,
nhìn tơi khơng chớp mắt mà như hỏi tơi bằng cái nói riêng của con vật lành ... Tiếng cá đập
nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Mối quan hệ ấy giữa con người với thiên nhiên thật
hòa hợp, thân thiện, vẻ đẹp của Đà giang vẫn bất biến theo thời gian...
c.3. Hình tượng người lái đị
1. Khái qt về ơng lái đị
Ơng lái đị q ở Lai Châu, làm nghề chèo đị trên sơng Đà đã hơn mười năm.
Ơng lái đị hiện lên đầy ấn tượng với những nét về ngoại hình đúng là một con người
của sông nước.

Dù đã gần bảy mươi tuổi với mái tóc bạc phơ nhưng ơng vẫn rất chắc khỏe.

Cái đầu bạc quắc thước đặt trên một thân hình cao to gọn quánh những chất sừng, chất
mun.

Nhãn giới của ông cao vời vợi, giọng nói thì ào ào như nước thác trước mặt ghềnh sông.

Tay ông dài lêu nghêu, hai chân khuỳnh khuỳnh như lúc nào cũng kẹp lấy cuống lái vơ
hình.


Hình ảnh ơng lái đị hiện lên đậm chất người lao động, trong từng cử chỉ luôn hiện hữu
cái nghề lái đị mà ơng theo cả đời bởi ơng là một người yêu nghề, gắn bó như máu thịt và xem
nó như một người bạn tri kỉ, tâm giao.
2. Ông đò hiện lên như một người anh hùng lao động trí dũng và như một người nghệ sĩ tài hoa
trong nghệ thuật vượt thác sông Đà được thể hiện rõ nét trong trận chiến ở 3 trùng vi thạch trận.

Ở trùng vi thứ nhất, người lái đò là một vị chỉ huy con thuyền với tay lái dày dặn
kinh nghiệm, bản lĩnh, dũng cảm và ln bình tĩnh trong mọi tình huống.
Bằng trí tưởng tượng phong phú và vốn hiểu biết sâu rộng, Nguyễn Tuân đã làm sống
dậy cuộc chiến đấu đầy cam go khốc liệt của người lái đị. Đó là trận chiến khơng cân sức giữa
một bên là chiếc thuyền đơn độc, một bên là Đà giang mênh mông hiểm ác.
-

Trùng vi thạch trận thứ nhất:



Sông Đà bày ra 4 cửa tử, 1 cửa sinh nằm lập lờ ở phía tả ngạn



Mặt nước sơng ùa vào như muốn bẻ gãy cán chèo


Đá luôn trong tư thế mai phục “sẵn sàng nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Mỗi hịn đá
đều mang diện mạo của một tên lính hung tợn, dữ dằn. Đà giang giao phó cho chúng đứa đánh
đòn tử, đứa đánh đòn âm, đứa đánh võ mặt, đứa đánh võ ngang.

Chiến thuật “ đám hòn đá tảng chia làm ba hàng ngang chặn trên sơng địi ăn chết cái

thuyền”, “hàng tiền vệ có hai hịn canh một cửa đá trông như sơ hở” nhằm dụ lừa con thuyền;

NGOAN BÙI

8


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
vào đến tuyến 2, tuyến 3 là các boong ke, pháo đài có nhiệm vụ tiêu diệt thuyền trưởng, thủy
thủ ngay dưới chân thác.


“ Đá với nước như thể quân liều mạng/.../ thanh la não bạt”.

-

Ông lái đị vượt trùng vi thứ nhất:


Ơng đị vẫn giữ chắc tay chèo, nhanh nhẹn “vụt tới” bình tĩnh đối mặt với sông Đà “hai
tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”.

Khi bị con thủy qi tấn cơng bằng món địn hiểm nhất- bóp chặt lất hạ bộ làm ơng bị
thương, ơng đị vẫn khơng gục ngã, ơng cố nén chặt vết thương, hai chân kẹp chặt cuống lái.

Mặc cho tiếng hỗn chiến của nước, của thác đá mà vẫn “nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn,
tỉnh táo của người cầm lái”.

Ơng lái đị đã thuộc quy luật của thần sông, thần đá nơi đây, thuộc quy luật phục kích
của lũ đá. Ơng thuộc dịng sơng như thuộc một bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm, dấu

phẩy, dấu chấm than và cả những đoạn xuống dòng.

Nguyễn Tuân vơ cùng ngưỡng mộ trí tuệ đó của ơng. Chính sự dũng cảm, tài năng đã
giúp ông chiến thắng ở trung vi thứ nhất.

Ở trùng vi thứ hai, người lái đò hiện lên như một vị tướng hiên ngang, chủ động,
đầy dũng mãnh trong trận chiến sông Đà.
-

Trùng vi thạch trận thứ hai:


Sông Đà nham hiểm, xảo quyệt tăng cửa tử, cửa sinh được bố trí lệch sang bên bờ hữu
ngạn để lừa con thuyền.

Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên xông Đà giống như những con thú dữ
gầm gừ giương nanh vuốt đang bao vây và chực chờ vồ lấy con mồi.

Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lơi vào tập
địn cửa tử- dai dẳng, quyết liệt. Khơng ngừng khiêu khích.
-

Ơng lái đị vượt trùng vi thứ hai


Với kinh nghiệm dày dặn, bản lĩnh và sự tự tin, ơng đị chủ động tấn cơng: “Cưỡi lên
thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ... Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng
rồi, ơng đị ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái
miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”.


