Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 theo hướng trải nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.96 KB, 71 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Luật giáo dục 2019 đã được Quốc hội khố 14 thơng qua và đã được Chủ tịch
nước ký ban hành. Luật giáo dục 2019 có hiệu lực từ ngày 01/07/2020. Trong nội
dung của Luật đã nêu rõ mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát
triển một cách toàn diện.
Bên cạnh đó trong Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 20112020 đã đưa ra mục tiêu đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản
và tồn diện theo hướng chuẩn hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo
dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo đức, KNS, năng lực sáng
tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực,
nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và xây dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và
cơ hội học tập suốt đời cho mỗi cơng dân, từng bước hình thành xã hội học tập….
Qua đó có thể thấy rằng, việc giáo dục con người ngoài kiến thức, cần phải tập
trung giáo dục kỹ năng sống cho HS. Giáo dục KNS sẽ giúp cho mục tiêu giáo dục
toàn diện thế hệ trẻ. GDKNS sẽ giúp cho trẻ tự tin, phát huy được năng lực, sở
trường, có khả năng hồ đồng với mọi người, biết tương thân tương ái, chia sẻ giúp
đỡ mọi người, yêu thương gia đình, bạn bè…..
Trong thực tế hiện nay, khi mà số lượng gia đình có từ 1-2 con khá nhiều.
Chính vì vậy phụ huynh của HS thường có thiên hướng chiều con, ép HS học tập, tạo
ra một kỳ vọng lớn để áp đặt lên HS. Đây là một xu hướng đã xuất hiện và phổ biến
hiện nay tại nước ta. Phụ huynh HS chỉ chú trọng tới điểm số mà đôi khi quên đi
năng lực, phẩm chất, tích cách của HS. Vì vậy Phụ huynh HS xem nhẹ vấn đề giáo
dục KNS cho trẻ em.
Trong giai đoạn vừa qua, hiện tượng HS bị nhồi nhét kiến thức, học ngày đêm
đang trở lên “nóng”. HS chỉ biết về mặt kiến thức, khơng có kĩ năng ứng xử, giao
tiếp, dần dần trở thành robot. Trong khi đó HS thiếu tự tin, khó khăn trong hồn cảnh
mới, khơng biết tự chăm sóc bảo vệ mình, dễ vấp ngã …...
Chính vì những ngun nhân trên, việc "Giáo dục KNS cho học sinh lớp 2
theo hướng trải nghiệm” là cần thiết để đáp ứng mục tiêu giáo dục của Nhà nước đã



đề ra. Đây cũng chính là đề tài em lựa chọn để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ Giáo
dục học (tiểu học).
2. Mục đích nghiên cứu
Từ hệ thống lí luận về KNS, luận văn sẽ nghiên cứu, khảo sát, đánh giá về thực
trạng thiết kế các hoạt động GDKNS cho HS lớp 2, từ đó luận văn đề xuất một số
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục KNS theo hướng trải nghiệm thực tế
cho HS lớp 2 tại trường Tiểu học.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu của luận văn là các môn học liên quan đến giáo dục
KNS trong chương trình 2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các môn học này bao
gồm các môn học chủ đạo như: môn học Đạo đức, môn học Tiếng Việt, Môn Tự
nhiên và xã hội, môn Thực hành kỹ năng sống
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp, hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho HS lớp 2 theo hướng trải
nghiệm thực tế.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, giáo dục KNS đang trở thành một nội dung quan trọng và cần thiết
trong các trường tiểu học. Nếu đề xuất được các biện pháp thiết kế hoạt động giáo
dục KNS cho học sinh lớp 2 phù hợp với thực tiễn GDTH tại Thị xã Phú Thọ, tỉnh
Phú Thọ thì sẽ đem lại kết quả tốt trong công tác giáo dục KNS cho học sinh các
trường tiểu học Thị xã Phú Thọ theo chương trình GDTH hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về cơ sở lí luận trong việc thiết kế các hoạt động GDKNS cho HS
lớp 2
Khảo sát, đánh giá thực trạng thiết kế hoạt động giáo dục KNS cho học sinh
lớp 2 theo hướng trải nghiệm tại các trường tiểu học Thị xã Phú Thọ.
Đề xuất một số biện pháp thiết kế hoạt động giáo dục KNS cho học sinh lớp 2
theo hướng trải nghiệm để thực hiện tốt chương trình GDTH hiện nay.

6. Phạm vi nghiên cứu


- Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp pháp thiết
kế hoạt động giáo dục KNS cho học sinh lớp 2 theo hướng trải nghiệm.
- Về địa bàn nghiên cứu và thực nghiệm sư phạm: 3 trường Tiểu học Thị xã
Phú Thọ (Trường Tiểu học….; Trường Tiểu học…) trong năm học 2020 - 2021.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm tại trường tiểu học Trường Thịnh, thị xã Phú
Thọ, tỉnh Phú Thọ.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1.Các phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp phân tích các đề tài, sách…. để tổng quan, chọn lọc tư liệu khoa
học có liên quan đến trị chơi giáo dục, trò chơi dân gian, giáo dục kĩ năng xã hội ở
tiểu học.
- Phương pháp so sánh lí luận để xem xét các nguồn lí thuyết giáo dục kĩ năng,
lí thuyết trị chơi giáo dục và kinh nghiệm từ các trường.
- Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, khái qt hố hệ thống lí luận về
vấn đề nghiên cứu.
7.2.Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Xây dựng hệ thống bảng hỏi để khảo sát, đánh giá về thực trạng giáo dục
KNS cho học sinh lớp 2 theo hướng trải nghiệm tại địa bàn nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm để xem xét và tiếp thu kinh nghiệm giáo
dục KNS và các biện pháp thiết kế hoạt động giáo dục KNS cho học sinh lớp 2 theo
chương trình GDTH hiện nay.
- Phương pháp thực nghiệm để kiểm tra tác động của các biện pháp thiết kế
hoạt động giáo dục KNS cho học sinh lớp 2 theo hướng trải nghiệm cho HS các
trường tiểu học Thị xã Phú Thọ.
7.3.Các phương pháp khác
- Phương pháp chuyên gia để lấy ý kiến đánh giá các biện pháp thiết kế hoạt
động giáo dục KNS cho học sinh lớp 2.

- Phương pháp sử dụng thống kê tốn học để xử lí số liệu, đánh giá và trình bày
kết quả nghiên cứu.
8. Cấu trúc của đề tài nghiên cứu


Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được thể hiện ở 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận của giáo dục KNS cho học sinh lớp 2 theo hướng trải
nghiệm.
Chương 2. Thực trạng giáo dục KNS cho học sinh lớp 2 theo hướng trải
nghiệm.
Chương 3. Biện pháp giáo dục KNS cho học sinh lớp 2 theo hướng trải
nghiệm.


CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA GIÁO DỤC KNS CHO HỌC SINH LỚP 2 THEO
HƯỚNG TRẢI NGHIỆM
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu về giáo dục KNS
1.1.1.1 Trên thế giới
Vấn đề giáo dục kỹ năng sống đối với học sinh phổ thơng nói chung và học
sinh tiểu học nói riêng được nghiên cứu tại nhiều các quốc gia cũng như trong các hội
thảo, tọa đàm, công bố khoa học trong nước.
Cụ thể như sau:
Năm 1996, tại Thái Lan, GDKNS được triển khai cùng với các chiến dịch
phòng chống bệnh tật như chương trình ngăn chặn HIV AIDS. Chương trình GDKNS
được Thái Lan triển khai ở tất cả các bậc học. Việc triển khai KNS được thực hiện
qua các hoạt động ngoại khố. Các nhà trường có trách nhiệm thiết kế các hoạt động
ngoại khoá để triển khai chương trình này.

