Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

thực trạng hoạt động phái sinh ngoại tệ tại việt nam và phương án phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.24 MB, 99 trang )

TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
TAI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH
QUỐC

íoCQca
KHÓA
LUẬN
TÓT
NGHIỆP
Đề
tài:
THỰC
TRẠNG
HOẠT
ĐỘNG
PHÁI
SINH
NGOẠI
TỆ
TẠI
VIỆT
NAM VÀ
PHƯƠNG
HƯỚNG


PHÁT
TRIỂN
Ị-MÙ VIỄN
Sinh viên thực hiện
Lớp
Khóa
Giáo viên
hướng dẫn
leo

Trần
Thị
Thu
Phương
Anh
6
45B
ThS.
Phan
Trần
Trung
Dũng

Nội - 05/2010
MỤC
LỤC
DANH
MỤC BẢNG
BIỂU
LỜI

MỞ
ĐÀU
Ì
CHƯƠNG
1.
Cơ SỎ LÝ LUẬN VÈ
CÔNG
cụ
PHÁI
SINH NGOẠI TỆ
3
1.1.
Lịch
sử hình thành

phát
triển
thị
trường tài chính phái
sinh
3
1.2. Nghiệp vụ phái
sinh ngoại hỘi
8
1.2.1.
Khái
niệm
về công cụ phái
sinh
ngoại hối.e

8
1.2.2.
Giới
thiệu
sơ lược các công cụ phái
sinh
ngoại hối
8
1.2.3.
Cách
thức thực
hiện
các
nghiệp
vụ phái
sinh
ngoại hối
21
1.3.
Vai trò của các công cụ phái
sinh
tiền
tệ
32
1.3.1.
Đối với
doanh
nghiệp
32
1.3.2.

Đối với
các
tổ
chức tài
chính
33
1.3.3.
Đối với
nền
kinh tế
33
CHƯƠNG
2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
PHÁI
SINH NGOẠI TỆ
TRÊN
THỊ
TRƯỜNG
VIỆT
NAM 34
2.1.
Quá
trình phát
triển
của
hoạt
động phái
sinh ngoại hỘi

Việt

Nam
34
2.1.1.
Quá trình phát
triển
giao
dịch
ngoại tệ
kỳ hạn và hoán
đổi ngoại tệ.
35
2.1.2.
Quá
trình
phát
triển
giao
dịch
ngoại tệ
quyền chọn
41
2.2. Thực
trạng
hoạt
động phái
sinh
trên
thị
trường
ngoại hỘi

Việt
Nam
44
2.2.1.
Hệ
thống
pháp
luật
điều
chỉnh
hoạt
động phái
sinh
ngoại hối
ca
Việt
Nam 44
2.2.2.
Hoạt
động phái
sinh
ngoại hối
tại
các ngân hàng
49
2.2.3.
Hoạt
động phái
sinh
ngoại hối

tại
các
doanh
nghiệp
57
2.3.
Đánh
giá
thực
trạng
hoạt
động phái
sinh
trên
thị
trường
ngoại
hối
Việt
Nam
62
2.3.1.
Thành
tựu
đã
đạt
được
trong
hoạt
động

ngoại hối
phái
sinh
tại
Việt
Nam
62
2.3.2.
Những hạn
chế của hoạt
động
ngoại hối
phái
sinh
tại
Việt
Nam 64
CHƯƠNG
3:
PHƯƠNG
HƯỚNG
PHÁT TRIỂN
HOẠT
ĐỘNG
PHÁI
SINH
NGOẠI
TỆ
TẠI VIỆT
NAM 70

3.1. Triển
vọng phát
triển
hoạt
động phái
sinh
trên
thị
trường
ngoại
hối
Việt
Nam 70
3.1.1.
Thuận
lợi
70
3.1.2.
Khó
khăn
74
3.2.
Giải
pháp phát
triển
hoạt
động phái
sinh
trên
thị

trường
ngoại
hối
Việt
Nam 77
3.2.1.
Giải
pháp

tẩm
quản


mô 77
3.2.2.
Giải
pháp

tầm
vi
mô 81
KẾT
LUẬN 91
DANH
MỤC BẢNG
BIỂU
Bảng
2.1:
Tình hình
cung

cấp
các
công
cụ
quản

rủi
ro tỷ giá cho khách
hàng
50
Bảng 2.2: Tình hình
cung
cấp
các
công
cụ
quản

rủi
ro tỷ
giá
của
các
NHTM
51
Bảng
2.3:
Tỷ
trọng
của giao

dịch
kỳ hạn
52
Bảng
2.4:
Doanh số
thực
hiện
quyền
chọn
tiền
tệ
trong
2 năm
2006

2007
tại
Eximbank
56
Bảng
2.5:
Mức
độ
nhận
thức
về
rủi
ro tỷ
giá của các

doanh
nghiệp
57
Bảng
2.6:
Tỷ
lệ
doanh
nghiệp
có sử
dụng
ngoại tệ
thưổng xuyên
58
Bảng
2.7:
Doanh số các
hoạt
động sử
dụng
ngoại tệ
quy
ra
USD 59
Bảng
2.8:
Nhận
thức

thực

hành sử
dụng
hợp đồng kỳ hạn
60
Bảng
2.9:
Nhận
thức

thực
hành sử
dụng
hợp đồng hoán
đổi
61
Bảng
2.10:
Nhận
thức

thực
hành sử
dụng
hợp đồng tương
lai
61
Bảng
2.11:
Nhận
thức

và sử
dụng
hợp đồng
quyền
chọn
62
LỜI
MỞ ĐẦU
Việt
Nam đang
trong
tiến
trình
hội
nhập
kinh
tế
sâu
rộng,
đặc
biệt
là từ
khi
gia
nhập
Tổ
chức
Thương mại
thế
giới

WTO, mở cửa
thị
trường là
vấn
đề
tất
yếu,
trong
đó có mở cửa
thị
trường
tài
chính.
Mở cửa
thị
trường
tài
chính
cũng
đồng
nghĩa
với
việc
thị
trường
tài
chính
Việt
Nam có sự
tham

gia
cắa
các
yếu tố
và các
đối
tác nước
ngoai,
Việt
Nam
phải
chấp
nhận
luật
chơi trên
thị
trường
quốc
tế

đối
mặt
với
cạnh
tranh
từ
các
tổ
chức
kinh

tế
trên
thế
giới.
Thị trường tài chính mở cửa
chắc
chắn
sẽ
tạo ra
những

hội
tiếp
cận
các
tiến
bộ kỹ
thuật,
các sản phẩm tài chính tiên
tiến
cũng
như
những
kinh
nghiệm
phát
triển
quý báu
từ
nước

ngoai.
Tuy
nhiên,
việc
mở cửa
thị
trường
tài
chính
cũng
dẫn đến
những
mặt
trái

thế
gây tác
hại
nghiêm
trọng.
Khi
dòng vốn được
tự
do luân
chuyển
ra
vào
nền
kinh
tế,

lưu lượng
vốn
luân
chuyển
ra
vào nền
kinh
tế
sẽ
lớn hơn. Khi
đó, bất
kỳ sự
chảy
vào hay
rút ra đột ngột cắa
dòng
vốn
này đều gây
ra
những
rắi
ro
khôn lường cho
thị
trường
tài
chính nói riêng và nền
kinh
tế
nói

chung,
mà rõ
nhất

thiệt
hại
trên
thị
trường
ngoại hối

thị
trường
chứng
khoan.
Do
đó,
vấn đề
đặt ra
là cần có
những
công cụ
tài
chính hữu
hiệu
để hạn chế
đến
mức
thấp nhất
rắi

ro

thể xảy ra
cho nền
kinh
tế

thị
trường
tài
chính
thúc đẩy sự phát
triển
mạnh
mê và bền
vững
cắa
thị
trường tài chính
Việt
Nam.
Một
trong
những
công cụ hữu
hiệu
nhất
đang được
thế
giới