Nguyễn Tuân dùng từ ngữ rất độc đáo, khơng viết là “ngọn sóng” mà là “bờm sóng”,
khơng viết “bánh lái” mà là cương lái khiến cho người đọc tưởng tượng con thuyền như một
NGOAN BÙI

9


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
chiến mã, sóng thác như hùm beo, người lái đò lớn lao như kị sĩ anh hùng tung hồnh trên chiến
trận sơng Đà.

Nắm được chiến thuật của dịng sơng nên ơng đị dứt khốt, linh hoạt, nhanh nhẹn trong
từng thao tác “đứa mà ông...để mở đường kiến”.

Bản lĩnh, trí tuệ, sự dũng cảm một lần nữa đã giúp ơng đị chiến thắng sơng Đà một cách
vẻ vang.


Đến trùng vi thứ ba, ơng đị như một người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật lái đò.

Trùng vi thạch trận thứ ba: Sơng Đà mở ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng
chết, luồng sống nằm ở giữa ngay hịn đá hậu vệ.
-

Ơng lái đị vượt trùng vi thứ ba



Với sự quyết đốn, tài trí, ơng lái đị phóng thẳng con thuyền theo đường giữa mà đi



Chỉ bằng hai câu văn Nguyễn Tuân đã gợi được chất tài tử, nghệ sĩ của người lái đò:
“Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh
qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”.

Những động từ mạnh “vút”, “xuyên” lặp đi lặp lại cùng với phép so sánh thuyền như
mũi tên tre khiến người đọc cảm nhận được hành động dũng cảm, động tác nhanh gọn, khéo
léo, dứt khoát

Những vế câu ngắn, nhanh, dồn dập “vút vút...” như chiến thắng thần tốc của người lái
đị. Ơng lái đò thuần thục tay lái đến mức điêu luyện trở thành người nghệ sĩ trong nghề.

Nếu ở trùng vây thứ nhất và thứ hai, Nguyễn Tuân ca ngợi vẻ đẹp chí dũng song tồn
của người lái đị thì ở trùng vây này, nhà văn muốn cho người đọc thấy được một tay lái ra hoa
của ơng lái đị. Ơng lái đị tự tin, bình tĩnh, ung dung làm chủ thiên nhiên, sự độc dữ của Đà
giang, đó là tư thế đẹp của một người nghệ sĩ.
Nhận xét: Với sự tương phản hai lực lượng: một bên là thiên nhiên – thác đá Sông Đà bạo liệt,
hung tàn, sức mạnh vô song, một bên là con người – ông lái đò bé nhỏ, cạn kiệt sức, tác giả đã
tạo nên một khúc tráng ca ca ngợi bản lĩnh, sự dũng cảm và khả năng chinh phục tự nhiên của
con người. Kết hợp kiến thức uyên bác của nhiều lĩnh vực: võ thuật, thể thao, quân sự... và trí
tưởng tượng phong phú cùng vốn từ ngữ đa dạng, tài hoa, biến câu chuyện bình thường của
người lao động trên sơng thành bản trường ca về người anh hùng – nghệ sĩ lái đị trong nghệ
thuật vượt thác.
3.

Ơng lái đị mang trong mình vẻ đẹp của một người lao động bình dị khiêm nhường

“Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá
dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khơ nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa
ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa

ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”.
NGOAN BÙI 10


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhịp văn chậm lại, nhẹ nhàng bng thả tâm tình như nhịp sống chậm trong đời thường
của những người của người lái đị.
Sau vượt thác, ơng lái đị vẫn bình dị, khiêm nhường, coi như chuyện vừa xảy ra là
chuyện thường tình, khơng có gì đáng nói. Ơng vẫn tự tại ngồi nhóm lửa trong hang động,
nướng ống cơm lam, trò chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh.
Ơng khơng bàn về chiến thắng vừa qua, hay nói cách khác ơng ơng khơng xem cuộc
vượt thác vừa rồi là một chiến công đáng được khen thưởng.
Ta lại thấm thía thêm vẻ đẹp nữa của người lái đị, họ anh hùng, kì vĩ biết bao song họ
cũng thật khiêm nhường, bình dị! Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với thiên nhiên
để dành sự sống về tay mình nên khơng có gì là hồi hộp, đáng nhớ. Đối với họ cái phi thường
đã trở thành cái bình thường. Họ ung dung tự tại, sống hoà hợp với thiên nhiên, coi thường hiểm
nguy.


3.

Tổng kết

a.

Nội dung

“Người lái đị sơng Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết
tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ
tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.

-

Vẻ đẹp sông Đà hùng vĩ dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình

Vẻ đẹp của người lao động Tây Bắc chân chất bình dị mà tài hoa, trí dũng trong công
cuộc lao động và xây dựng đất nước
b.

Nghệ thuật

Thiên tùy bút mang phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa uyên bác ở cách tiếp cận
khai thác đối tượng từ nhiều phương diện thẩm mỹ văn hóa (dịng sơng được miêu tả như một
cơng trình mỹ nghệ tuyệt vời của tạo hóa; cịn người lái đị được khắc họa với tư chất trí dũng
tài hoa nghệ sĩ.)
Bút pháp: kết hợp hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn
Vận dụng ngôn ngữ, kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau như hội họa, âm nhạc, điêu
khắc, địa lý, lịch sử, mỹ thuật, thể thao...
Sử dụng sáng tạo và khéo léo các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, liên tưởng, tưởng
tượng ...

NGOAN BÙI 11


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội

8. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG
1. Tác giả
Hồng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế , quê gốc ở tỉnh Quảng Trị
Ông là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, là một trí thức u nước ln
tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống Mĩ-Ngụy gian khổ mà anh hùng ở miền Nam

Ông là nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về bút kí, tùy bút
Các tác phẩm chính: Ngơi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên
cho dịng sơng, Hoa trái quanh tơi, Ngọn núi ảo ảnh…
Phong cách sáng tác:
+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy
tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…
+ Lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
1.

