Bất bình đẳng giới
LỜI CẢM ƠN
“Kinh tế và Chính sách phát triển vùng” thực sự là môn học đầy thú vị và hàm
chứa nhiều mảng kiến thức thực tế. Chúng em vô cùng hạnh phúc và hứng thú khi
được học, được nghe thầy Đào Duy Minh giảng về môn học này. Thông qua môn học,
chúng em có thể hiểu được sự phát triển của một vùng phụ thuộc vào rất nhiều các yếu
tố khách quan và chủ quan, đồng thời sự phát triển của vùng (quốc gia hay lãnh thổ)
nào đó không chỉ dựa vào sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế mà chính là sự
phối hợp hài hòa giữa kinh tế - xã hội – môi trường. Đây cũng là vấn đề nan giải mà
đòi hỏi lãnh đạo ở các cấp địa phương,các ngành chú trọng khi đưa ra một chính sách
phát triển vùng. Ngoài ra các doanh nghiệp, cộng đồng người dân nên quan tâm đến
điều này khi thực hiện việc kinh doanh, các hoạt động trong cuộc sống. Trong quá
trình phát triển của một vùng sẽ có rất nhiều các yếu tố, các vấn đề nảy sinh đòi hỏi
lãnh đạo các cấp các ngành đề ra các hướng giải pháp xử lí thích hợp. Một trong các
vấn đề nổi trội hiện nay là vấn đề về “Bình đẳng giới”.
Bất bình đẳng giới là chủ đề rất được quan tâm trên thế giới hiện nay. Nhóm
chúng em rất vui khi được thầy tin tưởng giao cho nhiệm vụ thực hiện nghiên cứu và
báo cáo về đề tài này. Trên cơ sở đề tài mang tính mở cao cùng với sự góp ý giúp đỡ
của thầy, nhóm đã giới hạn phạm vi nghiên cứu và chọn tên đề tài : “Thực trạng bất
bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm gần đây. Một số định hướng và giải
pháp”. Trong quá trình thực hiện, nhóm chúng em đã gặp không ít khó khăn về việc
thu thập số liệu, các thông tin liên quan đến bất bình đẳng giới hiện nay. Tuy nhiên
được sự động viên kịp thời cũng như sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của thầy đã giúp
chúng em hoàn thiện bài báo cáo tốt hơn. Chúng em vô cùng biết ơn sự ân cần, nhiệt
tình giúp đỡ của thầy và cho nhóm em gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy.
Tuy nhiên, bài báo cáo sẽ không tránh khỏi một số sai sót, nhóm mong thầy
cùng với tất cả các bạn thông cảm và góp ý chân thành để nhóm có thể hoàn thiện bài
một cách tốt nhất. Nhóm xin cảm ơn sâu sắc đến sự quan tâm chia sẻ của các bạn về đề
tài.
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
MỤC LỤC
Trang
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
SRB: Tỷ số giới tính khi sinh
LLLĐ: Lực lượng lao động
HĐND: Hội đồng nhân dân
KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình
TCTK: Tổng cục thống kê
BBĐG: Bất bình đẳng giới
GII: Chỉ số bình đẳng giới
GDI: Chỉ số phát triển giới
GEM: Thước đo vị thế giới
SDD: Suy dinh dưỡng
TĐTDS: Tổng điều tra dân số
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
Trang
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian gần đây vấn đề bình đẳng giới đang được cả cộng đồng quốc tế
đặc biệt quan tâm. Bởi vì thực trạng bất bình đẳng giới đã và đang diễn ra phổ biến,
đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế quá trình phát triển kinh tế-xã hội
của nhiều nước trên thế giới.
Bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân làm tăng đói nghèo, cản trở việc chăm
sóc sức khỏe dân cư, hạn chế các cơ hội làm tăng thu nhập và gây nên hàng loạt tổn
thất cho xã hội. Theo số liệu thống kê của Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFP), dân số
thế giới đã tăng lên rất nhiều. Trong đó, phụ nữ chiếm 51.8% dân số và 52% lực lượng
lao động. Tuy nhiên, sự mất bình đẳng giữa nam và nữ trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng trong nhiều lĩnh vực vẫn đang là vấn đề nóng gây xôn xao dư luận. Ở
nước ta hiện nay, tuy bước vào thời đại mới nhưng những định kiến cũ như “Trọng
nam khinh nữ”, “Đàn bà chỉ cần ở nhà sinh con trai và lo việc bếp núc là đủ”… vẫn
còn rất phổ biến. Cứ như thế người phụ nữ dần dần không còn khả năng thể hiện năng
lực của bản thân trong các hoạt động xã hội.
Do vậy, nhóm quyết định chọn đề tài về bất bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây
không phải là đề tài “mới mẻ” cũng không phải “ cũ kĩ” nhưng cũng không bao giờ là
vấn đề “lỗi thời” bởi đây là vấn đề đang có nhiều tranh cãi và là vấn đề “nóng” của dư
luận hiện nay. Chọn đề tài này, nhóm muốn một phần nào đó đi sâu vào đánh giá thực
trạng bất bình đẳng giữa nam và nữ ở Việt Nam trong các lĩnh vực, đồng thời cũng đề
ra được những định hướng, giải pháp cần thiết để hạn chế hiện tượng này. Vì vậy, đề
tài nhóm quyết định nghiên cứu là:“Thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong
những năm gần đây. Một số định hướng và giải pháp”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1Mục tiêu chung
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam. Đề ra định
hướng và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam
góp phần thúc đẩy tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, gia tăng việc làm,
tạo cơ hội để bình đẳng trong các lĩnh vưc cho cả nam và nữ.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống lại cơ sở lý luận và thực tiễn về bình đẳng giới nhằm giải thích cho tình trạng
bất bình đẳng giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và đưa ra các nguyên nhân gây ra hiện tượng bất bình
đẳng giới để kịp thời có biện pháp khắc phục, hiểu rõ tình trạng bất bình đẳng giới
trong giai đoạn 2009-2011.
- Đề xuất định hướng, giải pháp nhằm hạn chế tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
1.3 Phương pháp nghiên cứu
1.3.1 Phương pháp thu thập thông tin
+ Các thông tin từ mạng internet và sách báo các thông tin về tình trạng bất bình
đẳng giới ở Việt Nam.
+ Các báo cáo của Tổng cục thống kê, dân số,
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan nhằm củng cố thêm kiến thức và
tăng thêm sự hiểu biết về tình tạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
+ Thu thập số liệu, thông tin từ các bài báo, đồ án,các Bộ Luật liên quan đến Luật
Bình đẳng giới đánh giá tình trạng bất bình đẳng của nam-nữ trong các lĩnh vực đời
sống kinh tế-xã hội.
1.3. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu sau khi thu thập được xử lý bằng phần mềm Ecxel.
1.3.3 Phương pháp phân tích số liệu
1.3.3.1 Phương pháp thống kê mô tả và phương pháp so sánh
Đề tài dùng thống kê mô tả và thống kê so sánh để phân tích các tỷ lệ sinh, bất
bình đẳng của nam-nữ trong lao động, thu nhập, việc làm, cuộc sống,. Các chỉ tiêu
được dùng là các chỉ số tuyệt đối, số tương đối. Thống kê, so sánh lý thuyết với thực
tiển để đưa ra các chính sách, biện pháp phù hợp hạn chế tình trạng bất bình đẳng giới.
1.3.3.2 Phương pháp phân tích kinh tế
Từ các số liệu thu thập được chúng tôi tiến hành phân tích và đánh giá để làm nổi
bật vấn đề: đánh giá tình hình thực trạng bất bình đẳng ở Việt Nam, từ đó đưa ra các
kết luận có căn cứ khoa học.
1.3.4 Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Chủ nghĩa Mác-LêNin kết hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước trong việc xây dựng và thi hành pháp luật bình đẳng giới.