Cho đến hiện nay (năm 2022), giáo dục KNS là một môn học bắt buộc, được
xây dựng đồng bộ trên các cấp học từ Tiểu học đến Đại học của các cơ sở về giáo dục
của Thái Lan.
Qua nghiên cứu của UNESCO thì Thái Lan đã đưa ra 7 giá trị truyền thống về
con người, đất nước, lịch sử và văn hoá của Thái Lan. Đây là 7 giá trị quan trọng mà
chương trình giáo dục KNS cần xây dựng và triển khai. Trong đó yếu tố giáo dục để
trang bị kiến thức và hình thành con người mới, có mục tiêu sống, có trách nhiệm
sống là mục tiêu quan trọng trong chiến lược giáo dục của Thái Lan.
Đối với quốc gia Campuchia, vấn đề giáo dục KNS cũng được Bộ giáo dục,
thanh niên và thể thao của Campuchia coi trọng. Giáo dục KNS tại Campuchia bao
gồm giáo dục về kĩ năng cơ bản và giáo dục về kĩ năng nghề nghiệp.
Chương trình Giáo dục KNS tại Campuchia tập trung chủ yếu vào đối tượng
HS các cấp tiểu học và Trung học cơ sở. Đây là hai đối tượng dễ chịu tổn thương nhất
của Campuchia và mục tiêu của giáo dục KNS tại Campuchia là giáo dục con người,
để hình thành con người có đầy đủ kĩ năng khi ứng phó với hồn cảnh sống, biết chia
sẻ, cảm thơng, quan tâm và vượt qua các khó khăn…


Đối với nước Lào, bắt đầu từ năm 1998, Chính Phủ Lào đã cho triển khai các
nghiên cứu về KNS để triển khai tại các bậc học từ năm 2001. Các nội dung KNS
được triển khai lồng ghép trong nội dung các chương trình giáo dục khác như mơn
Đạo Đức, môn Sinh học, môn Giáo dục công dân….
Các nội dung về giáo dục KNS của nước Lào tập trung về các vấn đề như
phòng chống bệnh tật, các mối quan hệ trong gia đình và nhà trường, các kỹ năng cơ
bản để giúp HS tránh các thói hư, tật xấu ngồi xã hội….
Ở Philippin, từ năm 2001, KNS được tích hợp giảng day vào trong chương
trình giáo dục cơ bản. Theo đó, Philippin cịn triển khai GDKNS trong qn sự nhằm
lồng ghép đưa 11 KNS cốt lõi vào chương trình giảng dạy (tự nhận thức, giải quyết
vấn đề, ra quyết định, tư duy phản biện, tư duy sáng tạo, đối phó với căng thẳng, đối
phó với cảm xúc, đồng cảm, giao tiếp hiệu quả, kỹ năng quan hệ tích cực, kỹ năng

sản xuất kinh doanh).
Đối với một số các quốc gia khác như Bỉ, Giáo dục KNS là môn học bắt buộc,
giáo dục KNS tại Bỉ được thực hiện toàn bộ thơng qua các hoạt động trải nghiệm xã
hội. Chính Phủ Bỉ đã thành công trong việc truyền thông để Phụ huynh HS và nhà
trường thực hiện kết hợp chặt chẽ trong việc giáo dục KNs cho HS. Chính Phủ Bỉ coi
sự gắn kết này quyết định sự thành công trong chương trình giáo dục KNS cho HS.
1.1.1.2 Ở Việt Nam.
Nghiên cứu về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam tương đối phong phú và
được tiếp cận ở nhiều góc độ, tầng bậc khác nhau. Sau đây là các hướng nghiên cứu
chính:
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Bình đã có nhiều bài báo, bài nghiên cứu khoa
học về vấn đề KNS và giáo dục KNS. Những nghiên cứu của Nguyễn Thanh Bình đã
làm sáng tỏ về vấn đề lí luận, định hướng các vấn đề nghiên cứu về KNS trong giảng
dạy, học tập cho Học sinh. Cụ thể trong nghiên cứu của mình tác giả đã đưa ra một số
giải pháp nhằm đưa các chương trình giáo dục KNS cho HS vào các phân mơn phù
hợp để tối ưu hố
Ngồi ra, trong nội dung cuốn sách “Giáo trình Giáo dục kỹ năng sống”, tác
giả đã nghiên cứu và phân tích những yêu cầu đối với việc đổi mới và nâng cao chất
lượng dạy học, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng chú ý năng lực phẩm chất


của Học sinh. Nghiên cứu của tác giả khẳng định: “Cốt lõi của việc đổi mới phương
pháp dạy học là hướng vào học tập chủ động, chống thói quen thụ động, đồng thời
coi dạy học thông qua tổ chức hoạt động của học sinh là đặc trưng thứ nhất của
phương pháp dạy học tích cực”.
Các nghiên cứu tiêu biểu liên quan trực tiếp đến việc GDKNS cho HSTH qua
dạy học môn Tự nhiên và Xã hội, môn Khoa học là: (1) “Giáo dục sống khoẻ mạnh
và KNS trong dạy học Tự nhiên - Xã hội ở tiểu học” (Dự án Đào tạo Giáo viên Tiểu
học- 2007)[3]; (2)“Tích hợp dạy KNS cho HSTH qua mơn Khoa học và hoạt động
ngồi giờ lên lớp” (Lục Thị Nga - 2009); “GDKNS trong các môn học ở tiểu học”

(Bộ Giáo dục và Đào tạo - 2010)[10]. Các nghiên cứu trên đã hoàn thiện hệ thống lí
luận về KNS và giáo dục KNS trong nhà trường phổ thông. Đồng thời các nghiên cứu
đã đưa ra một số các mơn học mà nhà trường có thể lồng ghép trong việc kết hợp dạy
KNS cho Học sinh.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra tầm quan trọng của việc giáo dục
KNS cho HS trong giai đoạn hiện nay, KNS giúp cho HS hình thành những thói quen
tích cực, xây dựng cho HS những hành vi và thái độ đúng đắn với người xung quanh,
với bạn bè, bố mẹ và các thầy cô giáo. Việc đưa KNS vào trong giáo dục ở nhà
trường cũng nhằm thực hiện chiến lược giáo dục trong chủ trương các Nghị quyết của
Nhà nước.
Ngô Thị Tuyên, 2017, “Cẩm nang giáo dục cho học sinh tiểu học”, NXB Trẻ,
trong nghiên cứu tác giả đã cho rằng, giáo dục KNS trong nhà trường là việc cần phải
triển khai. Đồng thời tác giả đã đưa ra đầy đủ hệ thống khái niệm, cachs thức phân
loại, đề xuất một số phương pháp dạy học về KNS, các nguyên tắc khi lựa chọn nội
dung KNS phù hợp với các lớp học sinh.
Tác giả Nguyễn Dục Quang đã đưa ra: “Cách thức giáo dục kỹ năng sống được
hiểu bao gồm những phương pháp tiếp cận, các phương pháp dạy học tích cực và các
hình thức tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cần quan tâm đến vai trò của
người học”.
Vũ Minh trong nghiên cứu “Dạy kỹ năng sống cho trẻ cả giáo viên và gia đình
lúng túng” đã làm rõ thêm vai trò và tầm quan trọng trong việc giáo dục KNS đối với
Học sinh bậc tiểu học, tác giả đã phân tích thực trạng của giáo dục KNS ở một số nhà


trường tiểu học (trong phạm vi nghiên cứu). Trong phân tích tác giả đã cho rằng việc
cần thiết phải xây dựng một bộ sách về giáo dục KNS thống nhất và nhà trường cần
tạo điều kiện và triển khai các khoá đào tạo cho cán bộ giáo viên về phương pháp
giảng dạy KNS.
Bên cạnh đó một số tác giả như Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Bùi
Thị Thúy Hằng cho rằng, GV cần phải có phương pháp giảng dạy để thúc đẩy HS cần