Tác phẩm

a. Xuất xứ
- “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” là bài bút kí viết tại Huế, ngày 4/1/1981, in trong tập sách
cùng tên.
- Bài bút kí có ba phần:
+ Phần một nói về cảnh quan thiên nhiên của sông Hương
+ Phần 2 và 3 là phương diện lịch sử và văn hóa của sơng Hương
Đoạn trích trong chương trình THPT: nằm ở phần một cộng với lời kết của tác phẩm.
c. Bố cục (2 phần)
- Phần 1 (từ đầu … "quê hương xứ sở"): hành trình của dịng sơng Hương
- Phần 2 (cịn lại): sơng Hương của lịch sử, thơ ca
d. Ý nghĩa nhan đề :
- Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dịng sơng" đã dẫn dắt người đọc đến với cội nguồn tên gọi của
dòng Hương thơ mộng.
- Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” đã lí giải tên dịng sơng bằng một huyền thoại mĩ lệ
của người dân làng Thành Chung.
- Lấy tên nhan đề cho bài bút kí dưới hình thức của một câu hỏi nhằm mục đích dẫn dắt, gợi
mở người đọc về nguồn gốc tên gọi của dịng sơng, nói lên những khát vọng, niềm tự hào của
NGOAN BÙI 12



Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
con người khi muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng, vun đắp cho văn hóa, lịch sử của
xứ Huế.
- Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” cũng thể hiện được niềm biết ơn đối với những con
người đã khai phá vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của đất nước.

e. Nội dung chi tiết
e.1. Vẻ đẹp của dòng sơng Hương
1. Vẻ đẹp Sơng Hương dưới góc nhìn địa lý

Hành trình của dịng sơng: thượng nguồn-đồng bằng-lịng kinh thành Huế- rời xa
thành phố Huế
Ở thượng nguồn:

Nhìn từ cội nguồn, sơng Hương là dịng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường
Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như “một bản trường ca của từng già”
với nhiều tiết tấu hùng tráng.

Dịng chảy của sơng Hương ở thượng nguồn với những nét tính cách trái ngược: lúc
mạnh liệt dữ dội “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy
như những cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”; lúc dịu dàng đắm say “giữa những dặm dài chói lọi màu
đỏ của hoa đỗ qun rừng”

Biện pháp nhân hóa “một cơ gái Di-gan phóng khống và man dại” kết hợp với các động
từ mạnh

Sơng Hương ở vùng thượng nguồn tốt lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang
dại và đầy cá tính.
Ở ngoại vi thành phố (đồng bằng):


Trước khi thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đơ, sơng Hương đã trải qua
một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả,
hành trình này của dịng sơng như một cuộc tìm kiếm người tình nhân đích thực của người con
gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

Đoạn văn miêu tả sơng Hương khi chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ
được nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả.

Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”;
nhưng sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng
lên sức trẻ và niềm khát khao của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng

NGOAN BÙI 13


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật trịn”, “ơm lấy chân đồi Thiên Mụ”, rồi
“vượt qua”, “đi giữa âm vang” “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”...

Chảy qua vùng rừng núi, sơng Hương trở nên dịu dàng, “uốn mình theo
những đường cong thật mềm”. “Dịng sơng mềm như tấm lụa”, êm đềm trôi đi giữa hai dãy
đồi sừng sững như thành quách, chảy qua những lăng tẩm đồ sộ, chảy qua chùa Thiên Mụ và
“những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà” .

Sông Hương mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình (người gái đẹp nằm ngủ mơ màng… đầy
hoa dại);

Dịng chảy liên tục thay đổi: sơng Hương như người con gái vừa chủ động, mãnh liệt
nhưng cũng rất duyên dáng, e lệ với hành trình tìm kiếm tình u (chuyển dịng liên tục, vịng

giữa, uốn mình, chuyển hướng, vịng qua, đột ngột vẽ, ơm lấy,…);

Vẻ trầm mặc, cổ kính (Giữa đám quần sơn… như triết lý, như cổ thi) và cũng hết sức
bình dị (mặt nước phẳng lặng… bát ngát tiếng gà).
Giữa lòng thành phố Huế:

Khi bắt đầu vào thành phố, dịng sơng trở nên tĩnh lặng, trơi thật chậm, in bóng cầu
Tràng Tiền xa trơng nhỏ nhắn như “những vành trăng non”.

Như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên
giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”.

sông Hương mang vẻ đẹp tình tứ, duyên dáng, vui tươi của cơ gái gặp người tình nhân
mong đợi “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam- đông bắc”, rồi “uốn một cánh
cung thật nhẹ sang Cồn Hến” khiến “ dịng sơng mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói
ra của tình u”.

Nằm ngay giữa lịng thành phố của mình, sơng Hương cũng gống sông Xen
của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét....nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác
giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ:
o
nhìn bằng con mắt của hội họa: sơng Hương và những chi lưu của nó tạo những đường
nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô
o
qua cách cảm nhận âm nhạc: sông Hương đẹp như điêu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình
o
với cái nhìn say đắm của một trái tim đa tình: sơng Hương là người tình dịu dàng và
chung thuỷ.
Rời xa thành phố Huế


Xuôi về Cồn Hến “quanh năm mơ màng trong sương khói”, hịa với màu
xanh của thơn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng. Và thật bất ngờ,
trước khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương “đột ngột rẽ dòng... để gặp lại thành
phố lần cuối”.

Nhà văn dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa hình dáng của dịng
sơng: “Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình u” -> Biện pháp
NGOAN BÙI 14


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
nhân hóa đã giúp tác giả thổi hồn vào dịng sơng và hơn thế nữa là một phương thức
để nhà văn kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa
và Huế ngày nay.

