Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

đánh giá thực trạng bất bình đẳng giới ở việt nam trong những năm gần đây (2009-2011). định hướng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.97 KB, 63 trang )

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2009-2011). ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP.
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài.
Trong thời gian gần đây vấn đề bình đẳng giới đang được cả cộng đồng quốc
tế đặc biệt quan tâm. Bởi vì thực trạng bất bình đẳng giới đã và đang diễn ra phổ biến,
đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế quá trình phát triển kinh tế-xã hội
của nhiều nước trên thế giới.
Bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân làm tăng đói nghèo, cản trở việc
chăm sóc sức khỏe dân cư, hạn chế các cơ hội làm tăng thu nhập và gây nên hàng loạt
tổn thất cho xã hội. Theo số liệu thống kê của Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFP),
dân số thế giới đã tăng lên rất nhiều. Trong đó, phụ nữ chiếm 51.8% dân số và 52%
lực lượng lao động. Tuy nhiên, sự mất bình đẳng nam-nữ trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng trong nhiều lĩnh vực vẫn đang là vấn đề nóng gây xôn xao dư
luận. Ở nước ta hiện nay, tuy bước vào thời đại mới nhưng những định kiến cũ như
“Trọng nam khinh nữ”, “Đàn bà chỉ cần ở nhà sinh con trai và lo việc bếp núc là đủ”,
… vẫn còn rất phổ biến. Cứ như thế người phụ nữ dần dần không còn khả năng thể
hiện năng lực của bản thân trong các hoạt động xã hội.
Do vậy, nhóm quyết định chọn đề tài về bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
Đây không phải là đề tài “mới mẻ” cũng không phải “ cũ kĩ” nhưng cũng không bao
giờ là vấn đề “lỗi thời” bởi đây là vấn đề mang tính bức xúc của nhiều người phụ nữ
và là vấn đề “nóng” của dư luận hiện nay. Chọn đề tài này, nhóm muốn một phần nào
đó đi sâu vào đánh giá thực trạng bất bình đẳng nam-nữ ở Việt Nam trong các lĩnh
vực, đồng thời cũng đề ra được những định hướng- giải pháp cần thiết để hạn chế hiện
tượng này. Vì vậy, đề tài nhóm quyết định nghiên cứu là “Đánh giá thực trạng bất
bình đẳng giới trong những năm gần đây. Định hướng và giải pháp.”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
1.2.1 Mục tiêu chung.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam. Đề ra định hướng
và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam góp
phần thúc đẩy tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, gia tăng việc làm,


tạo cơ hội để bình đẳng trong các lĩnh vưc cho cả nam và nữ.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể.
- Hệ thống lại cơ sở lý luận và thực tiễn về bình đẳng giới nhằm giải thích cho
tình trạng bất bình đẳng giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và đưa ra các nguyên nhân gây ra hiện tượng
bất bình đẳng giới để kịp thời có biện pháp khắc phục, hiểu rõ tình trạng bất
bình đẳng giới trong giai đoạn cần tìm hiểu.
- Đề xuất định hướng, giải pháp nhằm hạn chế tối đa tình trạng bất bình đẳng
giới trên địa bàn nghiên cứu.
1.3 Phương pháp nghiên cứu.
1.3.1 Phương pháp thu thập thông tin.
+ Các thông tin từ mạng internet và sách báo các thông tin về tình trạng bất bình
đẳng giới ở Việt Nam.
+ Các báo cáo của Tổng cục thống kê, dân số,
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan nhằm củng cố thêm kiến thức và tăng
thêm sự hiểu biết về tình tạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
+ Thu thập số liệu, thông tin từ các bài báo, đồ án,các Bộ Luật liên quan đến Luật
Bình đẳng giới đánh giá tình trạng bất bình đẳng của nam-nữ trong các lĩnh vực đời sống
kinh tế-xã hội.
1.3.2 Phương pháp xử lý số liệu.
Các số liệu sau khi thu thập được xử lý bằng phần mềm Ecxel.
1.3.3 Phương pháp phân tích số liệu.
1.3.3.1. Phương pháp thống kê mô tả và phương pháp so sánh
Đề tài dùng thống kê mô tả và thống kê so sánh để phân tích các tỷ lệ sinh, bất bình
đẳng của nam-nữ trong lao động, thu nhập, việc làm, cuộc sống,. Các chỉ tiêu được dùng
là các chỉ số tuyệt đối, số tương đối. Thống kê, so sánh lý thuyết với thực tiển để đưa ra
các chính sách, biện pháp phù hợp hạn chế tình trạng bất bình đẳng giới.
1.3.3.2. Phương pháp phân tích kinh tế.
Từ các số liệu thu thập được chúng em tiến hành phân tích và đánh giá để làm nổi
bật vấn đề: đánh giá tình hình thực trạng bất bình đẳng ở Việt Nam, từ đó đưa ra các kết

luận có căn cứ khoa học.
1.3.4 Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-LêNin
kết hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong
việc xây dựng và thi hành pháp luật bình đẳng giới.
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
1.4.1 Đối tượng nhiên cứu đề tài:
Hiện nay với sự phát triển và hòa nhập kinh tế thế giới, kinh tế Việt nam đã có những
bước tiến mới đời sống an sinh dần đi vào ổn định và được nâng cao nhưng tình trạng bất
bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn tồn tại trong xã hội Việt nam.
Có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học về vấn đề này và phương tiện thông tin đại chúng
cũng vậy nhưng bất bình đẳng vấn là một vấn đề mang tính bức xúc cao. Do đó, nhóm
quyết định đi sâu vào nghiên cứu thực trạng bất bình đẳng ở Việt Nam và đề xuất giải
pháp hạn chế hiện tượng này.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài:
-Phạm vi không gian: Thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
-Phạm vi thời gian: Nghiên cứu trong giai đoạn 2000-2011.
1.5 Kết cấu đề tài:
Chương I: Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Chương II: Thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2011.
Chương III: Định hướng và giải pháp.
PHẦN II: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm về giới, bình đẳng giới và bất bình đẳng giới.
1.1.1.1 Giới:
-Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ
vọng liên quan đến nam và nữ. Nó được coi là phạm trù xã hội có vai trò
quyết định đến cơ hội cuộc sống của con người, xác định vai trò của họ
trong xã hội và trong nền kinh tế. Giới chỉ khác biệt về xã hội và quan hệ về
quyền lực giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa phụ nữ và nam giới được hình

thành và khác nhau trong một nền văn hóa, giữa các nền văn hóa và thay
đổi theo thời gian. Sự khác biệt này được nhận thấy một cách rõ ràng trong
vui chơi, trách nhiệm, nhu cầu, khó khăn và thuận lợi của các giới tính.
1.1.1.2 Bình đẳng giới:
-Theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 6 Điều 5 của Luật bình đẳng giới thì:
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều
kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình so với sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và hưởng thụ như nhau về thành quả của sự phát triển
cộng đồng về thành quả của phát triển đó. Bình đẳng giới đề cập tới sự bình
đẳng về quyền, trách nhiệm và cơ hội của nam giới và nữ giới, trẻ em gái và
trẻ em trai.
-Theo Luật Bình đẳng giới, thì mọi người dù là nam giới hay là nữ giới, với
tư cách là các cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để
phát huy tiềm năng sẵn có của mình cũng như có quyền thụ hưởng bình
đẳng trong quá trình phát triển chung như:
+Tiếp cận và sử dụng các nguồn lưc (tài chính, đất đai, thời gian, cơ hội,…)
+Tham gia quyết định những vấn đề liên quan tới việc sử dụng nguồn lực.
+Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội….
+Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển.
1.1.1.3 Bất bình đẳng giới:
-Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều kiện và
cơ hội bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người đóng góp và
hưởng thụ từ sự phát triển của gia đình, của đất nước.
-Bất bình đẳng giới có nghĩa là: phụ nữ và nam giới không có sự công bằng về
quyền lợi, trách nhiệm, và không bình đẳng về tiếp cận cơ hội và ra quyết
định.
-Bất bình đẳng giới không có nghĩa là phụ nữ và nam giới phải như nhau, mà
là sự giống nhau và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới phải được công nhận
và đánh giá một cách bình đẳng.
1.1.2 Bất bình đẳng và các thước đo bất bình đẳng giới.