phải tham gia vào các hoạt động KNS một cách chủ đồng. Chỉ khi như vậy thì HS
mới lĩnh hội được các giá trị của KNS.
Nhìn chung những cơng trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp tích cực
đối với việc giáo dục KNS cho HS nhưng vẫn cịn thiếu những cơng trình đi sâu
nghiên cứu giáo dục KNS cho HS lớp 2 theo định hướng trải nghiệm gắn với chương
trình GDTH mới. Kết quả của những cơng trình nghiên cứu trên là cơ sở để tác giả kế
thừa và tiếp tục phát triển nghiên cứu đề tài luận văn vào trường hợp cụ thể ở các
trường tiểu học Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ để thực hiện tốt chương trình GDTH
mới.
1.1.2. Những nghiên cứu về học tập trải nghiệm
Mặc dù tư tưởng về giáo dục trải nghiệm trong quá trình dạy học đã được đề
cập từ lâu nhưng về lý thuyết giáo dục trải nghiệm mới được xây dựng trong những
năm đầu thế kỷ XX. Có rất nhiều tác giả đã nghiên cứu và đóng góp cho sự phát triển
giáo dục trải nghiệm.
John Dewey (1859- 1952) là nhà Triết gia, Tâm lí học và là nhà Giáo dục thực
dụng nổi tiếng của Mĩ. Những nghiên cứu của Dewey đều có sự ảnh hưởng theo tư
tưởng của nhà triết học William James
Trong nội dung nghiên cứu của mình, ơng đã bác bỏ những điều cứng nhắc của
chủ nghĩa siêu nghiệm, ông cho rằng việc trải nghiệm là cần thiết để nâng cao giá trị
và hoạt động của con người. Ông cho rằng giáo dục chính là cái cần thiết để giúp con
người kết nối được với nhau, kết nối được với thế giới, giúp con người từ bỏ các thói
quen xấu và tiếp thu những thói quen tốt.
David Kolb sinh năm 1939 là một nhà lý thuyết giáo dục, nhà tâm lý học người
Mỹ. Ơng có lẽ là nổi tiếng nhất cho nghiên cứu của mình, có mối quan tâm và xuất
bản tập trung vào học tập trải nghiệm. Vào đầu những năm 1970, Kolb và Ron Fry


(hiện cả hai đều đang học tại Trường Quản lý Weatherhead ) đã phát triển Mơ hình
Học tập Trải nghiệm (ELM), bao gồm bốn yếu tố. Cụ thể ông cho rằng kinh nghiệm
là yếu tố đầu tiên, tiếp theo là yếu tố về quan sát và suy ngẫm về trải nghiệm đó.

Đồng thời trong nghiên cứu của ơng cũng cho rằng để học tập hiệu quả con
người cần phải ngẫm nghĩ về những kinh nghiệm sống của bản thân, đánh giá về
những việc đã xẩy ra hoặc bản thân mình đã làm, từ đó hình thành thói quen phân
tích và đánh giá những vấn đề đó để đúc kết ra các kinh nghiệm cho bản thân
Jean Will Fritz Piaget(1896-1980) là một nhà tâm lý học và triết học
người Thụy Sĩ. Ông nổi tiếng về những nghiên cứu nhận thức luận với trẻ em. Piaget
luôn đặt tầm quan trọng lớn đối với giáo dục cho trẻ em. Ông tuyên bố vào năm 1934
rằng "chỉ có giáo dục mới có khả năng cứu xã hội của chúng ta khỏi sự sụp đổ có thể
xảy ra, dù là bạo lực hay dần dần. Lý thuyết của ông về sự phát triển của trẻ được
nghiên cứu trong các chương trình giáo dục tiền cơng vụ. Các nhà giáo dục tiếp tục
kết hợp các chiến lược dựa trên kiến tạo. Quan niệm này giống quan niệm của Dewey
và Lewin, song có sự khác biệt là: Theo ông, sự phát triển nhận thức của mỗi đứa trẻ
phải trải qua 4 giai đoạn: Mơ hình xã hội học của sự phát triển,mơ hình sinh học của
sự phát triển trí tuệ,việc xây dựng mơ hình hợp lý của sự phát triển trí tuệ,nghiên cứu
về tư tưởng tượng hình.Vì vậy, lí thuyết của ơng ln mơ tả cách trí thơng minh được
định hình từ trải nghiệm
Tuy có nhiều các quan niệm khác nhau về giáo dục trải nghiệm, nhưng các tác
giả đều cho rằng giáo dục trải nghiệm tập trung vào kinh nghiệm và các tâm lý, trạng
thái, cảm xúc của học sinh trong học tập.
Chính vì vậy, để tổ chức các hoạt động giáo dục trải nghiệm đạt hiệu quả, cần
tạo ra các môi trường giáo dục mà ở đó người học cởi mở, giàu tương tác và được
huy động các kinh nghiệm sẵn có của bản thân mình.
Các hiệp hội Giáo dục trải nghiệm coi giáo dục trải nghiệm là “một triết lý
cung cấp nhiều phương pháp luận trong đó các nhà giáo dục tham gia có mục đích
với người học bằng trải nghiệm trực tiếp và phản ánh tập chung nhằm nâng cao kiến
thưc, phát triển kỹ năng , làm rõ các giá trị phát triển năng lực, giáo dục trải nghiệm
còn là thuật ngữ chỉ triết lý và giáo dục tiến bộ là chuyển động mà nó thơng qua.


Bên cạnh đó tác giả Đỗ Ngọc Thống trong nghiên cứu về kinh nghiệm của một

số của gia về vấn đề hoạt động trải nghiệm, tác giả đã cho rằng việc quan trọng của
các nhà trường là phải giáo dục sáng tạo. Để thực hiện giáo dục sáng tạo GV cần phải
kích thích được học sinh tham gia, thường xuyên tổ chức các hoạt động trải nghiệm
cho học sinh thông qua các hoạt động thường niên. Đối với một số các quốc gia việc
giáo dục hoạt động trải nghiệm rất linh động, hài hồ giữa việc dạy các mơn học
chính và các môn học kĩ năng
1.1.3. Những nghiên cứu về giáo dục KNS theo hướng trải nghiệm
Có nhiều tác giả nghiên cứu về giáo dục KNS theo hướng trải nghiệm nhưng
lại đi sâu vào những góc độ khác nhau, cụ thể là:
Theo triết lý giáo dục của Dewey ông cho rằng: “Trường học không chỉ là nơi
người lớn dạy cho trẻ con các bài học kiến thức và bài học luân lý. Trường học phải
là một cộng đồng dân chủ trong đó mọi hoạt động được tập trung nhằm tạo ra hiệu
quả cao nhất trong việc chia sẻ cho người học di sản tri thức nhân loại và làm cho họ
có thể sử dụng tài năng của mình vào mục đích xã hội. Do đó, giáo dục là một hoạt
động của đời sống, là bản thân quá trình sống của trẻ em chứ không phải là một sự
chuẩn bị cho một cuộc sống tương lai mơ hồ nào đấy.
Nhà trường có nhiệm vụ tạo ra những điều kiện tốt nhất để cá nhân người học
phát huy tận độ năng lực của mình, tạo dựng kiến thức cho mình bằng tồn bộ cơng
cụ của chính mình như: đơi mắt, đơi tai, đôi tay, đôi chân và đặc biệt là tư duy. Tóm
lại là người học có thể phát triển tồn vẹn mọi khả năng của mình để tham gia vào
đời sống xã hội.
Khơng có nội dung hoặc giá trị tự thân tuyệt đối nào từ bên ngoài được mang
áp đặt cho học sinh. Nhà trường và giáo viên phải tạo ra một mơi trường trong đó
những hoạt động của trẻ chứa đựng cả những tình huống khó khăn, để từ đó người
học tự tìm tịi và xây dựng kiến thức thơng qua “kinh nghiệm” và “tư duy”, thông qua
“trải nghiệm” của chính bản thân.
Theo chương trình giáo dục phổ thơng 2018 giáo dục KNS theo hướng trải
nghiệm tập chung chủ yếu vào các hoạt động khám phá, rèn luyện, phát triển quan hệ
với bạn bè, thầy cô và người thân trong gia đình. Các hoạt động xã hội được tổ chức
dưới các hình thức phù hợp với từng độ tuổi gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Do đó