Sông Hương và thiên nhiên Huế: Lần theo dịng chảy của sơng Hương, ta bắt
gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp mượt mà:
Sông Hương phản quang vẻ đẹp biến ảo của Huế “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Gắn liền với dịng sơng, những địa danh quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng
Cảnh, Thiên Thai dường như sống động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường
Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”...

Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho cảnh sắc thiên nhiên Huế và ngược lại dịng sơng cũng
hun đúc mọi sắc trời, văn hóa của vùng đất cố đô.

Sông Hương và con người Huế:
Thiên nhiên và dịng sơng ln gắn bó, gần gũi với con người. Qua điệu chảy của dịng
sơng nhà văn thấy được tính cách con người xứ Huế: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình
với quê hương xứ xở”.
Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sơng Hương nhà văn thấy cách trang

phục trang nhã, dịu dàng của các cô gái Huế xưa “sắc áo cưới màu điều-lục các cô dâu trẻ vẫn
mặc sau tiết sương giáng”
2. Vẻ đẹp của sơng Hương từ góc nhìn lịch sử:
- Từ góc nhìn lịch sử, sơng Hương khơng cịn là cơ gái “Di – gan man dại”,
khơng cịn là “người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa” mà trở thành
chứng nhân của những biến thiên lịch sử. Nhà văn ví sơng Hương như “sử thi viết
giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc”

Sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sơng Hương là một bản anh hùng ca,
đồng thời giữa đời thường sơng Hương là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài – Còn
về, còn nhớ...”.
Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu bao chiến công
oanh liệt của dân tộc. H.P.N.T đã nhìn thấy từ dịng sơng những dấu tích lịch sử; từng nhánh rẽ
của dịng sơng, đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng hàm ẩn một phần lịch sử:

Từ thời đại các Vua Hùng, sông Hương là “dịng sơng biên thùy xa xơi”.

Trong những thế kỉ trung đại, với tên gọi Linh Giang, nó đã “oanh liệt bảo vệ biên giới
phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Sông Hương gắn liền với những chiến công Nguyễn Huệ.
NGOAN BÙI 15


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
Sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX.

Thời hiện đại, Sông Hương gắn liền với cuộc CMT8 với những chiến công rung chuyển.
Và sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế oằn mình dưới sự tàn phá của bom Mỹ...

Chất trữ tình của tùy bút giảm đi, nhường chỗ cho chất phóng sự với những sự kiện lịch
sử cụ thể.


Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử
một dịng sơng có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng
trầm lịch sử.
Trong đời thường, sông Hương mang vẻ đẹp giản dị của “một người con gái dịu dàng
của đất nước”.
2.
3. Vẻ đẹp của sơng Hương từ góc nhìn văn hóa:
Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sơng Hương cịn hàm chứa trong bản thân
nó nền văn hóa phi vật chất. Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”:

Sơng Hương -dịng sơng âm nhạc:
Từ âm thanh của dịng sơng (tiếng chng chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo
khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền...) đã hình thành những làn điệu hị dân
gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và rồi cũng chính trên dịng sơng ấy, những câu hị Huế vút
lên, mênh mang, xao xuyến...

Viết về sông Hương, nhiều lần nhà văn đã liên tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du. Đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, những trang Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền
thống nhã nhạc cung đình. Đó là cơ sở để H.P.N.T hóa thân vào một nghệ nhân già, nghe những
câu thơ tả tiếng đàn của nàng Kiều, chợt nhận ra âm hưởng của âm nhạc cung đình và bật thốt
lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh”

Bóng dáng Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần xuất hiện trong bài kí bộc lộ một
khả năng liên tưởng phong phú, một vốn văn hóa sâu rộng và sự gắn kết với truyền thống, một
sự đồng điệu tâm hồn nhà văn.
3.
Sông Hương - dịng sơng thi ca:
Sơng Hương đi vào văn chương, thi ca một cách đa dạng, tinh tế: Mỗi nhà thơ đặt chân đến
Huế đều có một khám phá riêng về sơng Hương:

- Trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu bất ngờ
“Dịng sơng trắng – lá cây xanh”.
- Trong cái khí phách của Cao Bá Quát: từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng
lên “như kiếm dựng trời xanh”.
NGOAN BÙI 16


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
- Trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan là “nỗi quan hồi vạn cổ với bóng chiều bảng lảng”.
- Trong thơ Tố Hữu “đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn”.
Bằng vốn kiến văn phong phú, H.P.N.T đã lay động linh hồn của con sơng
mà tên gọi của nó đã đi vào văn chương nghệ thuật mà theo tác giả “Dịng sơng ấy
khơng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”
4.
Giai thoại về sông Hương
Giai thoại về cái tên “sông Hương”: Người làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm
ở Huế: vì u q con sơng xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm
lồi hoa đổ xuống dịng sơng làm cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho. Phải chăng đó
là cách lý giải cái tên Hương giang cùng lời đáp cho câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sơng?” –
con sơng gắn liền với tình u của Hồng Phủ Ngọc Tường.
Nhận xét: Như người thiếu nữ tài hoa, dịu dàng, đã tình,... Qua cái nhìn và cách viết của Hồng
Phủ Ngọc Tường, sơng Hương càng đáng u, quyến rũ hơn khi gắn liền với cái tôi “tài hoa,
uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tượng lãng mạn, say mê cái đẹp của thiên nhiên.
e.2. Hình tượng cái tôi tác giả
1. Một cái tôi dạt dào cảm xúc
4.
Tư thế và tâm thế:
Tư thế: Một người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh,vừa bừng
bừng khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng. Một tư thế tự
do, tự tin và tự hào để nhìn vào mối quan hệ và dòng chảy của lịch sử dân tộc để khẳng định

sức sống, sức mạnh của nó.
Tâm thế: Một người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn với tâm thế thư thái, có sự
tự do nội tâm để cảm nhận một cách tinh tế và có chiều sâu về đối tượng/

Có thể thấy đó là một tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ những rung động
của tình yêu- một thứ tình yêu đậm sâu và đắm say với con sông xứ Huế.