Bất bình đẳng giới được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau và được đo
bằng các chỉ tiêu khác nhau. Trong báo cáo phát triển con người của
chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đã đưa ra 3 chỉ số:
- Chỉ số bình đẳng giới (GII- Gender Inequality Index). Giá trị đo lường được
tính trong khoảng từ 0-1. GII càng tiệm cận điểm 0 thì mức độ bất bình đẳng
càng thấp, tức càng bình đẳng và càng tiệm cận điểm 1 thì mức độ bất bình
đẳng càng cao.
- Chỉ số phát triển giới (GDI). Chỉ số này phản ánh những thành tựu trong các
khía cạnh tương tự như HDI (Tuổi thọ bình quân, giáo dục, thu nhập) nhưng
lại điều chỉnh các kết quả đó theo bất bình đẳng giới. Trong mỗi nước, nếu giá
trị của GDI càng gần với HDI thì sự khác biệt theo giới tính càng ít.
- Thước đo vị thế giới (GEM). Thước đo này tập trung xem xét cơ hội của phụ
nữ chứ không phải là khả năng (năng lực) của họ. Nó chỉ ra sự bất bình đẳng
giới ở 3 khía cạnh.
+ Tham gia hoạt động chính trị và có quyền quyết định- được đo bằng tỷ lệ có
ghế trong quốc hội của phụ nữ và nam giới.
+ Tham gia hoạt động kinh tế và có quyền quyết định- được đo bằng tỷ lệ các
vị trí lãnh đạo, quản lý do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm và tỷ lệ các vị trí
trong ngành kỹ thuật, chuyên gia do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm.
Các nghiên cứu của UNDP về GDI và GEM của các nước đã chỉ ra rằng:
- Sự bình đẳng về giới cao hơn trong phát triển con người không phụ thuộc vào
mức thu nhập hay giai đoạn phát triển.
- Thu nhập cao không phải là điều kiện tiên quyết để tạo ra các cơ hội cho phụ
nữ.
- Trong những thập niên qua, tuy đã có những tiến bộ vượt bậc về sự bất bình
đẳng giới nhưng sự phân biệt giới vẫn phổ biến trong mọi mặt cuộc sống ở
nước ta và các nước trên thế giới.
1.1.3 Các đặc điểm của bình đẳng giới:
- Tính ngang quyền: Để đạt được bình đẳng giới, phụ nữ cần được tạo điều kiện
và cơ hội ngang bằng nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Tính ưu đãi: Do đặc điểm sinh học và khả năng sinh sản của phụ nữ có sự
khác biệt, để đạt được bình đẳng giới cần có sự đối xử ưu đãi, khuyến khích
đặc biệt và hợp lý đối với phụ nữ.
- Tính linh hoạt: Sự đối xử ưu đãi với phụ nữ cần được điều chỉnh linh hoạt
trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, không mang tính bất biến. Tuy nhiên,
khoa học kỹ thuật phát triển, điều kiện lao động được cải thiện, cần có sự điều
chỉnh cho phù hợp nhằm loại bỏ một số quy định cấm bất hợp lý đối với phụ
nữ cải thiện điều kiện việc làm cho phụ nữ.
- Tính phân loại: Bình đẳng giới không chỉ được xem xét vị thế của phụ nữ và
nam giới trong xã hội mà còn được xem xét giữa các tầng lớp phụ nữ thuộc
các thành phần xã hội khác nhau, trong phạm vi quốc gia và trên thế giới.
Vây, bình đẳng giới cần được hiểu dưới các khía cạnh:
Thứ nhất, bình đẳng giới không chỉ có ý nghĩa cơ học là số lượng của phụ nữ
và nam giới tham gia trong tất cả các hoạt động là như nhau. Bình đẳng giới
còn có nghĩa là nam và nữ giới được công nhận và được hưởng các vị thế
ngang nhau trong xã hội.
Thứ hai, bình đẳng giới không có nghĩa là nhìn nhận nam giới và nữ giới
giống y hệt nhau mà giữa chúng chỉ có sự tương đồng và nhiều điễm khác biệt
tự nhiên.
1.2 Cơ sở thực tiễn.
1.2.1 Bất bình đẳng giới trên thế giới.
Bất bình đẳng không bao giờ là vấn đề lỗi thời, cũng không bao giờ là vấn
đề cũ bởi nó luôn chứa đựng nhiều bất xúc của dư luận. Có thể nói: “Không
ở nơi nào mà phụ nữ và nam giới lại có quyền bình đẳng về kinh tế, xã hội
và pháp luật” kể cả các nước phát triển. Sự không tương xứng về quyền
giữa nam và nữ diễn ra khá phổ biến trong các quy định pháp luật, luật tục,
thực tiễn của cộng đồng và gia đình. Ở Botswana, Chilê, Namibia và
Swaziland, phụ nữ chịu sự cai quản vĩnh viễn của người chồng và không có
quyền quản lý tài sản. Ở một số nước Châu Phi, phụ nữ có chồng không
được sỡ hữu đất đai, người đàn ông có quyền đòi hỏi vợ phải đóng góp sức

lao động nhưng người vợ lại không có quyền đó đối với chồng mình. Ở
Bôlivia, Goatemala và Siry, đàn ông có thể cấm vợ mình làm việc ở bên
ngoài. Ở Ai Cập và Giócđani, phụ nữ phải được chồng cho phép nếu muốn
đi đây đi đó. Ở một số nước Arập, phải có sự đồng ý của người chồng thì
người vợ mới xin được hộ chiếu nhưng ngược lại thì không. Ngay cả những
nước phụ nữ được hưởng quyền bình đẳng về chính trị và pháp luật như đã
quy định trong hiến pháp thì người phụ nưc cũng không được hưởng quyền
đó một cách trọn vẹn. Ở một số vùng như Đông Á và Thái Bình Dương,
châu Mỹ Latinh và vùng Caribê, châu Âu và Trung Á, tỷ lệ tiểu học của các
bé gái đạt 100% hoặc gần 100%, tỷ lệ nữ sinh trung học bình quân hiện nay
đã cao hơn nam giới và xét trung bình, số năm đi học của phụ nữ đã bằng
khoảng 90% của nam giới. Về tài sản, ở Bangladesh, tài sản của người đàn
ông khi lấy vợ trung bình trị giá khoảng 82.000 taka, còn phụ nữ chỉ có
6.500 taka. Ở Etiopia, tổng tài sản kể cả đất đai và vật nuôi mà người đàn
ông mang theo khi lấy vợ trung bình giá trị 4.200 birr và người phụ nữ thì
chưa đến 1.000 birr. Điều này làm người phụ nữ trên thế giới dần không có
địa vị kinh tế trong gia đình và kèm theo đó là chịu sự tác động của người
đàn ông. Ở các nước đang phát triển, việc đứng tên và làm chủ đất đai phần
lớn thuộc về nam giới. Tại nhiều nơi ở han Sahara, phụ nữ chỉ có quyền đất
đai thông qua hôn nhân và chỉ được đảm bảo khi hôn nhân còn tồn tại và
khi ly hôn thì quyền sở hữu chấm dứt. Ở Nigeria, các nông trại mà người
phụ nữ được làm chủ chỉ bằng 1/3 diện tích mà nam giới làm chủ (0.8 ha và
2.4 ha). Ở các nông trại và doanh nghiệp nếu người phụ nữ điều hành và
làm chủ vốn được đầu tư thường rất ít. Ở Kenya, các hộ gia đình do phụ nữ
làm chủ hộ sở hữu chưa bằng một nữa số nông cụ mà các hộ gia đình do
nam giới làm chủ hộ sở hữu, 92% phụ nữ sử dụng phương pháp canh tác
thủ công, 32% nam giới sử dụng kỹ thuật cơ giới và gia súc kéo. Ở Malauy,
phân bón mà nữ sở hữu chỉ bằng một nữa của nam. Về việc làm, ở các nước
phát triển hay đang phát triển, phụ nữ thường hiện diện trong các ngành
nghề lĩnh vực dịch vụ, văn phòng, bán hàng còn nam giới xuất hiện trong