ưa
chuộng
và sử dụng
hiệu
quà để phòng
ngừa
rắi
ro

kinh
doanh
tìm
kiểm
lợi
nhuận
là các công cụ phái
sinh
ngoại
tệ.
Tuy các công cụ phái
sinh
ngoại tệ
đã bát
đầu
phát
triển

Việt
Nam
từ

đầu năm
2000,
nhưng số lượng công cụ phái
sinh
ngoại tệ
được các
NHTM
đưa vào
cung
cấp
dịch
vụ cho khách
hang
còn
hạn chế,
cơ chế
hoạt
động sơ
khai,
doanh
số từ
hoạt
động này
chiếm
tỷ
lệ
khiêm
tốn
so
với

các
hoạt
động
kinh
doanh
truyền
thống.
Thị trường công cụ
Ì
phái
sinh ngoại tệ

Việt
Nam còn
ít
được
biết
đến và
ít
được sử
dụng.
Do đó,
vấn
đề phát
triển
hoạt
động phái
sinh ngoại
tệ
tại

Việt
Nam là một nhu cầu
bức
thiết
và cần được
triển
khai
nhanh
chóng,
hiệu
quả
từ
cấp
quản



đèn cấp
vi
mô đế thúc đấy sự phát
triến
của
thị
trường
tài
chính
Việt
Nam và
đáp ứng nhu
cầu của nền

kinh tế.
Chính vì
vỊy,
em đã đi đến
quyết
định tìm
hiểu
và nghiên cứu sâu hơn
hoạt
động này trên
thị
trường
Việt
Nam, và
lựa
chọn
đề
tài
cho bài khóa
luỊn
là:
"Thực
trạng
hoạt động phái
sinh
ngoại
tệ
trên
thị
trường

Việt
Nam và
phương hướng
phái triển".
Với
đề
tài này,
em
chia
bài
nghiên cứu
ra
3
phần
như
sau:
Chương
Ị:
Cơ sở

luỊn
về công cụ phái
sinh ngoại tệ.
Chương
2:
Thực
trạng
hoạt
động phái
sinh ngoại tệ

trên
thị
trường
Việt
Nam.
Chương 3: Phương
hướng
phát
triển
hoạt
động phái
sinh ngoại
tệ
trên
thị
trường
Việt
Nam.
Em
xin
chân thành cảm ơn
thầy
giáo
-
ThS. Phan
Trần
Trung
Dũng đã
nhiệt
tình giúp đỡ em hoàn thành bài khóa

luỊn
tốt
nghiệp
này. Những
nhỊn
xét và đóng góp
của
thầy
đã giúp cho bài khóa
luỊn
của em
chặt
chẽ
và chính
xác hơn
nhiều.
Tuy
nhiên,
do
những
hạn
chế của bản
thân em và
thiếu
thốn
tài
liệu,
bài khóa
luỊn
chắc chắn

còn
chứa
đựng
nhiều
sai
sót. Em
hi vọng
sẽ
nhỊn
được
những
ý
kiến
đóng góp
của
thầy
cô.
Em
xin
sẵn sàng
lắng
nghe

sửa
chữa
bổ
sung
để bài khóa
luỊn
hoàn

thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG
1.
Cơ SỞ LÝ
LUẬN

CÔNG CỤ PHÁI
SINH
NGOẠI
TỆ
1.1.
Lịch
sử hình thành và phát
triển thị
trường
tài
chính phái
sinh
Sở
giao
dịch
công cụ phái
sinh
ra đời
đầu tiên trên
thế
giới

là Sở
giao
dịch
Hoàng
gia
(The Royal Exchange)
ờ Luân Đôn, cho phép
giao
dịch
họp
đồng
kỳ hạn vào đầu
thế
kỷ
17.
Các họp đồng tương
lai
đầu tiên được
tạo ra
trên cơ sờ
thị
trường gạo
Yodoya

Osaka, Nhật
Bản vào
khoảng
năm 1650.
Những hợp đồng này
khi

đó được
chuẩn
hóa khá rõ
ràng,
gần
giộng với
họp
đồng
tương
lai
ngày
nay,
nhưng chưa được bù trù hàng ngày
(marked
to
market
daily)
và không có bên uy
tín
bảo lãnh.
Sự thành
lập
ủy ban thương mại
Chicago
vào năm 1848 là một dấu
mộc
quan
trọng.
Vào
thời

điểm
đó,
với
vị trí địa lý
thuận
lợi
nằm trên hồ
Michigan,
Chicago
trở
thành
trung
tâm kho
chứa,
buôn bán và phân
phội
ngũ
cộc
khu
vực.
Vì ngũ
cộc
có tính mùa vụ nên
Chicago
không đủ kho
chứa
vào
mùa
thu
hoạch

nhưng
lại
thừa
kho vào mùa xuân nên giá
giao
ngay
của ngũ
cộc thay đổi
mạnh.
Một nhóm các thương nhân ngũ
cộc
đã
tạo ra
một
loại
họp
đồng
có tên
"to-arrive
contract"
cho phép
người
nông dân ấn định giá hợp
đồng
trước
rồi
giao
ngũ
cộc
sau. Loại

hợp đồng này đã
chứng
tỏ
nó là công cụ
hữu
ích đế phòng
ngừa
rủi
ro và đầu cơ dựa trên chênh
lệch
giá.
Cả
người
nông dân và thương nhân đã sớm
nhận
ra
rằng
việc
bán và phân
phội
ngũ cộc
còn không
quan
trọng
bằng
việc di
chuyển
rủi
ro
về giá ngũ

cộc.
Ngũ cộc có
thể
được bán và phân
phội
đi
bất
cứ đâu vào
bất
cứ
thời
điểm
nào.
Những hợp
đồng
này
cuội
cùng đã được
chuẩn
hóa vào
khoảng
năm 1865 và đến năm
1925
thì
trung
tâm
thanh
toán bù
trừ
cho hợp đồng tương

lai
đầu tiên được
thành
lập.
Từ đó
trở
đi hình thái hợp đồng tương
lai
hoàn
thiện
gần như hợp
đồng
tương
lai
ngày
nay.
3
Vào
khoảng
giữa thế
kỷ
19,
nhà
tài
phiệt
Hussell
Sage ờ New
York,
đã
tạo

ra
một
khoản
nợ
tổng
hợp sử
dụng
nguyên lý
ngang
giá
quyền chọn -
"put
-
call parity".
Ông Sage mua cổ
phiếu
và một
quyền
bán
(put)
từ
khách hàng
của
mình và bán cho khách hàng một
quyền
mua
(call).
Bằng cách xác định
trưấc
các

quyền
bán,
quyền
mua và mức giá
thực hiện,
ông Sage đã
tạo
ra
một khoản
cho vay
vấi
mức lãi
suất
cao hơn
nhiều
so
vấi
quy định
luật
pháp
bấy
giờ.
Hợp đồng tương
lai/hợp
đồng
quyền
chọn/giao
dịch
phái
sinh

đã
nhiều lần
bị cấm
tại
Châu Âu,
Nhật Bản, thậm
chí bị cấm cả ờ
bang
Illinois
của
Mỹ vào năm 1867 nhưng sấm
bị
bãi bỏ
sau đó.
Năm
1874, Chicago
thành
lập
thêm Sở
giao
dịch
hàng hóa
Chicago
(The
Chicago Produce Exchange),
sau
đó các sở
giao
dịch
khác được thành

lập
trên
khắp
nưấc Mỹ.
Đầu
thế
kỷ 20

giai
đoạn
đen
tối
của
hoạt
động phái
sinh
do các công
ty
ma
- "bucket
shops"
mọc lên như nấm.
"Bucket
shops"
là các
tố
chức
nhỏ
hoạt
động về họp đồng

quyền chọn

chứng
khoán tìm cách
thu
hút
nhiều
khách hàng
tham
gia giao
dịch,
rồi
sau
đó bỏ
trốn
vấi
số
tiền
thu
được.
Năm
1922,
lần
đầu tiên chính
quyền
liên
bang
quyết
tâm
tham