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.4.1 Đối tượng nhiên cứu đề tài
Hiện nay với sự phát triển và hòa nhập kinh tế thế giới, kinh tế Việt nam đã
có những bước tiến mới đời sống an sinh dần đi vào ổn định và được nâng cao nhưng
tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn tồn tại trong xã hội Việt nam.
Có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học về vấn đề này và phương tiện thông tin
đại chúng cũng vậy nhưng bất bình đẳng vấn là một vấn đề mang tính bức xúc cao. Do
đó, nhóm quyết định đi sâu vào nghiên cứu thực trạng bất bình đẳng ở Việt Nam và đề
xuất giải pháp hạn chế hiện tượng này.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài
-Về không gian: Ở Việt Nam.
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
-Về thời gian: Nghiên cứu trong giai đoạn gần đây đặc biệt giai đoạn 2009-2011.
1.5 Kết cấu đề tài
Chương I: Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Chương II: Thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm gần đây
đặc biệt giai đoạn 2009-2011.
Chương III: Định hướng và giải pháp.
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm về giới, bình đẳng giới và bất bình đẳng giới
1.1.1.1 Giới
Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ vọng
liên quan đến nam và nữ. Nó được coi là phạm trù xã hội có vai trò quyết định đến cơ
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
hội cuộc sống của con người, xác định vai trò của họ trong xã hội và trong nền kinh tế.
Giới chỉ khác biệt về xã hội và quan hệ về quyền lực giữa trẻ em trai và trẻ em gái,
giữa phụ nữ và nam giới được hình thành và khác nhau trong một nền văn hóa, giữa
các nền văn hóa và thay đổi theo thời gian. Sự khác biệt này được nhận thấy một cách
rõ ràng trong vui chơi, trách nhiệm, nhu cầu, khó khăn và thuận lợi của các giới tính.
1.1.1. Bình đẳng giới
- Theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 6 Điều 5 của Luật bình đẳng giới thì:
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ
hội phát huy năng lực của mình so với sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và
hưởng thụ như nhau về thành quả của sự phát triển cộng đồng về thành quả của phát
triển đó. Bình đẳng giới đề cập tới sự bình đẳng về quyền, trách nhiệm và cơ hội của
nam giới và nữ giới, trẻ em gái và trẻ em trai.
-Theo Luật Bình đẳng giới, thì mọi người dù là nam giới hay là nữ giới, với tư
cách là các cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để phát huy tiềm
năng sẵn có của mình cũng như có quyền thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát
triển chung như:
+Tiếp cận và sử dụng các nguồn lưc (tài chính, đất đai, thời gian, cơ hội,…)
+Tham gia quyết định những vấn đề liên quan tới việc sử dụng nguồn lực.
+Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội….
+Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển.
1.1.1.3 Bất bình đẳng giới
-Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều kiện và cơ
hội bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người đóng góp và hưởng thụ
từ sự phát triển của gia đình, của đất nước.
-Bất bình đẳng giới có nghĩa là: phụ nữ và nam giới không có sự công bằng về
quyền lợi, trách nhiệm, và không bình đẳng về tiếp cận cơ hội và ra quyết định.
-Bất bình đẳng giới không có nghĩa là phụ nữ và nam giới phải như nhau, mà là
sự giống nhau và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới phải được công nhận và đánh giá
một cách bình đẳng.
1.1.2 Bất bình đẳng và các thước đo bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau và được đo bằng
các chỉ tiêu khác nhau. Trong báo cáo phát triển con người của chương trình phát triển
Liên hiệp quốc (UNDP) đã đưa ra 3 chỉ số:
- Chỉ số bình đẳng giới (GII- Gender Inequality Index). Giá trị đo lường được
tính trong khoảng từ 0-1. GII càng tiệm cận điểm 0 thì mức độ bất bình đẳng càng
thấp, tức càng bình đẳng và càng tiệm cận điểm 1 thì mức độ bất bình đẳng càng cao.