Cảm hứng và cảm xúc:
Cảm hứng: niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ
riêng của con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và văn hoá.
Cảm xúc: vô cùng phong phú.

bộc lộ trực tiếp với các trạng thái nội tâm: vừa thích thú, vừa lơ đãng , miên man trong
vẻ đẹp của dịng sơng đang đổi sắc không ngừng; nhớ da diết điệu chảy lặng lờ của con sông
khi ngang qua thành phố,; hay thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu
bởi hiểu sâu sắc rằng nền âm nhạc Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương, là linh hồn
của con sơng nên chỉ là chính nó vang lên trong đêm giữa tiếng rơi bán âm của nước từ những
mái chèo khuya...
NGOAN BÙI 17


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội

bộc lộ gián tiếp trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện:
khi thì chứng kiến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế
trong những trang Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”,”,
khi bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở “nỗi vương
vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình u”; có khi lại cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên
Hiệp quốc về Huế bằng sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn để “thấy hiện bóng khn mặt quyến
rũ và tươi trẻ của dịng sơng thành phố giữa lịng thế giới hiện đại”;...


Hồng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi
say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc trong bản đàn lòng để tôn vinh
vẻ đẹp của sông Hương.
2. Một cái tôi nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện

Kiến thức và ý thức
Kiến thức: phong phú và có chiều sâu. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến
thức tổng hợp nhiều mặt về con sông Hương từ địa lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống,
tự nhiên và khảo cổ, cái hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa…

Các mặt kiến thức này không tách rời nhau, khơng độc lập tồn tại mà hồ quyện, hỗ trợ
nhau tạo thành một điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ Huế.
ý thức: Cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất nghiêm
túc để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi “Ai dó đặt tên cho dũng sụng”. Đây là câu hỏi ngỡ như
bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một câu hỏi đầy ngụ ý của chính
Hồng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập mối quan hệ giữa dịng sơng với con
người, giữa cái tên của dịng sơng với cách nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận của con người
về nó.

Con đường và đích đến;
Con đường: Thành cơng của Hồng Phủ Ngọc Tường trong tuỳ bút này không chỉ do
nhà văn biết lắng nghe và xúc động, biết nghiên cứu, tìm hiểu và suy ngẫm mà cịn bởi người
nghệ sỹ ấy có thực tế từ những chuyến đi. Nhà văn đã thực hiện một cuộc hành trình theo suốt
chiều dài của con sơng .
Đích đến: đi suốt dọc sơng Hương để trải nghiệm bao nhiêu cảm xúc, cảm giác để hiểu
thấu bao nhiêu giá trị, nhận ra bao nhiêu vẻ đẹp của địa lí và văn hố, đời sống và lịch sử, cuối
cùng Hồng Phủ Ngọc Tường đã tìm được câu trả lời cho câu hỏi đầy khắc khoải vẫn luôn vang
vọng trong suốt bài tuỳ bút: “Con người đã đặt tên cho dịng sơng như nhà thơ chọn bút hiệu
cho mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn

hố và lịch sử”
3. Một cái tơi tài hoa và vô cùng lãng mạn.
Giàu tưởng tượng
NGOAN BÙI 18


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội

Viết về con sông song lại không bắt đầu từ việc quan sát thực tế, từ việc đi thực địa mà
lại bắt đầu từ việc đọc Kiều để cảm nhận văn chương hoà quyện với cảm nhận về con sông xứ
Huế.

tưởng tượng về mối quan hệ giữa sơng Hương và thành phố của nó là mối quan hệ của
một cặp tình nhân lý tưởng với tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc.

Cũng trong trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn, sơng Hương khi là một dịng nhạc đa
âm sắc (bản trường ca rầm rộ của rừng già, điệu slow của tình cảm, bản đàn lúc đêm khuya với
tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo); khi là một con người giàu nữ tính và có đủ sức
mạnh để trưởng thành dần trong cuộc hành trình (cơ gái Digan phóng khống và man dại giữa
rừng Trường Sơn, người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại,
người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ giữa chốn kinh
thành)...

Trí tưởng tượng mạnh mẽ và phong phú khi kết hợp với cái kho vốn cảm xúc, cảm giác
rất dồi dào mà cũng vô cùng tinh tế sâu sắc đã tạo nên một chất thơ chan chứa trên mỗi trang
văn và một sức lôi cuốn khó cưỡng lại đối với người thưởng thức.
Vốn chữ nghĩa và sức sáng tạo: sự hoà quyện lý tưởng giữa chất nhạc, chất hoạ và chất
thơ trong chữ nghĩa của Hồng Phủ Ngọc Tường.

“Mùa thu tơi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay mái ra sông

ăn trái hồng ngọt và thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan ra
thành dư vang của một tiếng chim”.