gia
điều
tiết
thị
trường hợp đồng tương
lai
bằng
bản Đạo
luật
hợp đồng tương
lai
ngũ
cắc
(The
Grains Futures
Act).
Năm
1936,
hợp đồng
quyền chọn
về hợp đồng
tương
lai
(options
ôn íutures) bị cấm ở Mỹ.
Suốt
thời
gian
đó, họp đồng
quyền chọn,

hợp đồng tương
lai
và các
loại
họp đồng phái
sinh
khác
thỉnh
thoảng
lại
bị
cấm ở các nưấc khác
nhau.
Thập
niên 50 của
thế
kỷ 20 đánh dấu 2 sự
kiện
quan
trọng
trên
thị
trường
tương
lai.
Năm
1955,
Tòa Án
Tối
Cao công

nhận
trường hợp
phần
lợi
nhuận
của công ty Com
Products Refining
Company
kiếm
được từ
việc
phòng
ngừa
rủi
ro là
thu nhập
thông
thường.
Tiền lệ
này
tồn
tại
cho
tấi
khi
xảy
ra
trường hợp The
Arkansas
Best

vào năm
1988,
không cho phép trích
khoản
lỗ
vốn
khỏi thu
nhập
thông
thường,
do đó
khiến việc
phòng
ngừa
rủi
ro
4
chịu
một
khoản
thiệt
về
thuế.
Tuy
nhiên,
quy định này đã
bị
bãi bỏ vào năm
1993.
Sự

kiện
còn
lại

việc
cấm các hợp đồng tương
lai
vê củ
hành.
Thực
chất
việc
cấm hợp đồng tương
lai
về sản phẩm hành không
quan
trọng.

vấn
đề là nhóm nông dân
trồng
hành
Michigan
đã hỗ
trợ
để
nghị

trẻ
của họ,

ông
Gerald
Ford,
thành công
trong việc
cấm một
loại
hàng hóa đẫc
biệt
khỏi
giao
dịch
tương
lai.
Cho đến
nay,
luật
hiện
hành
tại
Mỹ vẫn có quy
định:

thể tạo ra
họp đồng tương
lai
trên
bất
kỳ
sản

phẩm
gì trừ
hành.
Hợp đồng
tương
lai tiền
tệ
được
tạo ra
đầu tiên
tại
Sờ
giao
dịch
Chicago
(The
Chicago
Mercantile
Exchange
- CME) vào năm
1972.
Các hợp đồng này được
tạo ra
dưới
sự hướng dẫn và
quản
lý của ngài Leo
Melamed,
Chủ
tịch

của Sở
giao
dịch
Chicago
lúc bấy
giờ.
Đây

hợp đồng tương
lai
đầu tiên mà
tài sản
cơ sở
không
phải là
hàng hóa
vật chất. Loại
hợp đồng này ngày càng
thể hiện
ưu
thế
sau
sự sụp đổ của hệ
thống
tiền
tệ Bretton
Woods
vào năm
1973.
Hiệp

định
neo tỷ
giá
hối
đoái
thế
giới
theo
vàng
sụp đổ,
dẫn đến
tỷ
giá các đồng
tiền
trên
thê
giới
được
thả nổi
và dao động
mạnh,
đã
khiến
cho
việc kinh
doanh
trở
nên
hết
sức

rủi ro.
Các nhà
kinh
doanh
tiền tệ,
xuất
nhập
khẩu
và đầu tư
quốc
tế
phải
tìm
kiếm
các
biện
pháp phòng
chống
rủi ro
thông qua
thị
trường
ngoại
hôi.
Chính vì
thế, việc
Sờ
giao
dịch
Chicago

tạo ra
một
thị
trường tương
lai
khác,
thị
trường tương
lai tiền
tệ,
đã mở
rộng
khả năng
quản
trị rủi
ro vốn
trước
đó
chỉ
dừng
lại
ở hợp đồng tương
lai
hàng
hóa.
Khái
niệm
"họp đồng
tương
lai tiền

tệ"
trên Sở
Giao
dịch
Chicago
mang
tính cách
mạng
và được
khẳng
định uy
tín bởi Giải
Nobel
kinh tế
mà nhà
kinh tế
học
Milton
Friedman
giành
được.
Ngày
nay,
Sở
Giao
dịch
Chicago
cung
cấp 41
loại

hợp đồng
tương
lai
ngoại
hối
và 31
loại
hợp đồng
quyền
chọn
dựa trên 19 đồng
tiền
khác
nhau.
Tất
cả đều được
giao
dịch
bằng
điện
tử
trên sàn
giao
dịch
toàn cầu
5
CME
Globex.
Đây là
thị

trường
giao
dịch
ngoại
hối

quản

lớn
nhất
thế
giới.
Năm
1975,
ủy ban Thương mại
Chicago (The Chicago Board
of
Trade
-
CBOT)
đã
tạo ra
hợp đồng tương
lai
lãi
suất
dựa trên các
khoản thế chấp
Ginnie
Mae (GNMA). Mặc dù hợp đồng tương

lai
lãi
suất
này đã có được
thành công ban đầu nhưng
cuối
cùng
lại
thất
bại.
ủy ban Thương mại
Chicago
đã
nhiều lần
phục
hồi
loại
hợp đồng
này,
thay đổi
cấu
trúc hợp đồng
nhưng vẫn không thành công. Năm
1975,
Sộ
giao
dịch Chicago
bát đâu cho
thực
hiện

hợp đồng tương
lai
về Tín
phiếu
kho
bạc.
Hợp đồng này là họp
đồng
tương
lai
lãi
suất thuần
túy đầu tiên thành
công.
Nó là một
minh chứng
cho
tính đòn bẩy của hợp đồng tương
lai.
Chỉ
với
1.000 USD, bây
giờ thậm
chí còn
ít
hơn,
bạn có
thể
nắm
giữ

lượng Tín
phiếu
kho bạc
trị
giá 1.000.000
USD. Vào năm
1977,
ủy ban Thương mại
Chicago
cho phép
hoạt
động hợp
đồng
tương
lai
về
trái
phiếu
kho bạc
(T-bond
íuture
contract),
loại
hợp đồng
đã phát
triển
thành hợp đồng có
giá
trị
giao

dịch
lớn nhất.
Năm
1977,
Sộ
giao
dịch Chicago
đã đưa vào
hoạt
đồng hợp đồng tương
lai
về
Eurodollars,
loại
hợp đồng sau này đã
vượt
qua cả họp đồng tương
lai
trái
phiếu
kho bạc để
trộ
thành
loại
họp đồng tương
lai

giao
dịch
mạnh

nhất
trên
thị
trường.
Năm
1982,
ủy ban Thương mại thành phố
Kansas
đã đưa
ra
hợp đồng
tương
lai
về chỉ số
chứng
khoán đầu tiên
(the stock index
íìiture),
the Value
Line
Index
Futures. Tiếp
bước thành công
này,
Sộ
giao
dịch Chicago
đã đưa
ra
sản

phẩm hợp đồng tương
lai
về
chỉ
số s&p 500.
Năm 1973 đánh dấu sự
ra đời
của Sộ
giao
dịch quyền chọn Chicago
(The
Chicago Board
Options
Exchange)
và ấn phẩm công
thức nổi
tiếng
nhất
trong
lĩnh
vực
tài
chính - Mô hình định giá
quyền chọn của
Fischer Black

Myron
Scholes.
Những sự
kiện

này
thực
sự đã
tạo ra những
thay
đổi
cách
6
mạng
trong
thế
giới
đầu
tư.
Từ
khi
được
biết
đến
tới
nay,
mô hình định giá
quyền
chọn
Black
-
Scholes
đã
thiết
lập

nên một
khung
toán học làm cơ sở
cho
sự bùng nổ
giao
dịch
các công cụ phái
sinh.
Năm
1983,
Sở
giao
dịch
quyền
chọn Chicago
đã
quyết
định đưa vào
hoạt
động hợp đồng
quyền chọn
về
một
loại
chỉ số
chững
khoán. Mới đầu
chỉ
số này có tên The