các lĩnh vực sản xuất, các vị trí hành chính và quản lý được trả lương cao.
Mức thù lao phụ nữ nhận được thường thấp hơn nam giới. Chênh lệc thu
nhập theo thống kê mới nhất năm 2011 thu nhập hai giới phổ biến trong
khoảng 0.6-0.75. Trong số các nước phát triển, tỷ lệ thu nhập của nữ so với
nam biến thiên từ 43% ở Nhật Bản (1993-1994) đến 87% ở Đan Mạch
(1995). Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ đó thay đổi từ 43% ở Nicagagoa
(1991) đến 90% ở Thái Lan (1989) và 101% ở Chi Lê (1996). Với những
đặc điểm điều kiện khác nhau thì ở Hàn Quốc mức lương phụ nữ bằng 51%
mức lương nam giới. Về mặt chính trị, do địa vị kinh tế-xã hội của người
phụ nữ yếu kém hơn nam giới đã hạn chế sự tham gia của người phụ nữ vào
các lĩnh vực chính trị với tư cách là những đại biểu tích cực. Cụ thể năm
2011 trên thế giới phụ nữ trong cơ quan lập pháp phổ biến trong khoảng từ
10-20%, tập trung chủ yếu ở Châu Âu, châu Mỹ và Châu Á còn Châu Phi-
khu vực có nền kinh tế kém phát triển thì tể lệ này rất thấp, phổ biến từ 0-
10%. Ở Đông Á, tỷ lệ trung bình số ghế trong Quốc hội do phụ nữ nắm giữ
là gần 20%. Ở Châu Âu và Trung Á, tỷ lệ này giảm nhanh chóng từ 25%
xuống 7% trong những năm gần đây. Sỡ dĩ như vậy vì ở Đông Âu bãi bỏ
quy định 25-33% số ghế trong Quốc hội cho phụ nữ và ở một số khu vực tỷ
lệ này không quá 10%.
Như vậy, ở thế giới tình trạng bất bình đẳng vẫn còn tồn tại trong nhiều
lĩnh vực. Điều này dẫn đến nhiều hạn chế đối với người phụ nữ trong tất cả
các lĩnh vực để thể hiện khả năng của mình.
1.2.2 Bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
Ở Việt Nam vấn đề bất bình đẳng diễn ra vẫn còn khá nhiều song nước ta đã có
nhiều biện pháp kịp thời giúp đẩy nhanh quá trình bình đẳng giới và đạt được nhiều thành
công.
Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” do UNDP công bố mới đây cho thấy,
Việt Nam xếp thứ 128 trên 187 quốc gia và vùng lãnh thổ về chỉ số phát triển con người
(HDI-Human Development Index) nhưng lại xếp thứ 48 trên thế giới về chỉ số bất bình
đẳng giới. So với các nước trong khu vực ASEAN, Việt Nam xếp thứ 7/11 nếu xét về chỉ

số HDI, nhưng nếu xét về chỉ số GII, Việt Nam lại đứng thứ 3, sau Singapore và
Malaysia. Như vậy, mặc dù chỉ số phát triển con người của Việt Nam vẫn còn hạn chế
nhưng mức độ bình đẳng giới của Việt Nam luôn thuộc những nước hàng đầu khu vực.
Theo Tổ chức Liên minh Nghị viện thế giới (Inter-Parliamentary Union) tỷ lệ phụ
nữ trong cơ quan lập pháp của Việt Nam là 25,8% đứng thứ 40 trong tổng số 188 nước
trên thế giới (số liệu tính đến ngày 30/11/2011 trên cơ sở báo cáo của cơ quan lập pháp
các nước). Không chỉ chiếm tỷ lệ cao trong cơ quan lập pháp, phụ nữ Việt Nam còn tham
gia, nắm giữ những vị trí quan trọng và đóng góp tích cực trong các cơ quan hành pháp,
tư pháp, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề
nghiệp…
Ở Việt Nam phụ nữ cũng có một tổ chức chính trị riêng của mình đó là Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam (thành lập ngày 20/10/1930) hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển
của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ.
Bình đẳng giới trong các lĩnh vực xã hội:
Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” của UNDP, trình độ học vấn của phụ
nữ Việt Nam (từ 25 tuổi trở lên) đã hoàn thành chương trình giáo dục cấp 2 trở lên là
24,7% so với 28% là của nam giới. Mức độ chênh lệch giữa nam và nữ còn khá nhiều
nhưng vẫn có thể giải quyết được.
Theo Kết quả chủ yếu của Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của Tổng cục Thống
kê (TCTK) thì tỷ lệ biết chữ của nam giới là 96,2% và của nữ giới là 92,2% (từ 15 tuổi trở
lên). Trang Wikipedia dẫn nguồn từ website Quốc hội thì tại Việt Nam, cứ 100 cử nhân
có 36 nữ, 100 thạc sĩ có 34 nữ, 100 tiến sĩ có 24 nữ. Như vậy trong các lĩnh vực xã hội
tình trạng bất bình đẳng diễn ra đã thấp hơn rất nhiều so với các năm trước đó.
Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 của TCTK thì tỷ lệ nữ tham gia lao
động là 46,6% trong tổng số lao động. Như vậy, tỷ lệ nữ Việt Nam tham gia lao động vẫn
thấp hơn so với nam giới nhưng không đáng kể.
Ở Việt Nam có trên 20% tổng số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, chủ yếu thuộc
về khu vực thương mại, dịch vụ, sản xuất, chế biến nông sản, thủy sản. Nhiều tấm gương
phụ nữ trẻ làm kinh tế giỏi không những chỉ làm giàu cho bản thân mà còn đóng góp
được nhiều cho xã hội.

Theo UNDP thì tại Việt Nam nếu nam giới kiếm được 1$ thì nữ giới sẽ kiếm được
0,69$ (số liệu năm 2007). Khi phụ nữ có việc làm, họ sẽ có thu nhập và mang đến sự tự
chủ về kinh tế, sự chia sẻ các quyết định trong gia đình và các cơ hội bình đẳng hơn đối
với phụ nữ.
Có thể thấy ở Việt Nam tình trạng bất bình đẳng đang dần được cải thiện khá nhiều
nhưng trong một số lĩnh vực thì tình trạng bất bình đẳng vẫn còn như trong cân bằng cuộc
sống gia đình,… vì vậy nhà nước, các cơ quan ban ngành có chức năng cần phải đưa ra và
thực hiện tốt hơn nữa các chính sách và biện pháp giúp cải thiện vấn đề bất bình đẳng vẫn
đang còn tồn tại ở Việt Nam.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2009-2011.
2.1 Tổng quan tình hình dân số ở Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, phía bắc giáp nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, phía tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Vương
quốc Cam-pu-chia, phía đông và nam giáp Biển Đông. Việt Nam có hơn 85 triệu người
thuộc 54 nhóm dân tộc khác nhau. Ở nước ta, nếu năm 1975, tổng dân số xấp xỉ 47 triệu
người thì đến năm 2011 dân số trung bình cả nước ước tính 87,84 triệu người, tăng 1,04%
so với năm 2010, bao gồm: Dân số nam 43,47 triệu người, chiếm 49,5% tổng dân số cả
nước, tăng 1,1%; dân số nữ 44,37 triệu người, chiếm 50,5%, tăng 0,99. Theo báo cáo
Tình hình Dân số Thế giới 2010 của Liên Hiệp Quốc, dân số Việt Nam hiện là 89 triệu
người và sẽ tăng lên 111,7 triệu người vào năm 2050. Việt Nam hiện đứng thứ 14 trong số
những nước đông dân nhất thế giới
Tuy nhiên có một hiện tượng nhân khẩu học gần đây thu hút sự quan tâm của các nhà
hoạch định chính sách, các chuyên gia nghiên cứu và cả xã hội là hiện tượng mất cân
bằng giới khi sinh, đã và đang diễn ra ở Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ 21. Tỷ số
giới tính khi sinh(TSGTKS), được tính bằng số trẻ em trai sinh ra trên 100 trẻ em gái đã
tăng lên trong những năm qua, cho thấy một sự can thiệp cố ý làm thay đổi tỷ lệ cân bằng
tự nhiên giữa số lượng trẻ em trai và trẻ em gái sinh ra trong xã hội. TSGTKS bình
thường dao động trong khoảng từ 103-106. Qua 3 cuộc Tổng điều tra Dân số trước đây,
TSGTKS đã tăng từ 105 (1979) lên 106 (1989) lên 107 (1999) nhưng từ năm 2006 đến