“một bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, ..., dịu dàng và say
đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đổ quyên rừng, dịu dàng và trí tuệ khi trở
thành bà mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở, mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá,...”
Đánh giá:
Với kho vốn cảm xúc, kiến thức, tưởng tượng và trải nghiệm thực tế lại cộng thêm vốn chữ
nghĩa dồi dào mà rất đẹp, rất thơ, rất cơng phu, trau chuốt, Hồng Phủ Ngọc Tường đã dẫn dắt
người đọc đi theo nhà văn để hào hứng thưởng thức vẻ đẹp của dịng sơng Hương.
3. Tổng kết
a. Nội dung
“Ai đã đặt tên cho dịng sơng” thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sơng
Hương; bộc lộ tình u tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dịng sơng
q hương, với xứ Huế thân thương.
b. Nghệ thuật
Thể loại bút kí
Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.

NGOAN BÙI 19


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá nghệ
thuật và những trải nghiệm của bản thân
Ngơn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như: So
sánh, nhân hoá, ẩn dụ, ...
Có sự kết hợp hài hồ cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự trải
nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả - dịng sơng Hương.


9.

VỢ CHỒNG A PHỦ

Tác giả Tơ Hồi
Nhà văn Tơ Hồi (1920 - 2014) sinh ra và lớn lên tại Hà Nội.
Tơ Hồi là một trong những nhà văn sáng lập ra Hội Nhà văn Việt Nam, là chủ tịch đầu
tiên của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội.
Tơ Hồi là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Hơn 60 năm cầm bút, ông để lại gần hai trăm tác phẩm thuộc đủ các thể loại.
Là nhà văn có những tác phẩm viết và gắn bó sâu sắc với lứa tuổi thiếu nhi
Suốt cuộc đời, ông đi nhiều nơi, có vốn sống phong phú, đặc biệt trong lĩnh vực phong
tục và sinh hoạt đời thường – có những trang viết chân thực, đằm thắm về đất và người nhiều
vùng đất, nhất là đất và người Tây Bắc.
Có cái nhìn hồn nhiên, trong trẻo mà sắc sảo, hóm hỉnh, thơng minh về các sự vật, hiện
tượng, con người trong cuộc sống.
Đề tài: hai đề tài
* Đồng thoại về thế giới loài vật
* Cuộc sống, số phận và vẻ đẹp người lao động nghèo ở miền xuôi và miền ngược.
- Quan điểm sáng tác: Sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường. Theo ơng “Viết
văn là q trình đấu tranh để nói ra sự thật, đã là sự thật thì khơng tầm thường, cho dù phải đập
vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”
Phong cách sáng tác:
+ Thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền
+ Lối trần thuật sinh động, hóm hỉnh của người từng trải
+ Vốn từ vựng phong phú đưuọc sử dụng đắc địa, tài ba, có sức lay động, lơi cuốn người đọc
Nội dung:
* Cái nhìn trìu mến, bao dung, nhân ái, độ lượng với trẻ thơ.
* Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo mới mẻ, độc đáo.
-


Nghệ thuật:

* Khả năng miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật chân xác, sâu sắc, tinh tế.
NGOAN BÙI 20


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
* Cách kể chuyện sống động, hóm hỉnh, có dun.
* Lời văn: giàu tính tạo hình và chất thơ.
- Tác phẩm tiêu biểu: Dế mèn phiêu lưu kí (đồng thoại, 1941), O chuột (tập truyện ngắn về
loài vật, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Mười
năm (tiểu thuyết, 1967)...
2. Tác phẩm
a. Hồn cảnh ra đời
- 1952: Tơ Hồi theo đơn vị bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, sống gắn bó với đồng bào tám
tháng.
- Chia tay, Tơ Hồi viết tập truyện bằng sự am hiểu tường tận cuộc sống, phong tục, nhất là
tâm hồn phóng khống, tự do phảng chút hoang dại của đồng bằng miền núi; nỗi ám ảnh về
những kỉ niệm gắn bó và món nợ ân tình với người Tây Bắc.
- “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm xuất sắc được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953).
b. Bố cục
- Phần 1 (từ đầu đến “bị đánh vỡ đầu”): Cuộc sống và diễn biến tâm trạng của Mị khi ở nhà
thống lí Pá Tra
- Phần 2 (tiếp đó đến “đánh nhau ở Hồng Ngài”): Hồn cảnh của A Phủ và cuộc xử kiện ở nhà
thống lí Pá Tra
- Phần 3 (cịn lại): Mị cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài
c. Nội dung chi tiết
c.1. Hình tượng nhân vật Mị
1. Sự xuất hiện của Mị

“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra...”
Khơng gian: “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, xuất hiện cùng thế
giới đồ vật câm lặng.
Tư thế: “cúi mặt, mặt buồn rười rượi” với nhịp điệu mòn mỏi, thường xuyên, lặp lại vô
hồn – “lúc nào cũng vậy” .
Sự đối lập: hình ảnh một cơ gái lẻ loi, đơn độc, u trầm, buồn khổ – cảnh tấp nập, giàu
sang nhà thống lí.
Nhận xét: tác giả đã phác hoạ hình ảnh người con gái câm lặng như chìm lẫn vào thế giới đồ
vật vơ tri, khơng cảm giác. Từ đó hé lộ cuộc sống tủi cực, cảnh ngộ éo le của nhân vật. Cách
dẫn dắt khéo léo theo điểm nhìn từ xa, bên ngoài tiến gần hơn vào bên trong để thâm nhập nhân
NGOAN BÙI 21


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
vật; tạo ra mâu thuẫn ở lời kể để vén bức màn bí mật về một phận người (hỏi ra mới rõ,... cô ấy
là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra).
-

Vẻ đẹp của nhân vật Mị


Ngoại hình
Mị vốn là đóa hoa đẹp của núi rừng:
Nhan sắc rực rỡ tươi thắm tỏa ra sức cuốn hút: Ngày tết, trai làng đến đứng nhẵn cả chân
vách đầu buồng Mị

Tâm hồn, phẩm chất
Tâm hồn phong phú, bay bổng, tài hoa: khẽ uốn chiếc lá trên môi là cả thế giới xa xăm
kì diệu sẽ mở ra, Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
Chăm làm

Hiếu thảo
Trái tim khao khát tình yêu, tự do
3. Số phận bất hạnh: Con dâu gạt nợ.
Câu chuyện Mị về làm dâu:

Lý do: bố lấy mẹ khơng đủ tiền cưới, phải vay nhà thống lí, tận khi già mà chưa trả hết
nợ. Mẹ chết, thống lí địi lấy Mị làm con dâu để xố mối nợ truyền kiếp, dai dẳng.