CBOE
100
Index,
rồi
sau đó là
Standard
and
Poor's
và sau này là chỉ số s&p 100
nối
tiếng.
Hợp đồng
quyền chọn
chỉ số
chững
khoán này vẫn là
loại
hợp đồng
quyền
chọn
niêm
yết
được
giao
dịch
nhiều nhất thế
giới.
Những năm 80 của
thế
kỷ 20 đánh dấu kỷ nguyên của hợp đồng hoán

đổi
(swap)
và các công cụ phái
sinh
phi tập
trung
khác
(the over-the-counter
derivatives).
Mặc dù họp đồng
quyền chọn
và kỳ hạn
phi
tập
trung
đã có từ
trước
đó nhưng
thế
hệ các giám đốc
tài
chính
tại
các
doanh
nghiệp

những
người
đầu tiên

tốt
nghiệp
các trường
kinh
doanh
được
tiếp
cận công cụ phái
sinh.

thế
các
doanh
nghiệp
đều sử
dụng
công cụ phái
sinh
để phòng
ngừa
rủi
ro, trong
một số trường hợp là để đầu cơ dựa trên
thay đổi
lãi
suất,
tỷ
giá

rủi

ro
hàng
hóa.
Các
sản
phàm mới liên
tục
được
tạo ra
để phòng
ngừa
số
lượng
rủi
ro đa
dạng

người ta

thể nhận
thữc
được.

hoạt
động tài
chính phái
sinh
ngày càng
phữc
tạp

nên Phố
Wall
đã
trọng
dụng
các nhân tài
toán học và
vật

học.
Các
loại
công cụ
trở
nên
phữc hợp,
được
biết tới

"exotic"
(công cụ
quyền chọn
đặc
biệt).
Vào năm
1994,
hoạt
động phái
sinh
bị gặp khó khăn

bởi
những khoản
lỗ
lớn
từ
giao
dịch
phái
sinh
của các
tập
đoàn
noi
tiếng
và giàu
kinh
nghiệm
như
Procter
and Gamble và
Metallgesellschaữ.
Một
trong
những
nơi giàu có
nhất
nước Mỹ,
quận
Cam ở
bang

Caliíbrnia tuyên bố phá
sản,
nguyên nhân
được
cho là do
hoạt
động phái
sinh,
nhưng chính xác hơn là do
việc
sử
dụng
đòn bẩy tài chính
trong
danh
mục đầu tư
chững
khoán kho bạc
ngắn
hạn.
Ngân hàng
Barings
của Anh
cũng
tuyên bố phá sản do đầu tư vào hợp đồng
7
tương
lai
bởi một nhân viên kế toán 28
tuổi

tại chi
nhánh ngân hàng ở
Singapore.
Những
thiệt
hại lớn
này đã dẫn
tới
một
cuộc
tẩy
chay
rộng rãi
các
công cụ phái
sinh
cũng
như các công
ty
bán
ra
chúng.
Người
ta chỉ
tiến
hành
một
vài
thay đối
nhỏ

trong
cách bán
ra
công cụ phái
sinh
nhưng
phần
lớn
công
ty
cũng
chỉ kiểm
soát
chảt chẽ

tiếp
tục
sử
dụng
công cụ phái
sinh.

hoạt
động
giao
dịch
phái
sinh
cho đến
giờ

đang ngày càng phát
triển
mạnh
mẽ
và đa
dạng
cả về
số

lượng
để đáp ứng nhu
cầu
thị
trường
thế
giới.
1.2.
Nghiệp
vụ phái
sinh
ngoại hối
1.2.1.
Khái
niệm
về công cụ phái
sinh
ngoại hổi.
Công cụ phái
sinh
nói


các công cụ
tài
chính được phát hành dựa trên
tài sản
cơ sở
(underlying
assets)
đã có
từ
trước.
Tài sản cơ sở này ngày càng
phong
phú và đa
dạng.
Trong
giai
đoạn
phát
triến
ban đầu thì tài sản cơ sở này là các hàng hóa
vật
chất,
cao hơn là
các công cụ
tài
chính.
Người
ta


thể tạo ra
hợp đồng công cụ phái
sinh
về
hầu hết
các
loại
sản
phẩm.
Trong
bài nghiên cứu này
chỉ
đề cập đến các công
cụ
phái
sinh
ngoại
hối.
Công cụ phái
sinh
ngoại
hốilà các công cụ phái
sinh

tài sản
cơ sở

tiền tệ,
được sử
dụng

để
quản
trị rủi
ro
hoảc
kiếm
lời
từ
những
biến
động
tỷ
giá
hối
đoái.
1.2.2.
Giới
thiệu
sơ lược các công cụ phái
sinh
ngoại hối
Các công cụ phái
sinh
ngoại hối
bao gồm hợp đồng kỳ
hạn,
hợp đồng
tiên
tệ
tương

lai,
hợp đồng hoán
đổi
tiền
tệ
và hợp đồng
quyền
chọn
tiền
tệ.
a.
Hợp đồng kỳ hạn (íorvvard)
Giao
dịch
ngoại tệ
kỳ hạn được
thực
hiện
trên
thị
trường
hối
đoái kỳ
hạn
(forward
market).
Hợp đồng mua bán
ngoại tệ
kỳ hạn là một công cụ tài
chính để mua

hoảc
bán một số
lượng
tiền
nhất
định,
tại
một
tỷ
giá
nhất
định
vào một
thời
điểm
xác định
trong
tương
lai.
8
Tỷ giá áp
dụng
trong
mua bán kỳ hạn
gọi

tỷ
giá kỳ hạn
(forward
rate).

Tỷ giá kỳ hạn
là tỷ
giá được
thỏa thuận
hôm nay làm cơ sở cho
việc
trao
đôi
tiền
tệ
tại
một ngày xác định xa hơn ngày giá
trị
giao
ngay.
Vì tỷ giá biên
động
liên
tục
cho nên
giữa tỷ
giá
giao
ngay

tỷ
giá kỳ hạn thường có một độ
lệch
nhất
định.

Độ
lệch
giữa
tỷ
giá
kỳ hạn và
tỷ
giá
giao
ngay
gọi

điếm kỳ
hạn
(forwardpoints).
P = F-S
F =
s
+ P
trong
đó:
P:
điểm
kỳ hạn
S:
tỷ
giá
giao
ngay
F:

tỷ
giá
kỳ
hạn
Các
giao
dịch
kỳ hạn không
diớn
ra
trên sở
giao
dịch,

giống
như
giao
dịch
giao
ngay,
đây

thị
trường
phi tập trung
của
ngân hàng và các nhà
môi
giới
được liên

kết
với
nhau bang
điện
thoại,
telex,
vi
tính và hệ
thống
SWIFT.
Bộ
phận
liên ngân hàng
của
thị
trường
hối
đoái kỳ hạn
hoạt
động liên
tục
thông qua
việc
đấu giá mở
hai
chiều giữa
các thành viên
tham
gia
(continuous

open
-
bid
double
auction),
nghĩa
là mỗi ngân hàng
yết
tỷ
giá kỳ
hạn
mua vào
(bid
rate),
bán
ra (ask
rate)
liên
tục
cho các ngân hàng khác và
ngược
lại.
Trên
thị
trường
hối
đoái nói
chung

hai

loại
họp đồng
hối
đoái kỳ
hạn:
hợp
đồng
outright
và hợp đồng
swap.
Hợp đồng
outright

sự
thỏa thuận giữa
một
ngân hàng và một khách hàng không
phải
là ngân hàng
(non-bank
customers)
nhằm phòng
ngừa
rủi
ro
hối
đoái cho khách hàng. về bản
chất
họp
đồng

này,
trước họp đồng
thực hiện
thì không có
bất
cứ sự
chuyển
giao
tiền
tệ
nào
giữa
các bên
tham
gia.
Tuy nhiên ngân hàng có
thể
yêu cầu khách
9
hàng ký quỹ
với
một mức
tối
thiếu
nào đó
hoặc
thế
chấp
tài
sản đê đảm bảo

việc
thực hiện
hợp
đồng.
Tiền
ký quỹ
trong
phạm
vi
tối
thiểu
không được
hưởng
lãi,
nhưng có
thể
được hưởng
lợi
tức
phát
sinh từ tài sản thế
chấp
(nêu
tài sản
thế
chấp

tài
sản
tài

chính).
Hợp đồng swap là hỏp đồng có kỳ hạn
giữa
hai
ngân
hàng,
theo
đó
hai
bên
thỏa thuận
hoán
đổi
một số lượng
ngoại
tệ
nhất
định vào một ngày xác định và
sau
đó hoán
đổi
ngược
lại
ở một ngày
trong
tương
lai
với tỷ
giá khác
tỷ

giá hoán
đổi
ban đầu.
Tỷ giá trên
thị
trường
hối
đoái có kỳ hạn thường được niêm
yết theo
bội
số của
30 ngày và năm
tài
chính thường được xác định

360
ngày.
Vì thê,
để
thuận
tiện
cho
việc
sử
dụng
thời
hạn của hỏp đồng kỳ hạn thường là Ì
tháng, 2 tháng Tuy nhiên trên
thị
trường liên ngân hàng có

thể

những
hợp
đồng có kỳ hạn
dưới
Ì tháng. Ngoài
ra,
một số
ít
hợp đồng có
thời
hạn
không
phải là bội
số 30
ngày.