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
- Chỉ số phát triển giới (GDI). Chỉ số này phản ánh những thành tựu trong các
khía cạnh tương tự như HDI (Tuổi thọ bình quân, giáo dục, thu nhập) nhưng lại điều
chỉnh các kết quả đó theo bất bình đẳng giới. Trong mỗi nước, nếu giá trị của GDI
càng gần với HDI thì sự khác biệt theo giới tính càng ít.
- Thước đo vị thế giới (GEM). Thước đo này tập trung xem xét cơ hội của phụ nữ chứ không
phải là khả năng (năng lực) của họ. Nó chỉ ra sự bất bình đẳng giới ở 3 khía cạnh.
+ Tham gia hoạt động chính trị và có quyền quyết định- được đo bằng tỷ lệ có
ghế trong quốc hội của phụ nữ và nam giới.
+ Tham gia hoạt động kinh tế và có quyền quyết định- được đo bằng tỷ lệ các vị
trí lãnh đạo, quản lý do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm và tỷ lệ các vị trí trong ngành
kỹ thuật, chuyên gia do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm.
Các nghiên cứu của UNDP về GDI và GEM của các nước đã chỉ ra rằng:
- Sự bình đẳng về giới cao hơn trong phát triển con người không phụ thuộc vào mức thu
nhập hay giai đoạn phát triển.
- Thu nhập cao không phải là điều kiện tiên quyết để tạo ra các cơ hội cho phụ nữ.
- Trong những thập niên qua, tuy đã có những tiến bộ vượt bậc về sự bất bình đẳng giới
nhưng sự phân biệt giới vẫn phổ biến trong mọi mặt cuộc sống ở nước ta và các nước
trên thế giới.
1.1.3 Các đặc điểm của bình đẳng giới
- Tính ngang quyền: Để đạt được bình đẳng giới, phụ nữ cần được tạo điều kiện và cơ
hội ngang bằng nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Tính ưu đãi: Do đặc điểm sinh học và khả năng sinh sản của phụ nữ có sự khác biệt, để
đạt được bình đẳng giới cần có sự đối xử ưu đãi, khuyến khích đặc biệt và hợp lý đối
với phụ nữ.
- Tính linh hoạt: Sự đối xử ưu đãi với phụ nữ cần được điều chỉnh linh hoạt trong từng hoàn
cảnh lịch sử cụ thể, không mang tính bất biến. Tuy nhiên, khoa học kỹ thuật phát triển, điều
kiện lao động được cải thiện, cần có sự điều chỉnh cho phù hợp nhằm loại bỏ một số quy
định cấm bất hợp lý đối với phụ nữ cải thiện điều kiện việc làm cho phụ nữ.
- Tính phân loại: Bình đẳng giới không chỉ được xem xét vị thế của phụ nữ và nam giới
trong xã hội mà còn được xem xét giữa các tầng lớp phụ nữ thuộc các thành phần xã
hội khác nhau, trong phạm vi quốc gia và trên thế giới.
Vây, bình đẳng giới cần được hiểu dưới các khía cạnh:
Thứ nhất, bình đẳng giới không chỉ có ý nghĩa cơ học là số lượng của phụ nữ và
nam giới tham gia trong tất cả các hoạt động là như nhau. Bình đẳng giới còn có nghĩa
là nam và nữ giới được công nhận và được hưởng các vị thế ngang nhau trong xã hội.
Thứ hai, bình đẳng giới không có nghĩa là nhìn nhận nam giới và nữ giới giống
y hệt nhau mà giữa chúng chỉ có sự tương đồng và nhiều điểm khác biệt tự nhiên.