Bóng của kiếp sống nơ lệ, cùng khổ đổ lên người dân nghèo qua thế hệ này đến thế hệ
khác.

Phản ứng: đề nghị bố lao động trả nợ chứ quyết không muốn bị bán cho nhà giàu: “Con
nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho
nhà giàu”.

Điều đó cho thấy Mị thà sống vất vả, nghèo khổ mà tự do còn hơn sống trong giàu sang
mà chịu đoạ đày nơ lệ. Đó cũng là khát vọng tự do mãnh liệt và niềm tin trong sáng, hồn nhiên
của tuổi trẻ.

Bị nhà thống lí lừa bắt đi, ban đầu “hàng mấy tháng, đêm nào cũng khóc”, nhận thức
sâu sắc tình cảnh quẫn bách của bản thân: sống cũng như chết, Mị đã tìm đến lá ngón để tự tử.

Đây là phản ứng tiêu cực nhưng lại là biểu hiện của lòng yêu sống và khát vọng tự do.

Dần dần, cha chết, Mị khơng cịn nghĩ tới cái chết, Mị đã mất đi khả năng phản ứng với
cuộc sống phi nhân tính, thực chất, cơ chỉ cịn sống đời sống vật chất, còn tinh thần và tâm hồn
đã chết, nhẫn nhục, cam chịu, vô hồn.

Cùng với thời gian, “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”, khi được chết thì Mị lại
khơng buồn chết nữa. Cách sử dụng phép đối, cách đếm thời gian chậm rãi, đều đặn cho ta thấy

khoảng thời gian đủ để vơ hồn hố con người, nhấn con người vào câm lặng.

Quãng thời gian làm dâu nhà thống lí là quãng thời gian nhuốm màu u tối, nhục nhã,
khổ đau.
NGOAN BÙI 22


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội
Mị trở thành công cụ lao động bị bóc lột tàn nhẫn tột cùng. “Ở lâu trong cái khổ, Mị
quen khổ rồi”. Mị tưởng: mình cũng là con trâu, con ngựa. Nhưng “Con ngựa, con trâu làm cịn
có lúc, đêm nó cịn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc
làm cả đêm cả ngày”
Mị bị đày đọa về mặt tinh thần: cô sống bên người chồng không có tình cảm, cơ khơng
được đi chơi, khơng được hưởng thụ nhu cầu giao tiếp bình thường của con người
Cơ bị ràng buộc bởi cái gọi là thần quyền “mình đã bị cúng trình ma nhà nó rồi thì chỉ
đợi ngày rũ xương ở đây”.
Mị bị giam lỏng, kìm hãm trong căn buồng “kín mít, có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng
bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, khơng biết là sương hay là nắng”.

Đó là một không gian tối tăm, bức bối, lạnh lẽo- biểu tượng ám gợi về địa ngục trần
gian, nơi cầm tù tuổi thanh xuân của con người, biến Mị từ một cô gái trẻ trung phơi phới thành
một con người vô cảm, cam chịu.
4. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị
Sức sống tiềm ẩn mà mãnh liệt được thể hiện qua bốn chi tiết:
Câu nói phản kháng hơn nhân
Ý định ăn lá ngón tự tử
Biểu hiện rõ nhất trong đêm hội mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ.
4.1. Sự thức tỉnh và hồi sinh khát vọng sống trong đêm tình mùa xuân

Khung cảnh:

Bức tranh mùa xuân: Mùa xuân đã về trên rẻo cao.

Năm ấy, Hồng Ngài ăn tết sớm. Niềm vui đón xuân như được nhân lên cùng niềm vui

thu hoạch mùa màng.

Vạn vật đổi thay, đất trời như có men say, sự sống đang âm thầm cựa mình xơn xao
trong cây cỏ.

“Cỏ gianh vàng ửng”, cái màu sắc tươi thắm đang có sức lan tỏa, cựa quậy tự trong linh
hồn tạo vật, cái màu sắc tươi vui, đầy sức sống, ánh sáng, đối lập với không gian sống tăm tối
của Mị.

“ trong cái làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con
bướm sắc sỡ”.

Đám trẻ nô đùa cười ầm trước sân. Bữa cơm hàng ngày nay đã thành “bữa cơm Tết
cúng ma”, rộn rã tiếng “chuông đánh ầm ĩ”, “ vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp
lửa”

“ngồi đầu núi lấp ló có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại,
thiết tha bổi hổi.”

Thiên nhiên rực rỡ màu sắc, náo nức âm thanh, sự hiện diện của một thế giới căng tràn
nhựa sống.
NGOAN BÙI 23


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội


Đêm tình mùa xuân:

Trong nhà: mọi người nhảy đồng, hát

Bên ngoài: tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng ngồi đường, tiếng sáo như có hình, lơ lửng,
bồng bềnh, như tình ai khơng tan, như lịng ai vẫn đợi. Đó là chi tiết trở đi trở lại như một ám
ảnh, mời gọi, vương vấn, khơi gợi kí ức và khát vọng yêu, sống trong Mị.