Việt
Nam,
thị
trường
hối
đoái có kỳ hạn chưa
phát
triển
mạnh
nên
thời
hạn

giao
dịch
theo bội
số 30 ngày chưa được áp
dụng
phố
biến,
mà thường
theo thỏa thuận,
nhưng nói
chung
không quá 180
ngày.
b.
Hợp đồng hoán
đổi ngoại
hối
(íorex
swap)
Giao
dịch
hoán
đối ngoại hối

việc
đồng
thời
mua vào và bán
ra
một

đồng
tiền
nhất
định,
trong
đó ngày giá
trị
mua vào và ngày giá
trị
bán
ra

khác
nhau.
Như
vậy, nghiệp
vụ swap

việc
hoán
đổi
một lượng cố định một
đồng
tiền
này
lấy
một lượng
biến đổi
đồng
tiền

khác
trong
một
thời
gian
xác
định
bằng
cách ký cùng một lúc
hai
hợp
đồng:
hợp đồng mua bán
giao
ngay
và hỏp đồng bán mua kỳ hạn tương ứng để phòng
ngừa
rủi
ro tỷ
giá
xảy ra đối
với
một đồng
tiền
nào đó.
Căn cứ vào đặc
điểm
ngày giá
trị,
giao

dịch
hoán
đổi
gồm 2
loại:
spot-
forward
swap và
forward-forward
swap.
Spot-fonvard
swap bao gồm Ì
giao
dịch
giao
ngay
và Ì
giao
dịch
kỳ
hạn.
Ví dụ như hợp đồng hoán
đổi giao
10
ngay-kỳ
hạn
giữa
VND và USD: mua USD
giao
ngay

tại thời
điểm
to
và bán
USD kỳ hạn
tại thời
điểm
ti
Forward-forward
swap bao gồm 2
giao
dịch
kỳ
hạn
được ký cùng vào ngày hôm nay nhưng có ngày giá
trị
khác
nhau.
Ví dụ
như hợp đồng hoán
đối
kỳ
hạn-kỳ
hạn
giữa
VND và USD:
tại thời
điếm
to


kết
2 họp
đồng,
một hợp đồng mua USD kỳ hạn có ngày giá
trị

ti
và họp
đồng
bán USD kỳ hạn có ngày giá
trị

t
2
.
Hoán
đổi ngoại hối

những
đặc
điểm
cơ bản như
sau: (1) là giao
dịch
bao
gồm đồng
thời
cả vế mua và vế
bán, (2)
số lượng một

trong hai
đồng tiên
mua bán

cố
định,
(3) tỷ
giá
spot
áp
dụng
trong
vế mua và bán là như
nhau,
(4)
ngày
giá
trị
cấa
vế mua và vế bán

khác
nhau,
(5)
trong
thời
gian

hiệu
lực

cấa hợp
đồng,
không có
bất
kỳ một
luồng
tiền
nào xảy
ra trừ hai
luông
tiền
duy
nhất
xảy
ra khi thực hiện
vế mua và
bán.
Điều
này có
nghĩa
là lãi
suất
phát
sinh trong
thời
hạn hợp đồng được
thanh
toán một
lần
tại thời

điếm
họp
đồng đáo
hạn.
Hoán
đổi
tiền
tệ (currency
swap)

loại
hợp đồng có
những
đặc
điếm
tương tự như hợp đồng hoán
đổi ngoại
hối,
tuy
nhiên có một số khác
biệt.
Thời
hạn cấa hợp đồng hoán
đổi
tiền
tệ
thường là dài
hạn,
vì vậy
khoản

lãi
phát
sinh
được
thanh
toán (hoán
đổi)
định kỳ
trong
thời
hạn có
hiệu lực
cấa
hợp
đồng,
khoản
gốc
chi
được hoán
đổi khi
hợp đồng đáo
hạn.

thế,
hợp
đồng
hoán
đổi
tiền
tệ thuộc

loại
hợp đồng hoán
đổi ngoại hổi

thời
hạn dài

lãi suất
được
thạnh
đoán định kỳ
trong
thời
hạn có
hiệu lực
cấa hợp đồng.
Tuy
nhiên,
điểm
khác
biệt
căn bản
giữa hai
loại
giao
dịch
này
là: giao
dịch
hoán

đổi ngoại hối
được
thực hiện
trên
thị
trường
ngoại hối
(íòrex),
còn
giao
dịch
hoán
đổi
tiền
tệ
được
thực hiện
trên
thị
trường hoán
đổi
(swap
markets).
c.
Hợp đồng
tiền
tệ
tương
lai
(Currency

futures)
Hợp đồng tương
lai

một
thỏa thuận
về
việc
mua
hoặc
bán một
tài
sản
trong
tương
lai,
tại
một mức giá
nhất
định
(tức là
giá cả được
thỏa thuận
ngày
li
hôm
nay),
nhưng
việc
giao

nhận tài sản

thanh
toán
lại
xảy
ra
tại
thời
điểm
nhất
định
trong
tương
lai.
Các hợp đồng tuông
lai
được
giao
dịch
trên
nhiều
sở giao
dịch
khác
nhau
trên toàn
cầu.
Ngày
16/05/1972

Sở
giao
dịch Chicago
(The
Chicago
Mercantile
Exchange
- CME) đã cho
ra đời thị
trường
hối
đoái mới thông qua
việc
thiết
lập
đầu tiên Thị trường
tiền
tệ quốc tế
(International
Monetary
Market),
bộ
phận
trực
thuộc
cỉa CME. Đây

thị
trường
hối

đoái tương
lai,
một
biến thể
quan
trọng
cỉa
thị
trường
hối
đoái kỳ
hạn.
Các
giao
dịch
tiền
tệ
tương
lai
được
mở
rộng
và ngày càng phát
triển tại
CME. Vào năm 1978
chỉ
có 2
triệu
hợp
đồng được

giao
dịch,
nhưng đến năm 1994 đã có gần 30
triệu
hợp đồng
giao
dịch.
Thông thường các
giao
dịch
trên CME được
thực hiện
trong
khoảng
từ
7:20 sáng đến 2:00
giờ chiều theo giờ
Chicago.
Trong khoảng
thời
gian
từ
7:20 đến 7:35
sáng,
các
tỷ
giá
giao
dịch
được

giới
hạn
trong
một phạm
vi
nhất địn.
Các
giao
dịch
tăng cường được mở
rộng
trên
thị truồng ngoại hối
toàn
cầu
(GLOBEX)
từ
14:30 đến
16:00

sau
đó
tiếp
tục giao
dịch từ
18:00
đến
6:00 sáng hôm
sau
theo giờ

Chicago.
GLOBEX
là hệ
thống
điện tử quốc
tế
dành cho các
giao
dịch
tuông
lai

quyền chọn.
Hệ
thống
này cho phép
các sở
giao
dịch
thành viên niêm
yết
các sản phẩm cỉa mình sau
khi
sở
giao
dịch
CME đóng cửa. Vào năm 1985, CME và
Singapore
International
Monetary