KNS là rất cần thiết. Những kỹ năng thông qua hoạt động trải nghiệm sẽ hình thành
nên những kiến thức, kinh nghiệm mới như: Kỹ năng quản lý bản thân, kỹ năng tự
chủ tự học, kỹ năng điều chỉnh hành vi, kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng giao tiếp.
1.2. KNS và giáo dục KNS
1.2.1. KNS
1.2.1.1 Khái niệm:
Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc
nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay cơng việc nào đó
phát sinh trong cuộc sống.
Xét một cách tổng quan thì kỹ năng được chia thành 3 loại: Kỹ năng chuyên
môn, kỹ năng sống và kỹ năng làm việc. Đối với lứa tuổi học sinh tiểu học thì kỹ
năng được định hướng cần kết hợp đào tạo ở nhà trường và gia đình là kỹ năng sống.
Có nhiều quan niệm về kỹ năng sống và mỗi quan niệm lại được diễn đạt theo những
cách khác nhau:
Theo UNICEF thì KNS được xác định như kỹ năng tâm lý xã hội và những kỹ
năng cá nhân là những kỹ năng thường được đánh giá là quan trọng. Tổ chức này cho
rằng KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận
này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng[21].
Với mục đích giúp người học ứng phó với các vấn đề của cuộc sống và tự hồn
thiện mình, UNICEF phân loại KNS theo các mối quan hệ của cá nhân với các nhóm
KNS:
+ Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kỹ năng: kỹ
năng tự nhận thức, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm xúc, đương đầu
với căng thẳng.
+ Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác, với các kỹ năng thành
phần: kỹ năng quan hệ tương tác liên nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trước áp
lực tiêu cực của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng, giao tiếp có hiệu quả.
+ Nhóm kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả, gồm các kỹ năng: tư duy

phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Kỹ năng sống được khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo WHO
(1993): Kỹ năng sống là năng lực tâm lý xã hội, là khả năng ứng phó một cách có


hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của
một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua các
hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và mơi
trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai trị quan trọng trong việc phát huy
sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã hội[2].
UNESCO quan niệm: Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ
các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm cho hành vi
và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực, giúp con người có thể
kiểm sốt, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng
ngày. Khái niệm kỹ năng sống nêu trên được xác định theo cách tiếp cận năng lực
hành động của con người trước những vấn đề của cuộc sống. Thực tế cho thấy năng
lực hành động của con người được tổ hợp từ nhiều thành phần năng lực khác nhau
như năng lực chuyên môn, tri thức hiểu biết, năng lực phương pháp, năng lực xã hội,
năng lực cá nhân vv…Khái niệm kỹ năng sống nêu trên được tiếp cận theo nghĩa
rộng, bao gồm cả kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp và kỹ năng bổ trợ [23].
Mặc dù cách biểu đạt khái niệm KNS có khác nhau (việc xác định nội hàm của
khái niệm nông, sâu khác nhau dẫn đến phạm vi phản ánh của khái niệm rộng, hẹp
khác nhau) nhưng điểm thống nhất trong các quan niệm về KNS đã trình bày ở trên
là: khẳng định KNS thuộc về phạm trù năng lực (hiểu kỹ năng theo nghĩa rộng) chứ
không thuộc phạm trù kĩ thuật của hành động, hành vi (hiểu kỹ năng theo nghĩa hẹp).
Theo UNESCO, các kỹ năng sống cần giáo dục cho học sinh bao gồm:
+ Kỹ năng thương lượng/kỹ năng từ chối
+ Kỹ năng gián tiếp liên nhân cách
+ Kỹ năng ủng hộ, biện hộ, bênh vực
+ Kỹ năng tư duy có phê phán

+ Kỹ năng hợp tác và làm việc nhóm
+ Kỹ năng ra quyết định/Kỹ năng giải quyết vấn đề
+ Kỹ năng tăng cường năng lực kiểm soát bên trong
+ Kỹ năng quản lý cảm xúc
+ Kỹ năng ứng xử khi bị căng thẳng
+ Tự nhận thức, tự đánh giá bản thân, xã hội


+ Tự tin và tự trọng
+ Thể hiện sự cảm thông
+ Quan hệ ứng xử giữa cá nhân với với người khác và với xã hội
Với phân tích nêu trên, tác giả đề tài sử dụng khái niệm KNS trong nghiên cứu
đề tài với nội hàm: “Kỹ năng sống là năng lực làm cho hành vi và sự thay đổi của cá
nhân phù hợp với cách ứng xử tích cực, giúp con người có thể kiểm sốt, quản lý có
hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày để sống thành
cơng, hiệu quả”.
1.2.1.2 Vai trị của KNS
Xã hội hiện đại có sự thay đổi về tất cả mọi mặt mọi phương điện, toàn diện về
kinh tế, văn hóa, xã hội, lối sống với tốc độ nhanh đã làm nảy sinh những vấn đề mà
trước đây con người chưa gặp, chưa từng biết, chưa trải nghiệm, chưa phải ứng phó,
đương đầu. Có quan điểm cho rằng, trong xã hội hiện đại, nếu con người có kiến
thức, có thái độ tích cực mới đảm bảo 50% sự thành cơng, 50% cịn lại là những kỹ
năng cần cho cuộc sống mà ta thường gọi là kỹ năng sống. Người có kỹ năng sống sẽ
thực hiện những hành vi mang tính xã hội tích cực, quản lý được bản thân, có những
quyết định hợp lý. Do đó kỹ năng sống góp phần thúc đẩy sự phát triển và nâng cao
chất lượng cuộc sống cá nhân, đồng thời kỹ năng sống góp phần giảm thiểu tệ nạn xã
hội, thúc đẩy sự phát triển xã hội bền vững. Vì vậy chương trình Hành động Dakar đã
yêu cầu mỗi quốc gia cần đảm bảo người học tiếp cận chương trình giáo dục kỹ năng
sống (mục tiêu 3) và đánh giá chất lượng giáo dục cần đánh giá kỹ năng sống của
người học….

Trên thực tế các nhà trường trên địa bàn thị xã Phú Thọ đã triển khai giáo dục
KNS cho học sinh nhưng kết quả mang lại chưa cao. Cần phải có sự phối hợp mạnh
mẽ giữa gia đình nhà trường và xã hội để có những kiến thức sâu về KNS trong thời
gian tới.
1.2.2. Giáo dục KNS
1.2.2.1 Khái niệm:
Khái niệm giáo dục chỉ quá trình sư phạm tổng thể (dạy học và giáo dục theo
nghĩa hẹp) được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục. Đó là những hoạt động
do các nhà trường tổ chức, thực hiện theo kế hoạch, chương trình giáo dục và trực


tiếp điều hành, chịu trách nhiệm về chúng. Trong các hoạt động giáo dục thì hoạt
động dạy học giữ vai trò nền tảng và chủ đạo. Các hoạt động giáo dục được tổ chức
trên cơ sở các giá trị, nhằm tạo ra mơi trường hoạt động và giao tiếp có định hướng
cho người học, tuân theo những nguyên tắc chung, những mục tiêu chung, những
chuẩn mực giá trị chung, những biện pháp chung.
Khi nói đến GDKNS, có nhiều cách biểu đạt nhấn mạnh đến những khía cạnh
khác nhau như:
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO): “GDKNS nhằm tạo thuận lợi cho việc thực
hành, củng cố các kỹ năng tâm lí trong một nền văn hố và phát triển một cách thích
hợp, nó góp phần vào việc thúc đẩy phát triển cá nhân và xã hội, phòng chống các
vấn đề y tế, xã hội và việc bảo vệ quyền con người”.
Theo tác giả Nguyễn Thanh Bình: GDKNS là “hình thành cách sống tích cực
trong xã hội hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành
vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ
năng thích hợp”.
Nhìn chung, các quan niệm về GDKNS trên đây đều nhấn mạnh đến một khía
cạnh nào đó của quá trình giáo dục KNS. Theo WHO và tác giả Nguyễn Thanh Bình
nhấn mạnh đến mục đích thực hiện GDKNS, còn các nghiên cứu Viện khoa học giáo
dục Việt Nam nhấn mạnh đến tính chất và ý nghĩa của GDKNS. Trong nội hàm các