1.2 Cơ sở thực tiễn
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
1.2.1Bất bình đẳng giới trên thế giới
Bất bình đẳng không bao giờ là vấn đề lỗi thời, cũng không bao giờ là vấn đề cũ
bởi nó luôn chứa đựng nhiều bất xúc của dư luận. Có thể nói: “Không ở nơi nào mà
phụ nữ và nam giới lại có quyền bình đẳng về kinh tế, xã hội và pháp luật” kể cả các
nước phát triển. Sự không tương xứng về quyền giữa nam và nữ diễn ra khá phổ biến
trong các quy định pháp luật, luật tục, thực tiễn của cộng đồng và gia đình. Ở
Botswana, Chilê, Namibia và Swaziland, phụ nữ chịu sự cai quản vĩnh viễn của người
chồng và không có quyền quản lý tài sản. Ở một số nước Châu Phi, phụ nữ có chồng
không được sở hữu đất đai, người đàn ông có quyền đòi hỏi vợ phải đóng góp sức lao
động nhưng người vợ lại không có quyền đó đối với chồng mình. Ở Bôlivia,
Goatemala và Siry, đàn ông có thể cấm vợ mình làm việc ở bên ngoài. Ở Ai Cập và
Giócđani, phụ nữ phải được chồng cho phép nếu muốn đi đây đi đó. Ở một số nước
Arập, phải có sự đồng ý của người chồng thì người vợ mới xin được hộ chiếu nhưng
ngược lại thì không. Ngay cả những nước phụ nữ được hưởng quyền bình đẳng về
chính trị và pháp luật như đã quy định trong hiến pháp thì người phụ nưc cũng không
được hưởng quyền đó một cách trọn vẹn. Ở một số vùng như Đông Á và Thái Bình
Dương, châu Mỹ Latinh và vùng Caribê, châu Âu và Trung Á, tỷ lệ tiểu học của các bé
gái đạt 100% hoặc gần 100%, tỷ lệ nữ sinh trung học bình quân hiện nay đã cao hơn
nam giới và xét trung bình, số năm đi học của phụ nữ đã bằng khoảng 90% của nam
giới. Về tài sản, ở Bangladesh, tài sản của người đàn ông khi lấy vợ trung bình trị giá
khoảng 82.000 taka, còn phụ nữ chỉ có 6.500 taka. Ở Etiopia, tổng tài sản kể cả đất đai
và vật nuôi mà người đàn ông mang theo khi lấy vợ trung bình giá trị 4.200 birr và
người phụ nữ thì chưa đến 1.000 birr. Điều này làm người phụ nữ trên thế giới dần
không có địa vị kinh tế trong gia đình và kèm theo đó là chịu sự tác động của người
đàn ông. Ở các nước đang phát triển, việc đứng tên và làm chủ đất đai phần lớn thuộc
về nam giới. Tại nhiều nơi ở han Sahara, phụ nữ chỉ có quyền đất đai thông qua hôn
nhân và chỉ được đảm bảo khi hôn nhân còn tồn tại và khi ly hôn thì quyền sở hữu
chấm dứt. Ở Nigeria, các nông trại mà người phụ nữ được làm chủ chỉ bằng 1/3 diện
tích mà nam giới làm chủ (0,8 ha và 2,4 ha). Ở các nông trại và doanh nghiệp nếu
người phụ nữ điều hành và làm chủ vốn được đầu tư thường rất ít. Ở Kenya, các hộ gia
đình do phụ nữ làm chủ hộ sở hữu chưa bằng một nữa số nông cụ mà các hộ gia đình
do nam giới làm chủ hộ sở hữu, 92% phụ nữ sử dụng phương pháp canh tác thủ công,
32% nam giới sử dụng kỹ thuật cơ giới và gia súc kéo. Ở Malauy, phân bón mà nữ sở
hữu chỉ bằng một nữa của nam. Về việc làm, ở các nước phát triển hay đang phát triển,
phụ nữ thường hiện diện trong các ngành nghề lĩnh vực dịch vụ, văn phòng, bán hàng
còn nam giới xuất hiện trong các lĩnh vực sản xuất, các vị trí hành chính và quản lý
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