Exchange
(SIMEX)
bắt
đầu
cung
cấp các hợp đồng có
thể
trao
đổi
thay thế
cho
nhau
và được
chấp nhận
trong
giao
dịch
trên cả
hai thị
trường.
Do chênh
lệch
về múi
giờ,
mối
quan
hệ
phối
hợp này đã giúp cho
thời

gian
giao
dịch
được mở
rộng
và tính
linh
hoạt
cỉa
thị
trường
đối với
những
nhà
đầu
cơ và
những
nhà
tự
bảo
hiểm
được tăng
cường.
Tháng 7 năm
1086,
Hội
đồng
thương mại
Phỉladenphia
(The

Philadenphia
Board
of
Trade
-
PBOT)
-
Chi
nhánh
cỉa
Sở
giao
dịch
cổ
phiếu Philadenphia bắt
đầu
thực hiện giao
dịch
tiền
tệ
tuông
lai.
Ngoài ba sờ
giao
dịch
kể trên
thì
giao
dịch
tiền

tệ
tương
lai
12
còn được
thực hiện
ở một số sở
giao
dịch
khác:
MidAmerica Commodities
Exchange,
The New
Zealand
Futures
Exchange,
The
Tokyo
International
Financial
Futures
Exchange,
The
London
International
Financial Futures
Exchange,
The
Stockholm
Options

Market.
Khác
với
hợp đồng kỳ hạn là
những
họp đồng
phi
tập
trung,
các họp
đồng
tiền
tệ
tương
lai

những
hợp đồng được tiêu
chuẩn
hóa và được
giao
dịch
trên các sờ
giao
dịch.
Trong
hợp đồng mua bán
tiền
tệ
tương

lai,
người
mua và
người
bán không có ý định
thực
sự
giao
trỗ tiền
đã
ghi trong
họp đồng.
Người
mua họp đồng
tiền
tệ
tương
lai
thường bán
lại
hợp đồng
khi
gần đáo
hạn
hợp đồng để
kiếm
lợi
bù trù cho
phần
lỗ

mà họ có
thể
gánh
chịu từ
biến
động
tỷ giá. Người
bán hợp đồng
tiền
tệ
tương
lai
thuồng
mua
lại
hợp đồng
đó
khi
gần đáo hạn
cũng
với
mục đích tương
tự.
Những
nghiệp
vụ mua
rồi lại
bán,
bán
rồi lại

mua các hợp đồng
tiền
tệ
tương
lai
này được
gọi

nghiệp
vụ
phòng
ngừa
rủi
ro biến
động
tỷ
giá
(hedging).
Các công
ty,
cá nhân và cỗ các ngân hàng
tạo thị
trường
gửi
các
lệnh
đặt
mua,
đặt
bán một số lượng cố định

ngoại hối
cho các nhà môi
giới
hay các
thành viên của sờ
giao
dịch.
Trên sở
giao
dịch,
các
lệnh
đặt mua
(long
positions)
được
đối chiếu với
các
lệnh
đặt
bán
(short
positions).
Một công
ty
thanh
toán bù
trừ
(clearing
corporation)

của sở
giao
dịch
đỗm bỗo cho cỗ
hai
bên mua và bán
rằng
các
lệnh
đặt
mua và
đặt
bán sau
khi
được
đối chiếu

khép
với
nhau
sẽ
chắc chắn
được
thực hiện.
Cung và cầu về các hợp đồng
tương
lai
được
thể
hiện

thông qua
việc
các
đối
tác sẵn sàng mua
hoặc
sẵn
sàng bán các hợp đồng. Do đó, giá cỗ các hợp đồng
biến
động
theo
giá của
các
lệnh đặt
mua,
đặt
bán.
Giá cỗ
biến
động
khiến
cho các hợp đồng mua, bán

thể
khớp
với
nhau. Trong
trường hợp đặc
biệt,
các

lệnh
đặt
mua và
lệnh
đặt
bán cách xa
nhau
về mức giá, không có
lệnh
nào khép được
với nhau,
13
giao
dịch
trên
thị
trường không xảy
ra;
trường
hợp này
gọi
là "hố ngầm trên
sở giao
dịch"
(trading
pit).
Đe
một
thị
trường

trở
thành
thị
trường của
các hợp
đồng tương
lai
thì
trên
thị
trường chỉ
tồn
tại
một số
ít
ngày
giá
trị
nhất
định.
Tại
Sờ
giao
dịch
Chicago
- CME
chỉ
có 4
ngày giá
trị

là: thứ
4
tuần thứ
ba
(third
Wednesday)
trong
các tháng
3, 6, 9, 12.
Nhằm
tạo ra
các
điều
kiỗn
đồng
nhất giữa
các
hợp
đồng,
hợp
đồng tương
lai
đối với
mỗi
loại
ngoại tỗ

một số lượng
nhất
định:

62
500 GBP/hợp
đồng,
100 000 CAD/hợp
đồng,
125 000 CHF/ hợp
đồng,
100
000
AUD/
hợp
đồng,
125
000
EUR/
hợp đồng.
Điều
bắt
buộc
trong
giao
dịch
tương
lai

người
mua và
người
bán
phải


tài
khoản

quỹ
(margin)

phải
trả
phí
giao
dịch.
Tiền đặt cọc
thường

mức 3%
đến
25% tùy giá
trị
hợp
đồng
tùy
theo
lượng
ngoại tỗ đặt
mua, bán
nhiều
hay
ít.
Khoản

ký quỹ
ban
đầu này
phổ
biến

4% giá
trị
hợp
đồng

được
chấp
nhận
bằng
tiền
mặt và
trái
phiếu
chính
phủ.
Khoản
ký quỹ này
được
duy
trì
trên
tài
khoản
mở

tại
nhà môi
giới,
nhà môi
giới lại
phải
ký quỹ
tại
nhà
thanh
toán

trừ
của
sờ
giao
dịch.
Nhà
thanh
toán

trừ
đối chiếu
các
lỗnh
mua,
lỗnh
bán
với
nhau,

tiến
hành
giao
dịch
các
lỗnh
khớp.
Nếu số dư
trên
tài
khoản
ký quỹ
giảm
xuống
dưới
mức quy
định,
thông thường
là 75%
mức ký quỹ ban đầu
thì
những
người
nắm
giữ
hợp
đồng tương
lai
sẽ
nhận

được
margin
call
-
lỗnh
yêu
cầu
nộp một
khoản

quỹ
bố
sung
(maintenance
margin).
Ngược
lại,
nếu giá
trị
thị
trường của
hợp
đồng
tăng,
phần
tăng thêm
được
ghi
có vào
tài

khoản

quỹ,
người
nắm
giữ
hợp
đồng tương
lai

thể
rút
ra.
Khoản
ký quỹ
được điều
chỉnh
hàng ngày
(mark
to the market).
Nếu
người
nắm
giữ
họp
đồng không
thực hiỗn
nghĩa
vụ ký quỹ bổ
sung

thì
nhà
môi
giới
sẽ tự
động
thanh
lý họp đồng.
Đối
với
mỗi họp
đồng tương
lai,
viỗc
thanh
toán lãi
lỗ
vào
cuối
mỗi
ngày
giống
như
viỗc
tất
toán trước
hạn:
tất
toán
hợp