nay, TSGTKS tăng cao và nhanh liên tục, từ 110 (2006) lên 111 (2007) và 112 (2008) đến
2012 chỉ số này ở mức 112,3.Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng
nghiêm trọng. Các chuyên gia quốc tế đã nhận xét, TSGTKS tăng ở những nước có nền
văn hóa tương đồng (ưa thích sinh con trai hơn con gái) như Việt Nam nhưng chưa có
nước nào lại có tốc độ gia tăng nhanh như ở nước ta. Nếu không có giải pháp tích cực sự
mất cân bằng giới tính này sẽ để lại những hệ lụy nặng nề, gây khó khăn trong việc xây
dựng gia đình của các thế hệ tương lai và tác động xấu đến trật tự an ninh xã hội.Đây là
vấn đề xã hội được đặc biệt quan tâm.
2.2 Những quy định của pháp luật liên quan đến bất bình đẳng ở nước ta hiện nay
Bình đẳng giới và quyền phụ nữ là quyền hiến định.Nguyên tắc bình đẳng đã được khẳng
định ngay trong Hiến pháp Việt Nam năm 1946 “tất cả các công dân Việt Nam đều ngang
quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá”(1) và “đàn bà ngang quyền với đàn
ông về mọi phương diện”(2) và được tái khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 “công
dân nam nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá và gia đình.
Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm người phụ
nữ”(3)
Nội dung bình đẳng giới cũng được quy định trong các Luật và Bộ luật điều chỉnh cáclĩnh
vực của đời sống xã hội. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 quy định “công dân
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời gian cư trú, đủ mười tám tuổi trở
lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đề có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội”(4)
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 còn quy định
rõ “số đại biểu Quốc hội là phụ nữ do Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề
nghị của Đoàn Chủ tịch Ban chấp hành trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bảo
đảm để phụ nữ có số đại biểu thích đáng”(5)
Trong lĩnh vực y tế, theo Luật Bảo vệ sức khỏe khỏe nhân dân năm 1989, “công dân có
quyền được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải trí, rèn luyện thân thể; được bảo đảm vệ sinh
trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường sống và được phục vụ về chuyên
môn y tế”(6) và một trong những nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh theo
Luật Khám, chữa bệnh là “bình đẳng, công bằng và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với

người bệnh”(7)
Về giáo dục, “mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ,
nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập”(8)
Một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được quy định rõ
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là “vợ chồng bình đẳng”(9)
Trong lĩnh vực lao động, Bộ luật Lao động quy định “mọi người đều có quyền làm việc,
tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp,
không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo”(10)
Bộ luật Lao động còn có một chương dành riêng cho lao động nữ nhằm bảo vệ sức khỏe
sinh sản của họtrong khi làm việc. Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm
2006 đánh dấu bước phát triển về thể chế và hệ thống hóa trách nhiệm của Nhà nước
Việt Nam bằng việc tăng cường bình đẳng giới trong đời sống cá nhân và xã hội. Dưới
đây là những nội dung cơ bản của Luật Bình đẳng giới năm 2006 và các văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật này. Những nội dung chi tiết sẽ được trình bày
trong những phần tiếp theo của Tài liệu.
a) Luật Bình đẳng giới
Luật Bình đẳng giới quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới và được áp dụng đối với cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp,
đơn vị vũ trang nhân dân, gia đình và công dân Việt Nam; cũng như cơ quan, tổ chức
nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cá nhân nước ngoài cư trú
hợp pháp tại Việt Nam.
Luật Bình đẳng giới có 6 Chương với 44 Điều , cụ thể như sau:
Chương I gồm 10 Điều (từ Điều 1 đến Điều 10) về những quy định chung, gồm phạm
vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng
giới, nội dung và cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới và các hành vi bị nghiêm

cấm
Chương II gồm 8 Điều (từ Điều 11 đến Điều 18) về bình đảng giới trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội và gia đình, gồm: chính trị; kinh tế; lao động ; giáo dục và đào tạo; khoa
học và công nghệ; văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao; y tế và gia đình.
Chương III gồm 6 Điều (từ Điều 19 đến Điều 24) về các biện pháp bảo đảm bình đẳng
giới, gồm các biện pháp thúc đẩy ình đẳng giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình
đẳng giới và nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới.
Chương IV gồm 10 Điều (từ Điều 25 đến Điều 34) về trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức,gia đình và cá nhân trong việc thực hiện và đảm bảo bình đẳng giới.
Chương V gồm 8 Điều (từ Điều 35 đến Điều 42) về thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm
pháp luật về bình đẳng giới.
Chương VI gồm 2 Điều (Điều 43 và Điều 44) về điều khoản thi hành, gồm: hiệu lực và
hướng dẫn thi hành.
Luật Bình đẳng giới năm 2006 đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới(11)bao
gồm:
- Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
- Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới.
- Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
- Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
- Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật.
- Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân.
Luật Bình đẳng giới năm 2006 cũng xác định những điểm cốt yếu trong chính sách của
Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới, bao gồm:
- Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia
đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham
gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.
- Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện đểnam,
nữ chia sẻ công việc gia đình.
- Áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trởthực

hiện mục tiêu bình đẳng giới.
- Khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình
đẳng giới.
- Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần
thiếtđể nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số
phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
b) Các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới
Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2008 của Chính phủ qui định chi tiết
thi hành một số Điều của Luật Bình đẳng giới về trách nhiệm quản lý nhà nước về bình
đẳng giới và phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới với 4 Chương, 18
Điều.
Nghị định số 48/2009/ NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ về các biện
pháp bảo đảm bình đẳng giớ với 6 Chương, 23 Điều.
Nghị định số 55/2009/ NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ qui định xửphạt
vi phạm hành chính về bình đẳng giới với 5 Chương, 29 Điều.
c) Các văn bản, chiến lược, chính sách khác liên quan đến Bình đẳng giới
Chương trình hành động của chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số
11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 57/NQ-
CP ngày 01 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ) với mục tiêu nâng cao nhận thức, trách
nhiệm và hiệu quả quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa
phương đối với công tác phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới nhằm phấn đấu đến năm 2020,
phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm,
được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều
hơn vào công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho
xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng
giới tiến bộ nhất của khu vực.
Chiến lược quốc qia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 (được phê duyệt tại Quyết

định số 2351/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ) với Mục
tiêu tổng quát là đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và
nữvề cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước và các mục tiêu cụ thể,
gồm:
Mục tiêu 1: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo,nhằm
từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị;
Mục tiêu 2: Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường
sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các
nguồn lực kinh tế, thị trường lao động;
Mục tiêu 3: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia
bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo;
Mục tiêu 4: Bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe;
Mục tiêu 5: Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin;
Mục tiêu 6: Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực
trên cơ sở giới
Mục tiêu 7: Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng
(1) Điều 6 Hiến pháp 1946
(2) Điều 9 Hiến pháp 1946
(3) Điều 63 Hiến pháp 1992
(4) Điều 2
(5) Điều 10
(6) Điều 1
(7) Điều 3
(8) Điều 10 Luật Giáo dục 2005
(9) Điều 2
(10) Điều 5
(11)Điều 6 Luật Bình đẳng giới
2.3 Đánh giá tình hình chung về bất bình đẳng giới (BBĐG) của Việt Nam giai đoạn