quan niệm chưa nêu ra được cách thức để thực hiện GDKNS.
Dựa vào cách hiểu về khái niệm giáo dục, căn cứ vào khái niệm kỹ năng sống
mà đề tài đã xác định, khái niệm giáo dục kỹ năng sống được hiểu như sau: Giáo dục
kỹ năng sống là q trình dưới vai trị chủ đạo của giáo viên nhằm trang bị cho người
học những kiến thức, thái độ, giá trị và tạo cho họ cơ hội rèn luyện, trải nghiệm trong
cuộc sống thực tiễn, từ đó giúp họ làm chủ bản thân, ứng xử tích cực với mọi người
và giải quyết có hiệu quả các tình huống, các vấn đề trong thực tiễn.
1.2.2.2 Đặc điểm của giáo dục KNS.
Từ sự nghiên cứu và phân tích của các tác giả cho chúng ta thấy giáo dục KNS
có những đặc điểm sau:
+ Nhằm hình thành các năng lực và hành động tích cực trong q trình học tập
và quá trình sống.


+ Giúp cá nhân ý thức được các hành vi của bản thân, quản lý điều chỉnh được
các hành vi của bản thân trong quá trình học tập và cuộc sống.
+ Hình thành các kỹ năng để giải quyết các vấn đề học tập và trong cuộc sống
hàng ngày.
+ Giúp các nhân thích nghi với các điều kiện sống để giải quyết các tình hướng
vấn đề, yêu cầu của cuộc sống xã hội.
1.2.2.3 Con đường giáo dục KNS
 Giáo dục KNS được thực hiện trước hết trong quá trình giáo dục ở nhà

trường.
 Giáo dục KNS cho học sinh qua tích hợp, lồng ghép trong nội dung mơn
học.
 Giáo dục KNS qua sử dụng phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực.
 Giáo dục KNS thơng qua tích hợp vào các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp.
 Giáo dục KNS thông qua các chủ đề được tổ chức chuyên biệt dưới hình

thức câu lạc bộ hoạc hoạt động ngồi giờ lên lớp.
 Giáo dục KNS thơng qua các tình huống giáo dục và các tình hướng
thực tiễn trong cuộc sống.
 Giáo dục KNS thơng qua hình thức tham vấn trực tiếp đối với cá nhân
hoặc nhóm học sinh.
Tạp chí khoa học Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh (Số 25 năm 2011) cho
rằng con đường giáo dục KNS gồm có 4 con đường.
Thứ nhất giáo dục KNS trong q trình dạy học các mơn học phải có chủ đề
nội dung KNS theo đó phải có các phương pháp tích cực để phát huy tư duy phê
phán, tư duy sáng tạo của người học, tổ chức học tập theo phương thức hợp tác để
hình thành, phát triển kĩ năng hợp tác cho người học….
Thứ hai giáo dục KNS thông qua tiếp cận KNS. Tiếp cân KNS chính là làm
thay đổi các hành vi, tư duy đmả bảo 3 yếu tố về kiến thức, kỹ năng và thái độ Bốn
trụ cột trong giáo dục: “học để biết, học để làm, học để chung sống với mọi người,
học để tự khẳng định mình” (Delors 1996) là một cách tiếp cận KNS, dựa trên sự kết
hợp giữa khả năng tâm lí xã hội với các kĩ năng thực hành, kĩ năng tâm vận động.
Thứ ba giáo dục KNS thông qua các chủ đề giáo dục KNS được tổ chức dưới
hình thức hoạt động ngoài giờ lên lớp/ câu lạc bộ ). Thiết kế các chủ đề giáo dục KNS


có thể theo 2 cách: Thứ nhất, mỗi chủ đề trực tiếp tập trung vào KNS cốt lõi. Theo
cách này người học sẽ hiểu KNS đó là gì, các bước thể hiện KNS đó và vận dụng nó
để giải quyết các tình huống giả định. Thứ hai, mỗi chủ đề gắn với một vấn đề thường
nảy sinh trong cuộc sống ở các nhóm đối tượng học KNS và để giải quyết nó thì cần
phải vận dụng tổng hịa những KNS khác nhau.
Thứ 4 giáo dục KNS thông qua dịch vụ tham vấn. Thông thường qua các con
đường giáo dục KNS nói trên vẫn có thể cịn một tỉ lệ nào đó HS có vấn đề với những
hành vi khơng mong đợi. Khi đó cần sử dụng cách tiếp cận cá nhân thông qua tham
vấn….
- Như vậy để thực hiện giáo dục KNS phải thông qua rất nhiều con đường khác

nhau trong đó nhấn mạnh 3 yếu tố kiến thức, kỹ năng và thái độ. Tuy nhiên để hình
thành và phát triển được KNS cho học sinh cần phải phối hợp linh hoạt, sử dụng đúng
các phương pháp và con đường tiếp cận để mang lại hiệu quả cao.
1.3. Giáo dục trải nghiệm
1.3.1. Một số khái niệm liên quan tới giáo dục trải nghiệm
1.3.1.1 Hoạt động trải nghiệm
Hoạt động trải nghiệm trong nhà trường cần được hiểu là hoạt động có động
cơ, có đối tượng để chiếm lĩnh, được tổ chức bằng các việc làm cụ thể của học sinh,
được thực hiện trong thực tế, được sự định hướng, hướng dẫn của nhà trường. Đối
tượng để trải nghiệm nằm trong thực tiễn. Qua trải nghiệm thực tiễn, người học có
được kiến thức, kỹ năng, tình cảm và ý chí nhất định.
Hoạt động trải nghiệm
Cuộc sống cá nhân là một dòng hoạt động, cá nhân là chú thể của các hoạt
động thay thế nhau. Hoạt động là quá trình cá nhân thực hiện các quan hệ giữa họ với
thế giới tự nhiên, xã hội, người khác và bản thân. Đó là quá trình chuyển hố năng
lực lao động (cùng với các phẩm chất tâm lý) của bản thân thành sự vật, thành thực tế
và quá trình ngược lại là quá trình tách những thuộc tính sự vật, của thực tế quay trở
về với chủ thể, biến thành vốn liếng tinh thần của chủ thể.Theo đó, tâm lý được nảy
sinh bởi hoạt động của chủ thể, đồng thời tâm lý là một thành tố của hoạt động đó.
Như vậy, hoạt động của con người bao giờ cũng mang tính chất xã hội. Mỗi
con người là một chủ thể của hoạt động. Con người có nhiều dạng hoạt động: hoạt


động của con người nói chung, hoạt động riêng từng mặt. Các dạng hoạt động này có
quan hệ gắn bó mật thiết với nhau.
Trải nghiệm hiểu đơn giản nhất là những gì con người đã từng kinh qua thực
tế, từng biết, từng chịu. Theo các nhà khoa học giáo dục, trải nghiệm chính là những
tồn tại khách quan tác động vào giác quan con người, tạo ra cảm giác, tri giác, biểu
tượng, con người cảm thấy có tác động đó và cảm nhận nó một cách rõ nét, để lại ấn
lượng sâu đậm, rút ra bài học, vận dụng vào thực tiễn đời sống, hình thành nên các