Không gian, thời gian rạo rực khát vọng, thơi thúc con người tìm đến với men say tình
yêu, men say sự sống.

Diễn biến tâm trạng:

Phản ứng đầu tiên của Mị là lắng nghe tiếng sáo, nhẩm theo lời bài hát của người
đang thổi:
“ Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta khơng có con trai con gái
Ta đi tìm người u”

Sau bấy nhiêu năm sống trong đau đớn tủi nhục, lần đầu tiên tiếng sáo ấy lại len lỏi vào
sâu thẳm trong tiềm thức đã tê liệt của Mị.

Cũng là sau bao tháng ngày sống “lầm lũi như một con rùa”, Mị đã cất tiếng nói đầu
tiên, cũng chính là tiếng hát mùa xuân. Những ngôn từ mộc mạc, giản dị lại chất chứa cả một
vùng trời tự do vọng vào tâm hồn Mị, cô hát những lời ca của đôi lứa yêu nhau, của những con
người khát khao hạnh phúc, tình yêu.

Hành động đánh dấu bước trở lại của người con gái u đời ham sống ngày nào.


Trong khơng khí của đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của hương rượu ngày
Tết, Mị cũng uống “ Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”.

Cô uống như nuốt hồn nuốt tửu, nhờ men rượu đưa cô sống lại những kỉ niệm tươi đẹp
ngày trước.

Mị lãng quên thực tại đang diễn ra trước mắt mình. Mị nhớ về ngày trước. Mị cũng là
một cô gái trẻ, tràn đầy sức sống, cũng thổi kèn lá, kèn môi rất giỏi.

Tiếng sáo văng vẳng cùng với hơi rượu nồng nàn đã khơi dậy nơi Mị những bổi hổi, bồi
hồi về những ngày trước kia.
Đột nhiên “ Mị thấy phơi phới trở lại, trong lịng đột nhiên vui sướng”
Nhận thấy mình cịn rất trẻ và ý thức về bản thân trở lại: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn cịn trẻ. Mị muốn
đi chơi”

Mị khơng cam chịu mà sống đúng với mình, với ước vọng của mình: Mị muốn đi chơi.

NGOAN BÙI 24


Tài liệu sưu tầm – Group Luyện thi ĐGNL Đại học Quốc gia Hà Nội

Lúc niềm khao khát sống trỗi dậy thì Mị lại muốn chết: “Nếu có nắm lá ngón trong
tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa
ra...”
Vì khi ý thức đã trỗi dậy thì cũng là lúc Mị cảm nhận rõ cuộ sống hiện tại đầy đắng cay, chua
xót, đau thương hiện hữu.

Khi lịng ham sống của cơ gái này trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi- điều
tưởng chừng như phi lí nhưng lại hợp lí bởi lẽ ý thức được sống không bằng chết, nên Mị muốn

chết để được giải thoát, chết để được sống mãi trong những giây phút của quá khứ tươi đẹp
Một lần nữa Mị nghe “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. Tiếng
sáo giờ đây trở thành một nốt nhạc trong tâm hồn Mị khiến “đầu Mị rập rờn tiếng sáo”, thôi
thúc hành động đi chơi của Mị diễn ra nhanh hơn.

Khát vọng được sống, được yêu trở lại, kéo theo hành động: muốn được thấy ánh sáng,
muốn làm đẹp, ý thức về sự tồn tại của mình. Hàng loạt các hành động được diễn tả dồn dập:
“Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, “Mị quấn lại
tóc”, “Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.

Đây là chuỗi hành động nổi loạn thể hiện sự trỗi dậy của một khát vọng sống mãnh liệt
nơi tâm hồn Mị.

Mị thắp ngọn đèn như thắp lên ánh sáng của cuộc đời mình. Hành động nhỏ ấy cho thấy:
Mị nhận thức được khơng gian mình đang sống cần một chút ánh sáng- dù chỉ hiu hắt để soi
sáng cuộc sống tối tăm mù mịt nơi địa ngục trần gian này.

Tơ Hồi rất thành công khi lách sâu vào miêu tả tâm lí phức tạp của nữ giới. Có lẽ, sau
bao nhiêu năm bị đọa đày, sống cam chịu thì Mị cũng mất luôn bản năng làm đẹp, sửa soạn của
một người phụ nữ nhưng nay lịng ham sống trỗi dậy thì nhu cầu làm đẹp, sửa soạn tưởng như
đã chết lại trở về trong cô gái ấy.
Khát vọng sống của người con gái đáng thương vừa nhen nhóm đã bị dập tắt bởi
sự tàn nhẫn của A Sử một cách phũ phàng

A Sử trói Mị đứng vào cột nhà “ nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị”, “tóc
Mị xõa xuống, A Sử quấn ln tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”.

Trong bóng tối, “Mị đứng im lặng như khơng biết mình đang bị trói”. Mị khơng biết
mình đang bị trói bởi lẽ A Sử chỉ đang trói cơ thể cơ chứ khơng trói được tâm hồn cơ, tâm hồn
Mị đang lơ lửng với tiếng sáo gọi bạn tình; vẫn bồng bềnh theo những cuộc chơi, những đám

chơi: “ Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi ngày Tết”.

Chập chờn trong cơn say, nửa mê nửa tỉnh trong đoạn hồi ức tươi đẹp khi xưa, Mị quên
đi hiện tại đau khổ đang đày đọa cô đến kiệt cùng.
Khi niềm khao khát cháy bỏng của cô đã đạt đến đỉnh điểm, “Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân
đau không cựa được”. Nỗi đau thể xác đã kéo Mị về với hiện tại phũ phàng.

NGOAN BÙI 25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×