2009-2011
Theo số liệu thống kê của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFP), dân số thế giới đã lên đến
hơn 6,7 tỉ người (năm 2009). Mỗi ngày có hơn 70.000 nữ thanh thiếu niên kết hôn và
khoảng 40.000 phụ nữ sinh con. Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê năm 2009, dân số đã
lên tới hơn 85 triệu người, tăng 9,6 triệu so với 10 năm trước đó. Trong đó phụ nữ chiếm
51,8% dân số và 52% lực lượng lao động. Tuy nhiên, sự mất bình đẳng nam - nữ trên thế
giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng trong nhiều lĩnh vực vẫn đang là thực tế. Ở nước
ta hiện nay, tuy đã bước vào một thời đại mới, bước vào một kỷ nguyên mới, nhưng hiện
tượng phụ nữ bị đánh đập, bị lạm dụng vẫn đang diễn ra khá phổ biến. Vấn đề bất bình
đẳng giới cũng như vấn đề giải phóng phụ nữ được nhà nước ta, các ban ngành và toàn xã
hội quan tâm sâu sắc. Đây không phải là một vấn đề còn mới mẻ, nhưng cũng không phải
là vấn đề cũ kỹ và có lẽ sẽ không bao giờ là một vấn đề bị coi là “lỗi thời”.
Khoảng cách giới vẫn còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực quan trọng như: chính trị,
kinh tế, lao động và việc làm, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, gia đình. Phụ nữ vẫn là
đối tượng chịu nhiều thiệt thòi hơn so với nam giới. Định kiến giới, tư tưởng “trọng nam
coi thường nữ” vẫn còn tồn tại, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng
xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính gây nên
tình trạng bất bình đẳng giới nói chung và đặc biệt là mất cân bằng giới tính khi sinh ở
Việt Nam. Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ vẫn diễn ra khá phổ biến.v.v.
Kết quả phân tích số liệu Tổng điều tra 2009 đã chỉ ra rằng tỷ số giới tính khi sinh ở Việt
Nam đã tăng tới mức 110,6 trẻ em trai trên 100 trẻ em gái vào năm 2009, cao hơn đáng kể
so với chuẩn sinh học bình thường dao động trong khoảng 104-106 trẻ em trai cho 100 trẻ
em gái.
Từ năm 2011, dấu hiệu gia tăng tỷ lệ sinh con trai từ số liệu các cuộc điều tra dân số hàng
năm của Tổng cục Thống kê (TCTK)vẫn không hề giảm. Tỷ số khi sinh có thể coi là một
trong các chỉ số để đo vị thế của phụ nữ ở khía cạnh bất bình đẳng giới, tỷ số này càng
cao càng rõ ràng nhận thấy đây là hậu quả của tư tưởng thích con trai hơn con gái và phá
thai có sự lựa chọn giới tính. Bất kể một sự thay đổi đáng kể nào của tỷ suất này chênh
lệch khỏi mức sinh học bình thường điều này phản ánh những can thiệp có chủ đích ở các
mức độ khác nhau đến sự mất cân bằng tự nhiên. Ở Việt Nam tỷ số giới tính khi sinh tăng

rất nhanh trong giai đoạn 2009-2011
Theo đánh giá của các chuyên gia vào năm 2009 thì Việt Nam cũng có rất nhiều khả năng
đạt được mục tiêu xóa bỏ khoảng cách về giới ở bậc giáo dục tiểu học và trung học. Tuy
nhiên, sân chơi vẫn chưa bằng phẳng, phụ nữ Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với những
thách thức và trở ngại.Tỷ lệ tham gia của phụ nữ ở một số ngành, nghề quá cao, nhưng ở
một số ngành nghề khác lại quá thấp.Nam giới được hưởng lợi nhiều hơn từ những công
việc đi kèm với quyền lực và quyền gia quyết định.Ngoài ra, vấn đề bạo lực gia đình và
tình dục vẫn phổ biến.Theo Liên Hiệp Quốc năm 2011 ít nhất cứ ba phụ nữ thì có một
người có thể bị đánh, bị ép quan hệ tình dục hoặc làm nhục trong đời. Tỉ lệ phá thai thuộc
hàng cao nhất thế giới – trung bình một phụ nữ Việt Nam có 3.32 lần phá thai trong đời.
Người ta thấy có vết nứt kinh tế và xã hội phân rẽ người phụ nữ nông thôn với người
thành thị, trong khi nạn mãi dâm và buôn người vẫn là “tệ nạn xã hội” chưa giải quyết.
Những bất cập này dường như cho thấy rằng các quan niệm phương Tây về bình đẳng
giới – được định nghĩa bởi những mô hình phát triển và được thực hiện bởi một chính phủ
quyết tâm gia nhập thế giới công nghiệp hóa – thật xa lạ trước hiện thực xã hội của người
phụ nữ Việt Nam.
2.4 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới
2.4.1 Tư tưởng định kiến
Trọng nam khinh nữ là một tư tưởng trong đó coi nam giới là quan trọng hơn phụ nữ, tồn
tại ở nhiều nơi trên thế giới. Mặc dù hiện nay quyền phụ nữ được công nhận nhưng tư
tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn ở một số nước, đặc biệt là gắn liền với tư tưởng tôn
giáo và biểu hiện dưới nhiều cấp độ khác nhau. Học thuyết Nho giáo chi phối mội thời
gian dài trong đời sống tinh thần của người Việt Nam là làm sao phải có con trai để nối
dõi dòng tộc, áp lực về con nối dõi cứ truyền từ đời này qua đời khác dần dần ngấm vào
tâm khảm của nhiều người và cứ thế tư tưởng trọng nam khinh nữ ngày càng có chiều
hướng gia tăng.
Tư tưởng trọng nam khinh nữ ở nước ta dược lý giải dựa trên ảnh hưởng của tư tưởng
Nho giáo và nhận thức của người dân về thực tiễn cuộc sống: người đàn ông có trách
nhiệm nối dõi dòng họ, sẽ trông nom chăm sóc mồ mã tổ tiên, không có con trai là một
điều bất kính với tổ tiên dòng họ. Nam giới là nguồn lao động chính,kế thừa tài sản của

gia đình và có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ lúc về nhà. Khi hệ thống phúc lợi xã hội đối
với người già còn chưa phát triển, nhất là tại các vùng nông thôn, mà dân số Việt Nam
hầu hết sinh sống tại các vùng nông thôn, con cái chăm sóc cha mẹ lúc về già vẫn là hết
sức quan trọng.Người già đa phần vẫn phải dựa vào gia đình.Những suy nghĩ,cách hành
xử,sự dạy dỗ có liên quan đến phân biệt,định kiến giới của ông, bà, cha, mẹ, anh, chị
chính là những yếu tố ảnh hưởng lớn tới việc hình thành quan niệm về giới của mỗi thành
viên trong gia đình. Do đó nếu trong gia đình có những định kiến giới thì những định kiến
này sẽ được lặp lại ở các thế hệ tiếp theo.Mặt khác chúng ta đã duy trì được mức sinh
thấp kéo dài liên tục trong nhiều năm. Những từ đó cũng xuất hiện mâu thuẫn, các gia
đình muốn chỉ có 1-2 con thì trong đó phải có con trai. Vì thế mới có chuyện cố tình đẻ
con trai cho bằng được. Nhưng nguyên nhân trực tiếp là mong muốn có con trai của các
gia đình.
Ngoài ra phụ nữ số đen, số xấu, đem lại không may cho người khác như “ra ngõ gặp gái”.
Họ còn được coi là người có giá trị thấp “Một trăm con gái không bằng một cái… con
trai”, “đàn ông miệng rộng thì sang,đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà”… Trong
những hoàn cảnh như vậy người phụ nữ sẽ không đủ tự tin để vươn lên như nam giới và
sự cam chịu của người phụ nữ càng là điều dễ hiểu.
2.4.2 Tính chất công việc
Nguyên nhân quan trọng nhất cản trở phân chia bình đẳng công việc trong gia đình ở Việt
Nam là quan niệm xã hội: “Công việc nội trợ là thiên chức của Phụ nữ”. Không những
thế,xã hội còn đánh giá thấp ý nghĩa của các công việc gia đình làm cho nam giới thiếu
động lực trong việc chia sẽ công việc gia đình với phụ nữ.Vấn đề giải phóng phụ nữ trong
gia đình chưa được đặt một cách tương xứng với yêu cầu đổi mới kinh tế, xã hội, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn. Phụ nữ phải phụ thuộc, yếu đuối, thụ động, nam giới là độc
lập, mạnh mẽ có năng lực và là người ra quyết định. Chồng có quyền dạy vợ, vợ phải
nghe theo chồng. Nam là trụ cột trong gia đình, có quyền quyết định những việc lớn quan
trọng trong gia đình, nữ có trách nhiệm nuôi dạy con cái, nội trợ trong nhà. Nam giỏi việc
xã hội,nữ phải giỏi việc nhà.
Do đặc tính của công việc một số ngành nghề đòi hỏi phải có sức khỏe như việc đánh bắt
cá ngoài khơi,các nghành công nghiệp nặng,khai thác khoáng sản,xây dựng…ngược lại có