được trả lương cao. Mức thù lao phụ nữ nhận được thường thấp hơn nam giới. Chênh
lệch thu nhập theo thống kê mới nhất năm 2011 thu nhập hai giới phổ biến trong
khoảng 0.6-0.75. Trong số các nước phát triển, tỷ lệ thu nhập của nữ so với nam biến
thiên từ 43% ở Nhật Bản (1993-1994) đến 87% ở Đan Mạch (1995). Ở các nước đang
phát triển, tỷ lệ đó thay đổi từ 43% ở Nicagagoa (1991) đến 90% ở Thái Lan (1989) và
101% ở Chi Lê (1996). Với những đặc điểm điều kiện khác nhau thì ở Hàn Quốc mức
lương phụ nữ bằng 51% mức lương nam giới. Về mặt chính trị, do địa vị kinh tế-xã
hội của người phụ nữ yếu kém hơn nam giới đã hạn chế sự tham gia của người phụ nữ
vào các lĩnh vực chính trị với tư cách là những đại biểu tích cực. Cụ thể năm 2011 trên
thế giới phụ nữ trong cơ quan lập pháp phổ biến trong khoảng từ 10-20%, tập trung
chủ yếu ở Châu Âu, châu Mỹ và Châu Á còn Châu Phi-khu vực có nền kinh tế kém
phát triển thì tỉ lệ này rất thấp, phổ biến từ 0-10%. Ở Đông Á, tỷ lệ trung bình số ghế
trong Quốc hội do phụ nữ nắm giữ là gần 20%. Ở Châu Âu và Trung Á, tỷ lệ này giảm
nhanh chóng từ 25% xuống 7% trong những năm gần đây. Sỡ dĩ như vậy vì ở Đông
Âu bãi bỏ quy định 25-33% số ghế trong Quốc hội cho phụ nữ và ở một số khu vực tỷ
lệ này không quá 10%.
Như vậy, ở thế giới tình trạng bất bình đẳng vẫn còn tồn tại trong nhiều lĩnh
vực. Điều này dẫn đến nhiều hạn chế đối với người phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực để
thể hiện khả năng của mình.
1.2.2 Bất bình đẳng giới ở Việt Nam
Ở Việt Nam vấn đề bất bình đẳng diễn ra vẫn còn khá nhiều song nước ta đã có nhiều
biện pháp kịp thời giúp đẩy nhanh quá trình bình đẳng giới và đạt được nhiều thành công.
Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” do UNDP công bố mới đây cho
thấy, Việt Nam xếp thứ 128 trên 187 quốc gia và vùng lãnh thổ về chỉ số phát triển con
người (HDI-Human Development Index) nhưng lại xếp thứ 48 trên thế giới về chỉ số
bất bình đẳng giới. So với các nước trong khu vực ASEAN, Việt Nam xếp thứ 7/11
nếu xét vềchỉ số HDI, nhưng nếu xét về chỉ số GII, Việt Nam lại đứng thứ 3, sau
Singapore và Malaysia. Như vậy, mặc dù chỉ số phát triển con người của Việt Nam
vẫn còn hạn chế nhưng mức độ bình đẳng giới của Việt Nam luôn thuộc những nước
hàng đầu khu vực.
Theo Tổ chức Liên minh Nghị viện thế giới (Inter-Parliamentary Union) tỷ lệ
phụ nữ trong cơ quan lập pháp của Việt Nam là 25,8% đứng thứ 40 trong tổng số 188
nước trên thế giới (số liệu tính đến ngày 30/11/2011 trên cơ sở báo cáo của cơ quan
lập pháp các nước). Không chỉ chiếm tỷ lệ cao trong cơ quan lập pháp, phụ nữ Việt
Nam còn tham gia, nắm giữ những vị trí quan trọng và đóng góp tích cực trong các cơ
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
quan hành pháp, tư pháp, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính
trị xã hội nghề nghiệp…
Ở Việt Nam phụ nữ cũng có một tổ chức chính trị riêng của mình đó là Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (thành lập ngày 20/10/1930) hoạt động vì sự bình đẳng,
phát triển của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ.