đồng
kỳ hạn cũ có
thời
14
hạn
(t
+
1)
để ký hợp đồng kỳ hạn mới có
thời
hạn
(t)
nhưng có cùng ngày giá
trị
với
hợp đồng kỳ hạn
cũ. Việc
hàng ngày
điều chỉnh
giá
trị
hợp đồng tương
lai
theo
giá
thị
trường có
nghĩa
là mọi
khoản

lãi
lỗ
phát
sinh
đều được
quyết
toán hàng
ngày.
Hạn mức duy
trì
(maintenance
level)
trên
tài khoản
ký quỹ đã
giảm
rủi
ro
mặt
khả
năng
thanh
toán
của
nhà đầu
tư.
Ngoài
ra,
mọi hợp đồng
tương

lai
với
cả
người
mua và
người
bán đều được công
ty thanh
toán bù
trừ
của
sờ
giao
dịch
đảm
bảo.
Nếu có khả năng
người
mua
hoặc người
bán mặt
khả
năng
thanh
toán thì
người

lợi
vẫn được đảm bảo
bởi

công
ty
thanh
toán bù
trừ
sẽ chịu
trách
nhiệm.
Hợp đồng tương
lai

thời
hạn
tối
đa là 12 tháng
trong khi
hợp đồng
kỳ
hạn có
thể
kéo dài
tới
20 năm. Nhưng, các hợp đồng tương
lai
ít được
thanh
toán
tại thời
điểm
đến hạn

(theo
thống
kê thì
chỉ khoảng
1% hợp đồng
tương
lai
được
giữ
đến
khi
đáo
hạn).

ngay
cả
khi
hợp đồng tương
lai
được
thanh

tại thời
điểm
đến hạn thì
rủi
ro điều chỉnh
giá
trị
theo

điều
kiện
thị
trường
(marking-to-market
risk)
vẫn
tồn
tại

giữa
khoản
lãi
(lỗ)
trên tài
khoản
ký quỹ và sự
biến
động
tỷ
giá
giao
ngay
trên
thị
trường không
phải
lúc
nào
cũng

bù đắp cho
nhau
một cách hoàn hảo.
d.
Hợp đồng
hối
đoái
quyền chọn
Năm 1982 hợp đồng
hối
đoái
quyền chọn
lần
đầu tiên
xuặt
hiện.
Việc
mua bán này có
thể
thực hiện
tập
trung
tại
sở
giao
dịch hoặc phi tập
trang.
Khác
với
các hợp đồng

ra đời
trước
đó,
họp đồng
hối
đoái
quyền chọn
cho
phép
người
mua họp đồng có
quyền,
nhưng không có
nghĩa
vụ,
mua
hoặc
bán
một
loại
ngoại
tệ
nhặt
định,
tại
một mức
tỷ
giá xác định
thỏa thuận
từ

trước
(tỷ
giá
quyền
chọn)
trong
tương
lai.
Trong
giao
dịch quyền chọn, người
mua
quyền chọn

quyền
lựa
chọn:
giao
dịch
theo
tỷ
giá đã
thỏa thuận trong
hợp
đồng
nếu
thặy

lợi
cho mình,

hoặc
để cho họp đồng tự động
hết
hạn mà
không
thực hiện giao
dịch nếu
thặy
làm như
vậy

lợi
hơn.
Tuy
nhiên,
người
15
bán họp đồng
quyền chọn
phải
luôn sẵn sàng
thực
hiện
giao
dịch
nếu
người
mua muốn. Như
vậy,
khác

với thị
trường kỳ
hạn, việc
giao
trả
ngoại
tệ
không
xảy ra;
nhưng
cũng
khác
với thị
trường
hối
đoái tuông
lai,
việc
mua
lại
hay
bán
lại
sau
khi

kết
họp đồng mua bán để vô
hiệu
hóa

việc
giao
nhận
cũng
không
xảy
ra.
Xét
từ
góc độ
người đi
mua hặp đồng
quyền chọn thì

thể
định
nghĩa
hặp
đồng
quyền chọn
tiền
tệ
như
sau:
Hặp đồng
quyền chọn
tiền
tệ
là một
công cụ

tài
chính,
cho phép
người
mua hặp đồng có
quyền (chứ
không có
nghĩa
vụ),
mua
hoặc
bán một đồng
tiền
này
với
một đồng
tiền
khác
tại
tỷ
giá cố định đã
thỏa
thuận
trước
tại
một
thời
gian
ấn định
trong

tương
lai.
Hợp đồng
quyền
chọn mua
tiền
tệ (cai!
option)
là họp
đồng,
trong
đó
người
mua hặp đồng có
quyền
mua một đồng
tiền
nhất
định.
Hợp đồng
quyền
chọn bán
tiền
tệ (put
option)

hặp
đồng,
trong
đó

người
mua họp đồng có
quyền
bán một đồng
tiền
nhất
định
Tóm
lại,
trong
họp đồng
hối
đoái
quyền chọn

hai
nghiệp
vụ:
- Nghiệp
vụ
can
option
(quyền
chọn
mua) bao gồm
hai đối
tưặng:
Người mua
quyền
chọn mua

(buyer
call
option
-
long
call):

quyền,
nhưng không
bắt buộc
phải
mua một lưặng
ngoại
tệ
nhất
định
theo
một
tỷ
giá
nhất
định trước vào một ngày đã xác định
trong
tương
lai
hoặc
trước ngày
đó);
Người bán quyển chọn mua
(seller call

option
-
short
call):

trách
nhiệm
phải
bán một lưặng
ngoại
tệ
nhất
định,
theo
một giá xác
định trước
tại
một ngày xác định
hoặc
trước ngày đó
khi
người
mua
muốn
thực
hiện
quyền.
- Nghiệp
vụ
put option

(quyền
chọn bán)
bao gồm 2
đối
tưặng:
16
Người mua quyền chọn bán
(buyer
put
option
-
long
put)

được
quyền
nhưng không
bắt buộc
phải
bán một lượng
ngoại
tệ
nhất
định,
theo
một
tỷ
giá xác định trước vào một ngày đã được xác định
trong
tương

lai
hoặc
trước
ngày đó.
Người bản quyền chọn bán
(seller
put
option
-
short
put):

trách
nhiệm
phải
mua một lượng
ngoại
tệ
nhất
định
tại
một ngày xác
định
hoặc
trước ngày
đó,
khi
người
mua
(người

nắm
quyền chọn
bán)
muốn
thực hiện
quyền.
Mỗi
giao
dịch quyền chọn
luôn bao gỳm cả
quyền chọn
mua và
quyền
chọn
bán. Ví
dụ,
nếu A mua hợp đỳng
quyền chọn
mua EUR, thì
cũng

nghĩa là:
A đỳng
thời
mua
quyền chọn
bán USD; và ngược
lại,
nếu A mua
họp

đỳng
quyền chọn
bán USD,
thì cũng

nghĩa
là:
A đỳng
thời
mua
quyền
chọn
mua EUR. Chính vì
thế,
chúng
ta
quy định
rằng
khi
nói đến hợp đỳng
quyền chọn
mua
tiền
tệ
(call
option)
nghĩa
là mua đỳng
tiền
yết

giá - bán
đỳng
tiền
định
giá;
hợp đỳng
quyền chọn
bán
tiền
tệ (put
option)
là bán đỳng
tiền
yết
giá
- mua đỳng
tiền
định giá.
Tỷ giá quyên
chọn
(exercise price
or
strike price)
là giá áp
dụng
trong
họp
đỳng
quyền chọn.
Nếu như

tỷ
giá
trong
các hợp đỳng
giao
ngay,
họp
đỳng
kỳ hạn hay họp đỳng tương
lai

tỷ
giá hình thành
theo
quan
hệ
cung
cầu
trên
thị
trường, thì các tỷ giá
quyền chọn,
ngoài yếu tố
cung
cầu
thị
trường
còn phụ
thuộc
vào mức phí

quyền chọn
cao hay
thấp,
vì vậy tỷ giá
quyền chọn

thể thấp
hơn
hoặc
cao hơn đáng kể so
với
tỷ
giá
giao
ngay
tỷ
giá kỳ hạn hay
tỷ
giá tương
lai.
Như
vậy,
tỷ
giá
quyền chọn

thể
thay
đổi
miễn là người

mua và
người
bán
chấp nhận,

giữa
tỷ
giá
quyền chọn
và phí
quyền chọn
luôn có
quan
hệ
tỷ
lệ
nghịch. Người
bán thường sẵn
sang chấp
nhận
mọi
tỷ
giá
quyền chọn