những ngành lao động nữ cao hơn nam giới. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, lao động
nữ gần như cân bằng với nam giới (chiếm 48,6% tổng số lao động). Nhiều ngành đã có tỷ
lệ nam - nữ khá cân bằng. Những ngành có tỷ lệ phụ nữ làm việc cao là: Hoạt động làm
thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu
dùng của hộ gia đình (87,8%), Giáo dục và đào tạo (68,8%), Dịch vụ lưu trú và ăn uống
(68,2%). Một số ngành có tỷ lệ lao động nữ thấp là: Vận tải kho bãi (9,2%), Xây dựng
(11,0%), Sản xuất và phân phối điện, khí đốt (17,6%).
(Nguồn biểu 2.5 tỷ trọng lao động có việc làm từ 15 tuổi trở lên theo giới tính và ngành
nghề kinh tế, 1/9/2009.)
2.4.3 Nhận thức xã hội
Nguyên nhân căn bản dẫn tới hiện tượng bất bình đẳng giới là nhận thức xã hội về vấn đề
này chưa thấu đáo, đặc biệt là nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức, lãnh đạo,
quản lý và nhân dân. Mặt nhận thức của nhân dân còn hạn chế, công tác tuyên truyền bình
đẳng giới còn nhiều hạn chế, chưa thiết thực, chưa phù hợp và chưa đi sát vào dân, nên
hiệu quả nâng cao nhận thức của nhân dân còn hạn chế. Mặt khác, trong Báo cáo về mất
cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam qua các bằng chứng từ Tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2009, trình độ học vấn của người mẹ quan hệ tương hổ chặt chẽ với tỷ số giới tính
khi sinh,người phụ nữ càng có học thức cao thì càng có khả năng và điều kiện lựa chọn
sinh con trai. Cụ thể, nhóm các bà mẹ có trình độ tiểu học và thấp hơn có tỷ lệ đẻ con trai
là 107/100(số nam/nữ), trong khi nhóm trung học phổ thong và học nghề là 111/100 và
con số này ở nhóm chị em có trình độ cao đẳng trở lên là gần 114/100. Nhóm phụ nữ có
học thức cao thường cũng là nhóm giàu nhất, có mức sinh thấp, đồng thời cũng có điều
kiện tiếp cận thông tin, công nghệ để lựa chọn giới tính của con, nên có tỷ lệ đẻ con trai
cao hơn.
2.5 Thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn 2009-2011
Bình đẳng giới là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, được cộng
đồng quốc tế đặc biệt quan tâm và cùng thống nhất hành động giải quyết để đạt được sự
bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần thực
hiện công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và phát triển bền vững.
Bình đẳng giới là lĩnh vực rộng và có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực do

vậy là bất bình đẳng giới cũng tồn tại ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực khác nhau. Để tìm
hiểu hết thực trạng của bất bình đẳng giới là một điều hết sức khó khăn tuy nhiên nhìn sâu
vào một số lĩnh vực thì chúng ta cũng có thể hiểu được phần nào về thực trạng bất bình
đẳng giới đang tồn tại trong xã hội của Việt Nam. Sau đây là thực trạng bất bình đẳng giới
ở một số lĩnh vực tiêu biểu:
2.5.1 Tỷ số giới tính khi sinh (SRB)
Tỷ số giới tính khi sinh được đo bằng số trẻ sơ sinh trai trên một trăm trẻ sơ sinh
gái được sinh ra của một thời kỳ. Tỷ lệ này được xem là bình thường khi có 103 đến 105
bé trai được sinh ra so với 100 bé gái và nhìn chung ổn định qua thời gian và không gian
giữa các châu lục, quốc gia, khu vực và chủng tộc người. Tỷ số giới khi sinh có thể coi là
một trong các chỉ số để đo vị thế của phụ nữ ở khía cạnh bất bình đẳng giới, tỷ số này
càng cao rõ ràng nhận thấy đây là hậu quả của tư tưởng thích con trai hơn con gái và phá
thai có sự lựa chọn giới tính. Bất kỳ một sự thay đổi đáng kể nào của tỷ suất này chệch
khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can thiệp có chủ ý ở các mức độ nào
đó và sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn định dân số toàn cầu.
Sự gia tăng bất thường về tỷ số giới tính khi sinh của Việt nam trong những năm gần đây
đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập chính sách, các cơ quan thông tin đại
chúng cũng như các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Sau đây là tỷ số giới tính khi
sinh ở Việt Nam trong những năm gần đây:
Bảng 1 : Tỷ số giới tính khi sinh (SRB) của Việt Nam
Năm điều tra Nguồn Thời gian điều tra SRB
2005 Điều tra dân số hằng
năm
1/4/2005 106,0
2006 Điều tra dân số hằng
năm
1/4/2006 109,8
2007 Điều tra dân số hằng
năm
1/4/2007 111,6

2008 Điều tra dân số hằng
năm
1/4/2008 112,1
2009 Điều tra dân số hằng
năm
1/4/2009 110,5
2010 Điều tra dân số hằng
năm
1/4/2010 111,2
2011 Điều tra dân số hằng
năm
1/4/2011 111,9
Nguồn: Báo cáo Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình, 1/4/2011
Biểu đồ 1 : Biểu đồ thể hiện tỷ số giới khi sinh (SRB) của Việt Nam
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam trong giai đoạn 2005-
2008 không ngừng tăng lên. Năm 2005 tỷ số giới tính khi sinh là 106 bé trai trên 100 bé
gái được sinh ra thì tỷ sô này năm 2008 là 112,1 tăng 6,1. Nhưng đến năm 2009 tỷ số giới
tính khi sinh giảm xuống còn 110,5 bé trai trên 100 bé gái. Đây là một dấu hiệu đang
mừng nhưng sự giảm xuống này chưa được bao lâu thì lại tăng lên vào năm 2010 và tăng
hơn nữa vào năm 2011(năm 2011 tỷ số này tăng đến 111,9). Từ năm 2009 đến nay, mặc
dù đã có nhiều cảnh báo về hệ lụy của sự mất cân bằng giới tính khi sinh nhưng tình trạng
này duờng như chưa hề được khắc phục, mỗi năm tỷ số giới tính khi sinh tăng khoảng 0,7
điểm phần trăm. SRB nếu không có sự can thiệp lựa chọn giới tính thường từ 103 đến 105
bé trai trên bé gái nhưng ở Việt Nam thì tỷ số giới tính khi sinh đều vượt quá mức tự
nhiên. Lý giải điều này do các nguyên nhân:
- Việt Nam được xem là quốc gia có sự ưa thích về giới dẫn đến sự mất cân bằng giới tính.
Gía trị văn hóa truyền thống đã được lưu truyền qua các thể chế (gia đình phụ hệ, cộng
đồng làng xã), trong khi đó ưa thích con trai cũng phụ thuộc vào những chuyển biến kinh
tế xã hội gần đây ở Việt Nam.
- Tiếp cận công nghệ lựa chọn giới tính. Việt Nam được đánh giá là nước có sự mất cân

