Bài thu hoạch đề tài: “Thực trạng hoạt động thị trường ngoại hối ở Việt
Nam”
Một số biện pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam
1. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái
Chính sách nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái hiện nay là đúng hướng,
tuy nhiên mức độ nới lỏng quá ít và lộ trình nới lỏng quá chậm chạp không
phù hợp với mức độ tự do hóa giao dịch tài khoản vốn. Vì vậy, cần nới lỏng
biên độ tỷ giá hối đoái. Với biên độ tương đối rộng vừa giảm sức ép lạm
phát, vừa giảm mức độ cần phải can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, đồng
thời tạo điều kiện cho thị trường tự điều chỉnh theo quan hệ cung cầu ngoại
tệ. Ví dụ, hiện nay thâm hụt thương mại đang rất lớn, vì vậy thị trường sẽ
điều chỉnh tỷ giá hối đoái tăng lên, tỷ giá hối đoái tăng có tác dụng làm giảm
thâm hụt thương mại; nhưng do biên độ hẹp và do can thiệp bán ra của Ngân
hàng Nhà nước, nên hiệu ứng điều chỉnh nói trên của thị trường không thể
đạt được, kết quả là thâm hụt thương mại có thể còn kéo dài
2. Thay thế chế độ tỷ giá gắn với USD bằng chế độ tỷ giá gắn với
một rổ tiền tệ
Theo đó tỷ giá hối đoái được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị
trường ngoại hối và xu hướng biến động của các đồng tiền chủ chốt có thể từ
1
3 đến 5 đồng tiền có tỷ trọng thương mại lớn nhất. Các đồng tiền này sẽ
tham gia vào rổ tiền tệ với trọng số theo quan hệ thương mại và đầu tư vào
VN. Các trọng số và đồng tiền được điều chỉnh tùy theo sự thay đổi của
thương mại và đầu tư và được giữ bí mật. Ví dụ, Singapore đang thực hiện
theo cách này với rổ tiền tệ gồm 3 đồng tiền nhưng họ giữ bí mật đồng tiền
nào và trọng số được tính trong rổ là bao nhiêu.
3.Một số chính sách khác
- Cần cho phép các ngân hàng thương mại (được phép kinh doanh
ngoại tệ) mua bán ngoại tệ hai chiều một cách bình thường với tất cả các nhu
cầu giao dịch (như đã thí điểm tại EXIMBANK). Trên cơ sở đó, cùng với
việc nới rộng biên độ tỷ giá hối đoái tạo ra thị trường hối đoái thông suốt,
liên tục bao gồm cả thị trường giao ngay, hoán đổi và kỳ hạn. Một thị trường
hối đoái với sự đa dạng của loại hình và công cụ giao dịch sẽ làm tăng khả
năng cân bằng cung cầu, hạn chế đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tạo ra niềm tin
đối với công chúng và nhà đầu tư về khả năng tiếp cận thị trường.
- Cần để lãi suất hình thành theo nguyên tắc thị trường đảm bảo cấu
trúc kỳ hạn và cấu trúc rủi ro của lãi suất. (Ở Mỹ hiện nay, lãi suất huy động
của các ngân hàng lớn từ 3,25 – 3,75%/năm; trong khi đó các ngân hàng
thương mại nhỏ huy động phổ biến từ 4,25% - 5%/năm. Các ngân hàng nhỏ
cho vay ra với lãi suất cao hơn các ngân hàng thương mại lớn, đối tượng cho
vay chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo phân khúc thị trường). Đây
là giải pháp then chốt nhằm thu hút vốn vào ngân hàng và cho vay hiệu quả
với rủi ro thấp (ngân hàng là một tổ chức tín dụng chuyên nghiệp). Tránh
2
tình trạng đầu cơ vào vàng và nguyên vật liệu nhập khẩu làm trầm trọng
thêm thâm hụt thương mại. Mặt khác, chỉ trên cơ sở lãi suất thị trường thì
tác động của nó đến tỷ giá hối đoái mới đồng thuận với mục tiêu thắt chặt
tiền tệ chống lạm phát.
- Giám sát và có biện pháp quản lý hữu hiệu đối với các khoản vay
ngắn hạn từ nước ngoài của các ngân hàng hoặc vay ngắn hạn của ngân hàng
có bảo lãnh từ ngân hàng, các khoản trái phiếu bằng ngoại tệ kể cả của chính
phủ. Các khoản vay ngắn hạn thường tăng lên rất nhanh gắn với tài trợ L/C
nhập khẩu. Đây là yếu tố làm cho cung cầu ngoại tệ biến động mạnh và bất
thường, gây khó khăn lớn cho việc điều hành tỷ giá hối đoái và lãi suất ngoại
tệ – cũng như nội tệ.