người
mua đề
nghị,
nhưng áp
dụng

mức phí
Ì
ÍTHlí »
1
'*"•5*
hợp lý
đế có
lãi.
- .
ị '
17 [uưầẩử ị
! 3 mo I
Phí
quyền chọn
(option
premium), hay giá hợp đồng
quyền chọn
(pption price,
option
feè) là khoản
tiền

người
mua
phải
trả
cho
người
bán
họp

đồng
quyền chọn.
Giá hợp đồng
quyền chọn
phải

lượng
tiền
họp lý đế

thế
bù đắp
rủi
ro
xét
từ
góc độ
người
bán và không quá
đắt đối
với
người
mua. Nếu hợp đồng đáo hạn mà không có
giao
dịch
xảy
ra
thì chỉ có một
luông
tiên

duy
nhất
là khoản
phí
quyền chọn

người
mua
trả
cho
người
bán.
Phí
quyền chọn là khoản
tiền
không
truy
đòi và thường được
thanh
toán
một
lần
vào
thời
điậm

kết
hợp
đồng.
Trong

một số trường
hợp,
việc
thanh
toán
xảy
ra
vào
thời
điậm
hợp đồng đáo hạn
nếu người
bán muốn cấp
tín
dụng
cho người
mua.
Theo
đó, người
bán
sẽ
yêu
cầu người
mua
phải
trả
một
khoản
lãi cho
khoản

phí
quyền chọn
chậm
trả
này. Phí
quyền chọn
được xác định
dựa
trên nguyên
tắc:
nếu xác
suất
xảy càng cao và/hoặc
lãi
suất dự
tính
phát
sinh
từ
thực hiện
quyền chọn càng lớn
thì
phí quyển chọn càng cao.
Nguyên
tắc
này
chỉ
ra
những
yếu

tố
ảnh
hưởng
đến phí
quyền chọn
bao gồm:
(1)
Tỷ giá
giao
ngay: Tại
mỗi mức
tỷ
giá
giao
dịch,
nếu
tỷ
giá
giao
ngay
càng cao thì xác
suất
xảy
ra
việc
thực hiện
hợp đồng
quyền
chọn
mua càng

lớn
(vì
người
mua
quyền chọn

thậ
mua
theo
giá
hợp
đồng
thấp
hơn giá mua trên
thị trường),
phí
giao
dịch
quyền
chọn
mua càng
cao;
và ngược
lại
đối với
quyền chọn
bán.
(2)
Tỷ giá
quyền chọn:

Tại mỗi mức tỷ giá
giao
ngay,
nếu tỷ giá
quyền chọn
trong
hợp đồng
quyền chọn
mua càng cao thì xác
suất
thực hiện giao
dịch
càng
thấp,
do đó phí
quyền chọn
thấp.
(3)
Thời gian
đến
hạn:
Thời gian
đến hạn càng dài
thì khả
năng
tỷ
giá
trên
thị
trường

biến
động lên cao hơn mức
tỷ
giá
quyền chọn
trong
quyền chọn
mua càng
lòm,
do đó phí
quyền chọn
mua càng
cao.
18
(4)
Sự
biến
động của tỷ giá: Tỷ giá trên
thị
trường
biến
động càng
mạnh
thì
xác
suất
để
tỷ
giá
giao

ngay
vượt
qua
tỷ
giá
quyền chọn
tại
thời
điểm
hợp đồng đáo hạn càng
lớn,
do đó phí
quyền chọn
mua
càng
cao.
(5)
Lãi
suất
của đồng
tiền
yết
giá: Nếu hợp đồng
quyền chọn
mua
được
thực hiện
thì
người
giữ

hợp đồng sẽ
nhận
được một sẫ lượng
đồng
tiền
yết
giá
khi
hợp đồng đến
hạn,
do đó nếu mức lãi
suất
của
đồng
tiền
yết
giá tăng làm cho giá
trị hiện
tại
của đồng
tiền
này
giảm,
dẫn đến các hợp đồng
quyền chọn
mua
trở
nên kém hấp dẫn,
do
đó phí

quyền chọn
mua
giảm.
(6)
Lãi
suất
của đồng
tiền
định giá: Nếu hợp đồng
quyền chọn
mua
được
thực hiện
thì người
nắm
giữ
hợp đồng
sẽ
phía
chi ra
một lượng
đồng
tiền
định giá
khi
hợp đồng đáo
hạn,
do đó nếu mức lãi
suất
đồng

tiền
định giá tăng thì giá
trị
hiện
tại
của đồng
tiền
này
giảm,
dẫn
đến các hợp đồng
quyền chọn
mua
trở
nên hấp
dẫn,
do đó phí
quyền chọn
mua tăng lên.
Dưới
góc độ lý
thuyết,
giá
trị
của Ì
option
bao gồm 2 bộ
phận:
giá
trị

nội tại
hay giá
trị
thực
ựntrinsic value)
và giá
trị
thời
gian
hay giá
trị
ngoại
lai
{extrinsic value).
Giá
trị
nội
tại
của
hợp đồng
quyền chọn là
giá
trị
của
hợp đồng ờ
trạng
thái
"thực hiện"
(ITM
-

In the
money).
Nói cách
khác,
giá
trị
nội
tại

khoản
lãi có
thể
thu
được nếu
thực hiện
quyền chọn
ngay
lập
tức
tại
một
thời
điểm
nhất
định.
Như
vậy,
giá
trị
nội

tại
chính là chênh
lệch giữa
tỷ
giá
quyền chọn

tỷ
giá
hiện
hành trên
thị
trường.
-
Đẫi
với
hợp đồng
quyền chọn
mua
tiền tệ:
Giá
trị
nội
tại
= Tỷ giá
giao
ngay
- Tỷ giá
quyền chọn
(Intrinsic

value
=
Spot
price
-
Strike
price)
19
-
Đối
với
hợp đồng
quyền chọn
bán
tiền
tệ:
Giá
trị
nội
tại
= Tỷ giá
quyền chọn
- Tỷ giá
giao
ngay
(Intrinsic
value
=
Strike price
-

Spot
price)
Nếu:
- Giá
trị
nội
tại
>
0:
hợp đồng
quyền chọn

trạng
thái
"thực
hiện"
(In
the
money -
ITM).
- Giá
trị
nội
tại
<
0:
hợp đồng
quyền chọn

trạng

thái
"từ
bỏ" (Out
of
the
money - OTM).
- Giá
trị
nội
tại
= 0: hợp đồng
quyền chọn

trạng
thái
"ngang
giá
quyền chọn"
(Át
the
money - ATM).
Phí của hợp đông
quyển
chọn sẽ

một
so
không nhỏ hơn
giá
trị

nội
tại
của hợp đồng đế đảm bảo không xảy ra
hiện
tượng
arbitrage.
Do đó, họp
đồng
quyền chọn
có giá
trị
nội
tại
càng
lớn
thì
phí
quyền chọn
càng
lớn.
Giá
trị
ngoại
lai
của hợp đồng
quyền chọn
là giá
trị
còn
lại

của phí
quyền chọn sau
khi
trừ
đi
giá
trị
nội
tại.
Giá
trị
ngoại
lai
= Phí
quyền chọn
- Giá
trị
nội
tại
(Extrinsic
value
=
Option
premium
-
Intrinsic
value).
Nêu một hợp đồng
quyền chọn


trạng
thái ATM hay OTM sẽ không
có giá
trị
nội
tại
bởi
nếu
tại
thặi
điểm
đó mà
ngưặi
giữ
hợp đồng
quyền chọn
tiến
hành
thực
hiện
giao
dịch
thì không
thu
được
khoản
lãi
nào.
Do
đó,

hợp
đồng
quyền chọn

trạng
thái ATM
hoặc
OTM
thì
toàn bộ phí
quyền chọn

giá
trị
thặi
gian
của
hợp đồng.
Một
điểm
nữa,
trên
thị
trưặng
tồn
tại
hai
kiểu
họp đồng
quyền chọn:

quyền chọn
kiểu
Mỹ
(American
style)

quyền chọn
kiểu
châu Âu
(European
style).
Quyền
chọn
kiểu
Mỹ cho phép
thực
hiện
giao
dịch bất
cứ lúc nào vào
20

×