bằng giới tính xảy ra khá muộn so với nhiều nước trên thế giới nhưng xảy ra với tốc độ
nhanh và diễn biến phức tạp. Nguyên nhân là do sự mất cân bằng giới tính ở Việt Nam
diễn ra trùng với sự bùng nổ khoa học - công nghệ tên thế giới, giai đoạn này thế giới ghi
nhận sự tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực y tế, các bà mẹ mang thai có thể tiếp cận với máy
móc thiết bị hiện đại trong việc chẩn đoán, sang lọc trước sinh. Mặc dù việc lựa chọn giới
tính bị cấm ở Việt Nam nhưng không thể loại bỏ được những tư tưởng đó trong suy nghĩ
của nhiều sản phụ. Việc họ sẵn sàng “vứt bỏ” đi đứa con họ không mong muốn diễn ra
thầm lặng và không ai có thể phạt họ được là điều dễ thấy. Và tâm lý ưa thích con trai vẫn
là sự lựa chọn hàng đầu cho các bà mẹ Việt Nam.
Đáng chú ý là giữa thành thị và nông thôn tỷ số giới tính khi sinh có sự khác biệt
rõ rệt.
Bảng 2 : Tỉ số giới tính khi sinh chia theo thành thị/ nông thôn
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Toàn quốc 109,8 111,6 112,1 110,5 111,2 111,9
Thành thị 109,0 112,7 114,2 108,0 108,9 114,2
Nông thôn 110,0 111,3 111,4 111,6 112,0 111,1
Nguồn: Báo cáo Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình, 1/4/2011
Biểu đồ 2 : Tỷ số giới tính khi sinh phân chia theo thành thị/nông thôn
Tỉ số giới tính khi sinh ở thành thị và nông thôn nhìn chung đều có xu hướng tăng
lên rõ rệt. Cụ thể là năm 2006 SRB ở là 109,0 thì đến năm 2011 tỉ số này tăng lên đến
114,2, còn ở nông thôn năm 2006 SRB là 110,1 đã tăng lên 111,1 vào năm 2011. Tỷ số
giới tính khi sinh vượt quá mức tự nhiên là hệ quả của quan niệm thích con trai dẫn đến
hành vi lựa chọn giới tính thai nhi ở các cặp vợ chồng khi mang thai. Việc sử dụng siêu
âm để biết giới tính thai nhi hiện rất phổ biến. Tỷ lệ phụ nữ mang thai biết giới tính thai
nhi trước khi sinh tăng đều qua các năm, đặc biệt là ở nông thôn. Chẳng hạn, năm 2006 tỷ
lệ này ở nông thôn là 56,6% thì năm 2011 là 74,8%, các tỷ lệ tương ứng ở thành thị là
83,1% và 82,5%. Khi mang thai, hầu hết phụ nữ có tâm lý muốn biết sớm giới tính thai
nhi. Trên phạm vi cả nuớc, có một tỷ lệ rất ít phụ nữ mong muốn mình sẽ sinh con gái
(11%), tỷ lệ phụ nữ muốn sinh con trai cao gần gấp ba lần số phụ nữ muốn sinh con gái
(31%).Lựa chọn giới tính thai nhi sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng về xã hội do

thiếu phụ nữ và mất cân bằng giới tính của dân số trong tương lai.
Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới đề ra chỉ tiêu là tỷ số giới tính khi sinh không vượt
quá 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái vào năm 2015 và 115/100 vào năm 2020. Đây
là một trong những lĩnh vực cần đặc biệt quan tâm với các biện pháp giáo dục và y tế kiên
quyết nhằm phấn đấu đạt chỉ tiêu nói trên trong thời gian tới.
2.5.2 Bất bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo
Giáo dục đào tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc phát triển năng lực và
khẳng định bản thân của mỗi cá nhân, nam cũng như nữ. Bình đẳng giới trong giáo dục
đào tạo đã được Nhà nước và xã hội quan tâm thực hiện thông qua nhiều chương trình và
hoạt động cụ thể.
Tại Việt Nam Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới
trong nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Ngân sách nhà nước chi cho giáo
dục qua các năm không ngừng tăng lên: năm 2002 chiếm 16,7%; năm 2005 chiếm 18%;
năm 2008 chiếm 20% so với tổng ngân sách. Mức chi cho giáo dục của Việt Nam cao
ngang bằng với một số nước phát triển. Kết quả của những ưu tiên này đã thu hẹp khoảng
cách giới và việc đầu tư vào con người đã góp phần làm cho Việt Nam đạt được chỉ số
phát triển con người (HDI) và chỉ số phát triển giới (GDI) khá cao.
Thành tựu chính trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là tỷ lệ biết chữ cao, tỷ lệ nữ đi
học cao hơn nam ở một số bậc học, tỷ lệ nữ giảng viên đại học tăng nhanh. Tuy nhiên,
thách thức đặt ra là tỷ lệ biết chữ của nữ ở nhóm nghèo khá thấp, tỷ lệ nam học trung học
phổ thông tăng chậm, tỷ lệ nam thôi học cao hơn nữ. Số liệu dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn
những vấn đề này.
2.5.2.1 Tỷ lệ biết chữ
Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh
lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong tất cả các cấp bậc học được thu hẹp. Về cơ bản, Việt
Nam có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015.
Bảng 3: Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo giới tính
Đơn vị tính:%
Giới tính
Năm

Nam Nữ Chênh lệch
Nam/Nữ
2009 94,5 90,8 3,7
2010 95,9 91,6 4,3
2011 96,2 92,2 4,0
Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên ở nước ta khá cao và tăng dần qua các
năm. Năm 2009 tỷ lệ biết chữ của nam là 94,5 thì đến năm 2011 là 96,2%, còn đối với
nữa thì tỉ lệ này tương ứng là 90,8% và 92,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ nữ biết chữ vẫn thấp hơn
so với nam, cụ thể năm 2009 tỷ lệ biết chữ của nam từ 15 tuổi trở lên là 94,5% thì tỷ lệ
này đối với nữ là 90,8% thấp hơn nam là 3,7 %. Đến năm 2011 chênh lệch này là 4%.
Như vậy nữ giới vẫn bị thiệt thòi hơn nam giới trong học vấn. Số liệu trên cũng cho thấy
tỷ lệ biết chữ của Việt Nam dã được cải thiện đáng kể trong các thập kỷ qua, đồng thời sự
chênh lệch về tỉ lệ biết chữ giữa nam và nữ cũng không đáng kể (nhỏ hơn 4,5%). Điều
này cho thấy kết quả thành công của sự nghiệp giáo dục không chỉ thể hiện ở tỷ lệ biết
chữ tăng nhanh, mà cả mục tiêu bình đẳng giới cũng được bảo đảm
Nguồn: TCTK, Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình 2010
Biểu đồ 3: Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên theo thành thị, nông thôn,
nhóm dân tộc và giới tính năm 2010
Qua biểu đồ trên ta thấy tỉ lệ biết chữ giữa nam giới và nữ giới là khác nhau giữa
thành thị và nông thôn, giữa các dân tộc với nhau. Tỉ lệ biết chữ của nam giới luôn cao
hơn nữ giới. Tỉ lệ biết chữ của nam giới năm 2010 ở thành thị là 98,1%, còn ở nữ giới là
96,1%. Ơ nông thôn tỉ lệ chênh lệch này là 5,4%. Sự khác biệt giữa nam và nữ về tỷ lệ
biết chữ thể hiện rõ nhất ở đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể, tỷ lệ biết chữ của nam dân
tộc thiểu số là 86,1%, nữ là 73,6%, chênh lệch đến 12,5%. Tỷ lệ tương ứng ở dân tộc
Kinh là 97,7% và 94,7%. Điều này cho thấy nam giới luôn được chú trọng học hành hơn
nữ giới kể cả ở thành thị, nông thôn, dân tộc Kinh hay cho đến các dân tộc thiểu số.
2.5.2.2 Tỷ lệ đi học
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở, tỷ lệ đi học chung năm 2009 ở cấp tiểu học
của nữ là 101,9% và của nam là 103,2%. Đây là tỷ lệ đi học của trẻ tính trên 100 em ở độ
tuổi tiểu học. Điều này có nghĩa là có một tỷ lệ nhất định các em đi học tiểu học ngoài độ