thái độ giá trị.
Sáng tạo là một đặc trưng nổi bật nhất của tâm lý người. Sáng tạo không phải
là một hoạt động “rập khn” có sẵn hay lặp lại một cách máy móc. Mà đó là việc tạo
ra những sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của con người và xã hội. Quá trình sáng
tạo là quá trình diễn ra từ ý nghĩ (ý tưởng) cho đến lúc tạo ra kết quả sáng tạo (sản
phẩm). Đó là sự chuẩn bị, suy nghĩ, nảy sinh ý tưởng mới, là sự huy động cao độ tồn
bộ sức mạnh trí tuệ của chủ thể sáng tạo. Như vậy, sự sáng tạo của con người là tìm
cách giải quyết những tình huống có vấn đề thể hiện ở chỗ đưa ra được những cái
mới, cái độc đáo (từ chưa biết trở thành biết). Nó trở thành động lực thúc đẩy cá nhân
phát triển.
Để xác định được khái niệm “hoạt động trải nghiệm”, cần xuất phát từ các
thuật ngữ "hoạt động”,“trải nghiệm”,“sáng tạo” và mối quan hệ qua lại giữa chúng
với nhau. Tuy nhiên, nó cũng khơng phải là phép cộng đơn giản của ba thuật ngữ
trên, bởi trong hoạt động đã có yếu tố trải nghiệm và sáng tạo. Chỉ có những hoạt
động giáo dục có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành phẩm chất và năng lực cho
người học, dành cho đối tượng học sinh đảm bảo ba yếu tố Hoạt động - Trải nghiệm Sáng tạo, mới được gọi là hoạt động trải nghiệm.
Theo tác giả Đinh Thị Kim Thoa, hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục
thông qua sự trải nghiệm và sáng tạo của cá nhân trong việc kết nối kinh nghiệm học
được trong nhà trường với thực tiễn đời sống mà nhờ đó các kinh nghiệm được tích
luỹ thêm và dần chuyển hoá thành năng lực.
Theo Bùi Ngọc Diệp, hoạt động trải nghiệm là một biểu hiện của hoạt động
giáo dục đang tồn tại trong chương trình giáo dục hiện hành. Hoạt động trải nghiệm
là hoạt động mang tính xã hội, thực tiễn đến với môi trường giáo dục trong nhà


trường để học sinh tự trải nghiệm trong tập thể, qua đó hình thành và thể hiện được
phẩm chất, năng lực, nhận ra năng khiếu, sở thích, đam mê, bộc lộ và điều chỉnh cá
tính, giá trị; nhận ra chính mình cũng như khuynh hướng phát triển của bản thân: bổ
trợ cho và cùng với các hoạt động dạy học trong chương trình giáo dục thực hiện tốt
nhất mục tiêu giáo dục. Hoạt động này nhấn mạnh sự trải nghiệm, thúc đẩy năng lực

sáng tạo của người học và được tổ chức thực hiện một cách linh hoạt sáng tạo.
Theo Lê Huy Hoàng, hoạt động trải nghiệm là hoạt động xã hội, thực tiễn giúp
học sinh tự chủ trải nghiệm trong tập thể, qua đó hình thành và thể hiện phẩm chất
năng lực; nhận ra năng khiếu, sở thích, đam mê, bộc lộ và điều chỉnh cá tính, giá trị,
nhận ra chính mình cũng như khuynh hướng phát triển bản thân; bổ trợ và cùng với
các hoạt động dạy học trong chương trình giáo dục thực hiện tốt nhất mục tiêu giáo
dục. Hoạt động này nhấn mạnh sự trải nghiệm, thúc đẩy năng lực sáng tạo của người
học và được tổ chức một cách linh hoạt, sáng tạo.
Nhìn chung, dù được diễn đạt bằng những cách khác nhau nhưng các tác giả
đều thống nhất ở một điểm, coi hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục, được tổ
chức theo phương thức trải nghiệm và sáng tạo nhằm góp phần phát triển toàn diện
nhân cách học sinh.
Trên cơ sở phân tích các khái niệm (thuật ngữ) liên quan, từ các góc độ nghiên
cứu khác nhau, có thể đưa ra nhiều cách định nghĩa khác nhau về hoạt động trải
nghiệm như sau:
Theo nghĩa chung nhất: “Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục, trong
đó nội dung và cách thức tổ chức tạo điều kiện cho từng học sinh được tham gia trực
tiếp và làm chủ thể của hoạt động, tự lên kế hoạch, chủ động xây dựng chiến lược
hành động cho bản thân và cho nhóm để hình thành và phát triển những phẩm chất, tư
tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những năng lực cần có của cơng dân
trong xã hội hiện đại, qua hoạt động học sinh phát huy khả năng sáng tạo để thích
ứng và tạo ra cái mới, giá trị cho cá nhân và cộng đồng”.
Nếu quan niệm hoạt động trải nghiệm là một hình thức tổ chức hoạt động “CÁCH” thì có thể hiểu: Hoạt động trải nghiệm là một trong số những hình thức dạy
học, giáo dục, để tổ chức các hoạt động giáo dục (hoạt động dạy học và hoạt động


giáo dục), mà học sinh được tham gia trực tiếp để chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
hình thành và phát triển năng lực của bản thân”.
Trong khi tham gia hoạt động người học phải khai thác được những kinh
nghiệm, vốn sống đã có kết hợp với những trải nghiệm mới để hình thành những

phẩm chất, năng lực mới, giá trị mới và tạo ta những sản phẩm (vật chất, tinh thần) có
giá trị đối với bản thân và đối với người khác.
Nếu hiểu hoạt động trải nghiệm là một nội dung giáo dục - “CÁI” thì có thể
quan niệm: Hoạt động trải nghiệm là tổng hòa các nội dung giáo dục, bao gồm: đời
sống xã hội, văn hoá - nghệ thuật, thể thao, vui chơi giải trí, khoa học kỹ thuật công
nghệ, lao động hướng nghiệp, được nhà giáo dục thiết kế theo mục tiêu phát triển
toàn diện nhân cách học sinh.
Nếu hiểu hoạt động trải nghiệm theo nghĩa là bản chất của một hoạt động thì
có thể quan niệm: Hoạt động trải nghiệm là một hoạt động có mục đích, có đối
tượng... trong đó:
+ Chủ thể hoạt động trải nghiệm là: Học sinh và các lực lượng có liên quan
(trong đó giáo viên giữ vai trị chủ đạo).
+ Đối tượng của hoạt động trải nghiệm là: Tri thức, kinh nghiệm xã hội, giá trị
(bao gồm cả giá trị sống), kỹ năng xã hội (bao gồm cả kỹ năng sống).
+ Mục tiêu của hoạt động trải nghiệm là: Giáo dục con người Việt Nam phát
triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân;
yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
+ Kết quả hoạt động trải nghiệm: Hệ thống các kỹ năng xã hội, năng lực xã
hội, phẩm chất đạo đức, giá trị sống.
Nếu coi hoạt động trải nghiệm có giá trị tương đương với một môn học (theo
cách quan niệm trong dự thảo đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng), có thể quan
niệm: Hoạt động trải nghiệm là một hợp phần quan trọng trong chương trình giáo dục
phổ thơng, với tư cách như là một mơn học, có nội dung chương trình cụ thể, phương
pháp, đánh giá... được các nhà sư phạm thiết kế, nhằm mục tiêu phát triển toàn diện
nhân cách học sinh, đặc biệt nhấn mạnh tạo diều kiện để người học trực tiếp tham gia
các loại hình hoạt động giáo dục, phát huy năng lực sáng tạo.