- Trong những năm tới, dự báo luồng vốn đầu tư nước ngoài vào VN
vẫn còn rất lớn. Trong điều kiện chưa thả nổi tỷ giá hối đoái thì việc mua
ngoại tệ vào và trung hòa tiền tệ vẫn phải tiếp tục thực hiện. Vì vậy, tình
trạng mua cao bán thấp vẫn còn là áp lực lớn đối với dòng tiền của Ngân
hàng Nhà nước. Ngoài các biện pháp đang áp dụng như: (1) Duy trì dự trữ
bắt buộc ở mức tương đối cao; (2) phát hành tín phiếu NHTW với lãi suất thị
trường; (3) nới rộng hơn nữa biên độ tỷ giá hối đoái, cần áp dụng thêm các
biện pháp khác.
3
- Ủy thác đầu tư với số lượng lớn ngoại tệ (hàng tỷ USD) cho một số
ngân hàng quốc tế lớn với mức lãi suất thỏa thuận, cao hơn lãi suất tiền gửi
thông thường.
- Một số nước như Trung Quốc, Ả Rập thành lập quỹ kinh doanh
chứng khoán quốc tế (Trung Quốc có quỹ 300 tỷ USD) từ ngoại tệ dự trữ
nhằm tạo ra thu nhập cao hơn so với lãi suất tiền gửi. Tuy nhiên đây là biện
pháp phức tạp đòi hỏi nhân lực có kỹ năng đầu tư quốc tế tốt.
- Biện pháp quản lý vốn vào. Trước mắt thị trường chứng khoán đang
giảm mạnh, do vậy việc quản lý vốn vào chưa cần thiết. Tuy nhiên, về lâu
dài cần nghiên cứu để áp dụng một số biện pháp quản lý vốn vào trong
những trường hợp cần thiết. Một số biện pháp đã áp dụng ở một số nước như
chính sách tỷ giá hối đoái kép (tỷ giá mua bán ngoại tệ để đầu tư chứng
khoán khác với tỷ giá thương mại); các biện pháp quản lý định lượng như
hạn mức mua ngoại tệ đối với đầu tu chứng khoán; dự trữ bắt buộc đối với
tiền đầu tư chứng khoán; phong tỏa tài sản lưu ký một năm; đánh thuế cân
bằng lãi suất (thuế chênh lệch lãi suất nội địa và quốc tế)… Tuy nhiên, các
biện pháp thuế như thuế giao dịch ngoại tệ kinh doanh chứng khoán; thuế lợi
tức kinh doanh chứng khoán và thuế cân bằng lãi suất tỏ ra có hiệu quả hơn
cả. Ở VN, kinh doanh chứng khoán trên tài khoản mở tại ngân hàng thương
mại, nên việc áp dụng chính sách thuế càng thuận lợi.
- Đối với doanh nghiệp
4
Tỷ giá hối đoái tăng có lợi cho các nhà xuất khẩu và hạn chế tình trạng
nhập siêu, đồng thời cũng có tác dụng giảm sức ép lạm phát. Tuy nhiên,
trong ngắn hạn sẽ gây ra một số khó khăn cho doanh nghiệp như các quyết
định đầu tư sẽ phải tính đến rủi ro hối đoái, đặc biệt các doanh nghiệp tham
gia xuất nhập khẩu. Vì vậy, để giảm thiểu những rủi ro này các doanh
nghiệp cần phối hợp với ngân hàng thương mại thực hiện các công cụ phái
sinh như hợp đồng forwad, futures, swaps. Cũng cần lưu ý rằng những biến
động tỷ giá hối đoái thường lớn hơn biến động về lãi suất vì vậy việc tiết
giảm chi phí phòng ngừa rủi ro hối đoái trong ngắn hạn là vô cùng quan
trọng.
Về dài hạn, các doanh nghiệp cần tập trung vào những tác động kinh tế
thực sự của việc biến đổi tiền tệ và cần thiết xây dựng một chiến lược quản
lý rủi ro hối đoái, cùng với các chiến lược như marketing, sản xuất và quản
lý tài chánh thích hợp để đối phó với những tác động kinh tế của việc biến
động tỉ giá hối đoái. Bởi vì, sự biến động tỉ giá hối đoái kéo theo sự thay đổi
giá bán sản phẩm làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty. Vì
vậy, ban điều hành cần điều chỉnh quá trình sản xuất, kế hoạch marketing
-mix để tạo ra tương quan giá mới để đảm bảo lợi nhuận lâu dài. Các công ty
có thể ngăn ngừa những rủi ro dựa vào thu chi ngoại tệ đã được dự trù trước,
nhưng ngược lại, những rủi ro cạnh tranh, - vấn đề này xuất phát từ sự cạnh
tranh với các công ty dựa vào loại tiền tệ khác- là lâu dài, khó để định lượng
và không thể giải quyết đơn thuần thông qua những kỹ thuật phòng ngừa
giản đơn.
5