tuổi. Cấp trung học cơ sở, tỷ lệ đi học chung của nữ cao hơn nam tương ứng là 89,4% và
88,6%. Tỷ lệ đi học đúng tuổi ở cấp tiểu học của nữ là 95% và nam là 95,1%, tỷ lệ này ở
cấp trung học cơ sở tương ứng là 83% và 80,4%. Cấp trung học phổ thông, tỷ lệ đi học
chung ở nữ cao hơn nam, cụ thể là 66,1% và nam là 59,1%. Tỷ lệ đi học đúng tuổi tương
ứng là 59,2% và 51,2%. Sự khác biệt này có thể liên quan đến việc các em trai thường
phải bỏ học để đi làm sớm giúp cha mẹ, bắt đầu từ trung học cơ sở và tăng cao hơn ở
trung học phổ thông. Do vậy cần quan tâm xác định các biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy
tỷ lệ em trai đi học trung học cơ sở và trung học phổ thông trong thời gian tới.
Nguồn: TCTK, Tổng điều tra Dân số và nhà ở 2009
Biểu đồ 4: Tỷ lệ đi học chung cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông theo thành
thị, nông thôn và giới tính, 2009
Tỷ lệ đi học chung cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông của nữ giới cao hơn
ở nam giới ở cả thành thị và nông thôn. Ở thành thị tỷ lệ nữ đi học THCS là 93,4% còn
nam là 92,2%, ở nông thôn tỷ lệ này tương ứng là 88,1% và 87,4%. Còn ở cấp THPT thì
tỷ lệ nam đi học ở thành thị là 71,8%, nữ là 77%. Sự chênh lệch về tỷ lệ đi học còn khác
nhau ở thành thị và nông thôn. Tỉ lệ đi học cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ
thông ở thành thị cao hơn ở nông thôn. Điều này cho thấy ở thành thị các gia đình có cuộc
sống khá giả hơn, tạo điều kiên tốt hơn cho con đi học hơn là ở nông thôn
2.5.2.3 Chưa từng đi học
Nguồn: TCTK, Điều tra đánh giá các mục tiêu về phụ nữ và trẻ em 2010-2011
Biểu đồ 5: Trẻ em 6-14 tuổi chưa bao giờ tới trường phân theo giới tính phân
theo vùng năm 2009
Tỷ lệ trẻ em chưa bao giờ đi học giữa các vùng có sự chênh lệch lớn. Đáng chú ý
là trừ vùng kinh tế Đông Nam Bộ, nơi tỷ lệ trẻ em gái chưa bao giờ đến trường thấp hơn
trẻ em trai, tương ứng là 1,3% và 2,1% và Đồng bằng sông Hồng, nơi tỷ lệ trẻ em gái và
trai chưa bao giờ đến trường xấp xỉ nhau, tương ứng 0,5% và 0,6%, còn lại tất cả các
vùng khác, tỷ lệ trẻ em gái chưa bao giờ đến trường đều cao hơn trẻ em trai. Đặc biệt,
vùng Tây Bắc có tỷ lệ chưa đến trường cao nhất và chênh lệch giới tính lớn nhất, cụ thể ở
trẻ em gái là 18,3% và trẻ em trai là 12,7%. Nguyên nhân vùng Tây Bắc có tỷ lệ chưa đến
trường cao nhất là do ở miền núi Tây Bắc còn gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế nghèo nàn

lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật, giao thông đi lại khó khăn. Ở đây lại tập trung nhiều đồng
bào dân tộc thiểu số, ý thức của bà con chưa cao, bà con lại chưa tiếp cận được những nhu
cầu cơ bản nên trẻ em đến trường học rất ít
2.5.2.4 Giáo viên
Đơn vị:%
Nguồn: TCTK, Niên giám Thống kê 2011
Biểu đồ 6: Tỷ lệ giảng viên cao đẳng, đại học phân theo giới tính
Tỷ lệ nam giảng viên cao đẳng, đại học cao hơn nhiều so với nữ giới. Năm 2001 tỷ
lệ nam giảng viên cao đẳng, đại học là 60,7% trong khi đó tỷ lệ này đối với nữ giới là
39,3 %, chênh lệch 21,4%, gấp 1,54 lần. Tuy nhiên sự chênh lệch này đang dần bị thu hẹp
theo hướng tích cực. Năm 2010, tỷ lệ nam giảng viên cao đẳng, đại học là 52,6%, còn nữ
là 47,4%, khoảng cách này đã giảm xuống còn 5,2%. Mặt khác tỷ lệ nữ giảng viên cao
đẳng đại học đang ngày càng tăng lên. Năm 2001 tỷ lệ nữ giảng viên cao đẳng, đại học là
39,3% thì đến năm 2010 tỉ lệ này là 47,4%. Qua 10 năm từ 2001-2010 đã tăng lên 8,1%.
Đây là một điều rất đáng mừng thể hiện vai trò của nữ giới này càng quan trọng. Thứ
trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo Đặng Huỳnh Mai đã khẳng định vai trò to lớn của giới nữ:
“Chiếm hơn 70% đội ngũ toàn ngành, giới nữ đóng vai trò đáng kể vào sự phát triển của
sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo nước nhà”. Một số cơ sở đào tạo lớn vốn có truyền thống
nam giới lãnh đạo như Đại học Bách khoa Hà Nội nay đã có nữ giới giữ vị trí Phó hiệu
trưởng. Nhiều nữ nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, được công nhận
chức danh Phó Giáo sư.
2.5.3 Bất bình đẳng trong lĩnh vực chính trị
Giới nữ tham gia lãnh đạo quản lý là một trong những chỉ tiêu quan trọng về sự
tiến bộ xã hội và bình đẳng giới. Những năm qua, chỉ tiêu này đã được cải thiện rõ rệt.
Ngày càng có nhiều vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp và các tổ chức xã hội khác đã do các cán bộ, công chức nữ đảm nhiệm. Phụ nữ
chiếm một nửa dân số thế giới nhưng tỷ lệ trung bình phụ nữ tham gia trong cơ quan lập
pháp của các nước chỉ chiếm 16%, đại sứ tại Liên hợp quốc là 9% và 7% trong nội các
chính phủ các nước. Trong số hơn 190 quốc gia trên thế giới, chỉ có 7 quốc gia có người

đứng đầu chính phủ (Tổng thống hoặc Thủ tướng) là phụ nữ.
Về thành tựu Việt Nam là một trong số ít nước trong khu vực châu Á – Thái Bình
Dương có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 25%. Số đại biểu nữ giữ các trọng trách
quan trọng trong các cơ quan của Quốc hội đã tăng lên trong những khóa gần đây. Trong
những nhiệm kỳ gần đây, chúng ta có nữ ở vị trí Phó Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch Quốc
hội.
Tuy nhiên, cho đến nay, tỷ lệ nữ lãnh đạo ở các ngành các cấp nói chung còn thấp.
Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010 và các mục tiêu thiên niên kỷ
của Việt Nam đề ra chỉ tiêu tăng tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt 30%, nữ đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp đạt từ 28-30%. Trên thực tế, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ
2007-2011 là 25,7%, không đạt chỉ tiêu đề ra. Tỷ lệ nữ tham gia Hội đồng nhân dân
nhiệm kỳ 2004-2011 ở cấp tỉnh, thành phố là 23,9%, cấp quận, huyện là 23% và cấp xã,
phường là 19,5%, cũng chưa đạt chỉ tiêu đề ra.
2.5.3.1 Nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
Nữ đại biểu Quốc hội
Đơn vị: %

×