Như vậy, hoạt động trải nghiệm được coi là một khơng gian giáo dục trong nhà
trường phổ thơng, trong đó có sự tích hợp nội dung học lập trong nhà trường từ các

môn học gắn với kinh nghiệm của bản thân học sinh trong cuộc sống và năng lực sở
trường của học sinh trong từng lĩnh vực để thích nghi với cuộc sống thực đang diễn ra
bên trong và bên ngồi nhà trường. Đó cũng là khơng gian được tổ chức các hoạt
động giáo dục đa dạng như giáo dục định hướng nghề nghiệp, các hoạt động giáo dục
phát triển năng lực chuyên biệt, khác biệt cho các nhóm học sinh, gắn hoạt động của
nhà trường với cuộc sống, tạo sự liên kết đa dạng giữa các môn học trong những tình
huống thực tiễn, xây dựng các giá trị cuộc sống cho công dân theo định hướng các kỹ
năng mềm mà trong các môn học không thể chuyển tải được, tổ chức các hoạt động
giáo dục định hướng công dân... Đặc biệt không gian của hoạt động trải nghiệm cũng
được tối ưu hố qua việc dạy học bộ mơn khi tổ chức các hoạt động khám phá khoa
học, phát huy năng lực sáng tạo cần không gian và thời gian lớn vượt ngồi khn
khổ cho phép của từng mơn học riêng lẻ.
1.3.1.2 Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm
Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm là một hoạt động giáo
dục được thực hiện dưới các hình thức phong phú và đa dạng, trong đó HS được tiếp
xúc và mở rộng ứng dụng thực tế, trải nghiệm được nhiều vấn đề trong thực tiễn cuộc
sống, đồng thời gây hứng thú trong học tập và có vai trị to lớn trong việc phát triển
năng lực cá nhân, giúp các em có sự trải nghiệm một cách toàn diện trong mọi mặt
của đời sống xã hội.
Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm là nhà giáo dục tổ
chức, thiết kế các hoạt động giáo dục phong phú, đa dạng gắn hoạt động của nhà
trường với cuộc sống, tạo sự liên kết đa dạng giữa các tri thức khoa học với trong
những tình huống thực tiễn, tạo cho học sinh cơ hội rèn luyện, trải nghiệm trong cuộc
sống thực tiễn, từ đó giúp các em làm chủ bản thân, ứng xử tích cực với mọi người và
giải quyết có hiệu quả các tình huống, các vấn đề trong thực tiễn.
1.3.2. Đặc điểm của giáo dục trải nghiệm
Giáo dục trải nghiệm có những đặc điểm nổi bật sau:


- Quá trình học qua trải nghiệm diễn ra khi trải nghiệm được lựa chọn kỹ càng

và sau khi thực hiện được tổng kết bởi quá trình chia sẻ, phân tích, tổng qt hốt và
áp dụng.
- Người học được sử dụng tồn diện: trí tuệ, cảm xúc, thể chất, kỹ năng và các
quan hệ xã hội trong quá trình tham gia.
- Trải nghiệm được thiết kế để yêu cầu người học phải sáng tạo, tự chủ, tự ra
quyết định và thỏa mãn với kết quả đạt được.
- Qua “Giáo dục trải nghiệm”, người học được tham gia tích cực vào việc: đặt
câu hỏi, tìm tịi, trải nghiệm, giải quyết vấn đề, tự chịu trách nhiệm
- Kết quả của trải nghiệm khơng quan trọng bằng q trình thực hiện và những
điều học được từ trải nghiệm đó.
- Kết quả đạt được là của cá nhân, tạo cơ sở nền tảng cho việc học và trải
nghiệm của cá nhân đó trong tương lai.
- Các mối quan hệ được hình thành và hồn thiện: người học với bản thân
mình, người học với những người khác, và người học với thế giới xung quanh.
1.3.3. Mối quan hệ giữa giáo dục trải nghiệm với giáo dục KNS
Giáo dục trải nghiệm là hình thức giáo dục thông qua các hoạt động trải
nghiệm trong cuộc sống hàng ngày của người học từ đó người học đúc rút ra được
những kiến thức bài học kinh nghiệ cho bản thân mình. Cịn giáo dục kỹ năng sống là
hình thức giáo dục bao gồm tất cả các thành tố về kiến thức giáo dục và kiến thức xã
hội người học vận dụng những kiến thức, những gì đã biết thơng qua những điều đã
học được trong môi trường giáo dục và mơi trường xã hội để giải quyết các tình
huống vấn đề trong cuộc sống mang lại hiệu quả tốt cho bản thân. Vì vậy giáo dục
trải nghiệm và giáo dục KNS khơng tồn tại độc lập mà nó ln có mối quan hệ mật
thiết qua lại với nhau giúp cho người học hình thành và phát triển một cách toàn diện.
1.4. Đặc điểm của học sinh tiểu học.
Đối tượng của cấp tiểu học là trẻ em từ 6 đến 12 tuổi. Học sinh tiểu học là một
thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Ở mỗi trẻ em tiềm tàng khả năng phát
triển về trí tuệ, lao động, rèn luyện và hoạt động xã hội để đạt một trình độ nhất định
về lao động nghề nghiệp, về quan hệ giao lưu và chăm lo cuộc sống cá nhân, gia
đình. Ở giai đoạn tiếp theo, đứa trẻ từ 6-12 tuổi sẽ tiếp cận thế giới thông qua cả lý trí



và suy nghĩ. Do đó, đây là độ tuổi của những câu hỏi, trẻ có vơ số câu hỏi đặt ra cho
người lớn và cần câu trả lời hợp lý, không lấp liếm hay qua loa.Trẻ em ở lứa tuổi tiểu
học là thực thể đang hình thành và phát triển cả về mặt sinh lý, tâm lý, xã hội các em
đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới của mọi mối quan hệ. Do đó, học sinh
tiểu học chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã
hội, mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường
và xã hội.Học sinh tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và ln hướng tới
tương lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ
định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ
nhớ rất nhanh và quên cũng nhanh. Đối với học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan –
hình tượng phát triển chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ – logíc. Tư duy của trẻ em mới
đến trường là tư duy cụ thể, dựa vào những đặc điểm trực quan của đối tượng và hiện
tượng cụ thể. Trong sự phát triển tư duy ở học sinh tiểu học, tính trực quan cụ thể vẫn
còn thể hiện ở các lớp đầu cấp và sau đó chuyển dần sang tính khái qt ở các lớp
cuối cấp. đối với học sinh tiểu học, các em có trí nhớ trực quan phát triển chiếm ưu
thế hơn trí nhớ từ ngữ. Ví dụ các em sẽ mơ tả về một chú chim bồ câu dễ dàng hơn
sau khi xem hình ảnh hơn là nghe định nghĩa bằng lời nói rằng chim bồ câu thuộc họ
chim, có hai cái cánh, biết đẻ trứng… Vì vậy, trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến
những mơn học có đồ dùng, tranh ảnh trực quan sinh động, hấp dẫn, có trị chơi hoặc
có cơ giáo dịu dàng.Ngồi ra, trẻ vẫn cịn thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ
và chú ý có chủ định, có tính hiếu động và dễ xúc động.
Khi nói về đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học, vấn đề tình thân, tình bạn,…
cũng là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ ở lứa tuổi này. Đối
với học sinh tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó gắn kết nhận thức với hoạt
động của trẻ em. Tình cảm tích cực sẽ kích thích trẻ em nhận thức tốt và thúc đẩy các
em hoạt động đúng đắn.
Ở lứa tuổi này, đời sống xúc cảm, tình cảm của các em khá phong phú, đa dạng
và cơ bản là mang trạng thái tích cực. Các em bỡ ngỡ, lạ lẫm nhưng cũng nhanh

chóng bắt nhịp làm quen với bạn mới, bạn cùng lớp. Trẻ tự hào vì được gia nhập Đội,
hãnh diện vì được cha mẹ, thầy cơ đánh giá cao hay giao cho những công việc cụ thể.
Các em đã biết điều khiển tâm trạng của mình, thậm chí cịn biết che giấu khi cần


thiết. Học sinh tiểu học thường có tâm trạng vơ tư, sảng khối, vui tươi, đó cũng là
những điều kiện thuận lợi để giáo dục cho các em những chuẩn mực đạo đức cũng
như hình thành những phẩm chất trí tuệ cần thiết.
Ngồi ra tâm lí của học sinh khối 2 còn bộc lộ ở việc thiếu cố gắng, thiếu khả
năng phê phán và cứng nhắc trong hoạt động nhận thức. Học sinh có thể học được
tính cách hành động trong điều kiện này nhưng lại không biết vận dụng kiến thức đã
học vào trong điều kiện hoàn cảnh mới. Vì vậy trong mơi trường lớp ghép giáo viên
cần quan tâm tới việc việc phát triển tư duy và kỹ năng học tập cho học sinh trong
mơi trường nhóm, lớp. Việc học tập của các em còn bị chi phối bởi yếu tố gia đình,
điều kiện địa lý và các yếu tố xã hội khác đòi hỏi nhà trường, gia đình, xã hội cần có
sự kết hợp chặt chẽ để tạo động lực học tập cho học sinh. Đó là những đặc điểm
chung của lứa tuổi học sinh tiểu học nói chung.
Đối với học sinh lớp 2 cịn mang nặng tính trực quan, khả năng tư duy, phân
tích cịn kém, tri giác tổng thể chưa biết tri giác riêng lẻ vẫn còn dựa vào sự cầm tay
chỉ việc, hướng dẫn của giáo viên vì vậy khơng nắm được quan hệ giữa các đối tượng
trong tất cả mọi lĩnh vực cả về học tập và cuộc sống. Vì thế giáo viên cần phải nắm rõ
những đặc điểm này để có thể giúp học sinh có được sự tự tin hình thành và phát triền
khả năng của mình một cách tồn diện nhất.
1.4.1. Đặc điểm tâm lí
Tâm lý học lứa tuổi là một thuật ngữ được sử dụng để khái quát các giai đoạn
quan trọng trong mỗi cột mốc phát triển của một cá nhân, giúp gia đình, nhà trường
và xã hội hiểu được những gì đang diễn ra với con yêu của mình ở mỗi giai đoạn phát
triển.
Tâm lý học lứa tuổi bị chi phối bởi nhiều yếu tố, đó là ảnh hưởng của nền văn
hóa, hoạt động, điều kiện sinh học (di truyền) và ảnh hưởng quan trọng của yếu tố

giáo dục. Trẻ em trải qua những giai đoạn phát triển khác biệt khi có những bước
chuyển tiếp từ trẻ sơ sinh đến người trưởng thành. Trong mỗi giai đoạn này, nhiều
thay đổi trong não bộ và nhận thức của trẻ sẽ diễn ra. Trong đó, những bước phát
triển đầu tiên sẽ có tác động thuận lợi hay bất lợi lên các bước sau đó.
Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu tâm lý con người nhưng không phải là con
người trưởng thành mà là con người ở các giai đoạn phát triển.


Trẻ em vận động và phát triển theo quy luật riêng. Sự tác động qua lại giữa yếu
tố di truyền và môi trường sống của trẻ phần nào quyết định sự phát triển tâm lý trẻ
em theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực, lành mạnh hay lệch lạc. Ngoài ra, trong
suốt q trình phát triển này sẽ có sự đan xen giữa các giai đoạn bình ổn và khủng
hoảng.
Trong từng giai đoạn lứa tuổi có những đặc điểm chung, đặc trưng cho lứa tuổi
đó nhưng khơng phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến. Sự phát triển tâm lý của trẻ nhỏ
thường không ổn định và diễn ra cực kỳ nhanh chóng. Đó là một q trình khơng
phẳng lặng mà có khủng hoảng và có đột biến. Chính những tương tác của đứa trẻ với
thế giới xung quanh giúp cho tâm lý của trẻ được hình thành và phát triển.
Giai đoạn (từ 6 – 12 tuổi)
Đây là giai đoạn trẻ bước vào cấp tiểu học bắt đầu tự mình bước vào xã hội,
tương tác và ganh đua với bạn bè tại trường học. Trẻ bộc lộ rõ hơn các tài năng và
năng khiếu riêng nhờ các sinh hoạt chung và giao tiếp với mọi người. Trẻ ở giai đoạn
này thường háo hức, sẵn sàng tiếp thu những kỹ năng mới. Nếu giai đoạn này thành
cơng, trẻ sẽ có nhiều nghị lực và kinh nghiệm để đương đầu với những khó khăn và
khủng hoảng sau này. Nếu khơng, trẻ dễ cảm thấy mình thua kém bạn bè, ngán ngại
khi gặp những thử thách, khó khăn.
Trong giai đoạn này, cơ thể của trẻ chưa phát triển cân đối và có sự phối hợp
nhịp nhàng giữa các chi với nhau. Do vậy, đôi khi trẻ tỏ ra vụng về, hậu đậu. Nhưng
đừng vội trách mắng trẻ. Sự la mắng, cấm đoán sẽ làm cho trẻ khơng dám giao tiếp,
khơng có cơ hội để phát triển trí tuệ. Cảm giác tự ti, kém cỏi cũng bắt nguồn từ chính

những tình huống này.
Đó là tâm lý của lứa tuổi học sinh tiểu học nói chung. Đối với học sinh lớp 2
các em vẫn e dè, nhút nhát chưa thực sự mạnh dạn và tự tin vào khả năng của bản
thân mình trong thực hiện bất cứ một cơng việc gì, các em vẫn cịn sợ sệt phụ thuộc
vào bố mẹ, thầy cơ chưa có sự suy nghĩ chín chắn, vẫn cịn làm theo bắt trước những
hành động việc làm từ xung quanh thể hiện là mình cũng có thể làm được một phần
muốn tạo ra sự ấn tượng và muốn nhận được sự khen ngời từ bố mẹ và thầy cô cho
nên cần phải hướngch o các em sự tự tin vào bản thân mình để dần hồn thiện đặc
điểm tâm sinh lý.


1.4.2. Đặc điểm nhận thức
Theo Lã Thu Thủy-Viện tâm lý học- Tạp chí tâm lý học số 7 (76), 7-2005 cho
rằng: Học sinh tiểu học có độ tuổi từ 6-11,12 tuổi khi bước vào cấp học phổ thơng có
nhiều thay đổi về tâm lý và nhận thức.
- Đối với quá trình tri giác thì khả năng tri giác của trẻ đã có sự phát triển
nhưng chỉ dừng lại ở sự nhận biết và gọi tên hình dạng màu sắc (đó là khả năng trực
quan) sau một thời gian học tập thì khả năng này phát triển một cách mạnh mẽ trẻ có
thể phân tích và phân biệt được các đối tượng cụ thể thông qua quan sát. Đối với học
sinh tiểu học thì có một số q trình nhận thức cụ thể như sau:
+ Sự phát triển ghi nhớ
+ Sự phát triển về khả năng tưởng tượng
+ Sự phát triển về tư duy
+ Sự phát triển nhận thức đạo đức
Học sinh lớp một ghi nhớ các sự kiện gây ấn tượng phán đoán các sự việc dựa
trên những dấu hiệu nhưng khi học ở trường phổ thông các em bắt đầu phải ghi nhớ
tài liệu và nội dung có chủ định bằng cách nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đối với học
sinh lớp 2 nhận thức có sự phát triển hơn so với với lớp một đó là sự tưởng tượng tái
tạo tăng lên một cách rõ rệt ( hay cịn gọi là sự sao chép) các em có thể ghi nhớ, tái
tạo lại những hình ảnh nhờ vào trí nhớ hoặc sơ đồ mà không cần đến sự cụ thể hóa

đặc biệt. Nhìn chung học sinh lớp 2 chỉ là bước khởi đầu trong quá trình nhận thức và
bước khởi đầu này các em cũng sẽ phát triển một cách nhanh chóng và mạnh mẽ.[35]
1.4.3. Đặc điểm KNS
- Là khả năng con người biết sống sao cho hữu ích và có cách sống thích nghi
và phù hợp với mơi trường xã hội.
- Khả năng để con người dám đương đầu với các vấn đề, tình huống khó khăn
trong cuộc sống và biết cách giải quyết để vượt qua.
- Các kỹ năng tâm lý để con người biết quản lý, điều chỉnh bản thân mình và
tương tác tích cực với mọi người, xã hội.
1.5. Lí luận về giáo dục KNS cho học sinh lớp 2 học theo hướng trải nghiệm
Hoạt động trải nghiệm hình thành cho học sinh thói quen tích cực trong cuộc
sống hằng ngày, chăm chỉ lao động; thực hiện trách nhiệm của người học sinh ở nhà,


×