Bình đẳng giới trong các lĩnh vực xã hội:
Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” của UNDP, trình độ học vấn của
phụ nữ Việt Nam (từ 25 tuổi trở lên) đã hoàn thành chương trình giáo dục cấp 2 trở lên
là 24,7% so với 28% là của nam giới. Mức độ chênh lệch giữa nam và nữ còn khá
nhiều nhưng vẫn có thể giải quyết được.
Theo Kết quả chủ yếu của Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của Tổng cục
Thống kê (TCTK) thì tỷ lệ biết chữ của nam giới là 96,2% và của nữ giới là 92,2% (từ
15 tuổi trở lên). Trang Wikipedia dẫn nguồn từ website Quốc hội thì tại Việt Nam, cứ
100 cử nhân có 36 nữ, 100 thạc sĩ có 34 nữ, 100 tiến sĩ có 24 nữ. Như vậy trong các
lĩnh vực xã hội tình trạng bất bình đẳng diễn ra đã thấp hơn rất nhiều so với các năm
trước đó.
Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 của TCTK thì tỷ lệ nữ tham gia
lao động là 46,6% trong tổng số lao động. Như vậy, tỷ lệ nữ Việt Nam tham gia lao
động vẫn thấp hơn so với nam giới nhưng không đáng kể.
Ở Việt Nam có trên 20% tổng số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, chủ yếu
thuộc về khu vực thương mại, dịch vụ, sản xuất, chế biến nông sản, thủy sản. Nhiều
tấm gương phụ nữ trẻ làm kinh tế giỏi không những chỉ làm giàu cho bản thân mà còn
đóng góp được nhiều cho xã hội.
Theo UNDP thì tại Việt Nam nếu nam giới kiếm được 1$ thì nữ giới sẽ kiếm
được 0,69$ (số liệu năm 2007). Khi phụ nữ có việc làm, họ sẽ có thu nhập và mang
đến sự tự chủ về kinh tế, sự chia sẻ các quyết định trong gia đình và các cơ hội bình
đẳng hơn đối với phụ nữ.
Có thể thấy ở Việt Nam tình trạng bất bình đẳng đang dần được cải thiện khá
nhiều nhưng trong một số lĩnh vực thì tình trạng bất bình đẳng vẫn còn như trong cân
bằng cuộc sống gia đình,… vì vậy nhà nước, các cơ quan ban ngành có chức năng cần
phải đưa ra và thực hiện tốt hơn nữa các chính sách và biện pháp giúp cải thiện vấn đề
bất bình đẳng vẫn đang còn tồn tại ở Việt Nam.
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2009-2011
2.1 Tổng quan tình hình dân số ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, phía bắc giáp nước
Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, phía tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân Dân Lào
và Vương quốc Cam-pu-chia, phía đông và nam giáp Biển Đông. Việt Nam có hơn 85
triệu người thuộc 54 nhóm dân tộc khác nhau. Ở nước ta, nếu năm 1975, tổng dân số
xấp xỉ 47 triệu người thì đến năm 2011 dân số trung bình cả nước ước tính 87,84 triệu
người, tăng 1,04% so với năm 2010, bao gồm: Dân số nam 43,47 triệu người, chiếm
49,5% tổng dân số cả nước, tăng 1,1%; dân số nữ 44,37 triệu người, chiếm 50,5%,
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
tăng 0,99. Theo báo cáo Tình hình Dân số Thế giới 2010 của Liên Hiệp Quốc, dân số
Việt Nam hiện là 89 triệu người và sẽ tăng lên 111,7 triệu người vào năm 2050. Việt
Nam hiện đứng thứ 14 trong số những nước đông dân nhất thế giới.
Tuy nhiên có một hiện tượng nhân khẩu học gần đây thu hút sự quan tâm của
các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia nghiên cứu và cả xã hội là hiện tượng
mất cân bằng giới khi sinh, đã và đang diễn ra ở Việt Nam từ những năm đầu của thế
kỷ 21. Tỷ số giới tính khi sinh(TSGTKS), được tính bằng số trẻ em trai sinh ra trên
100 trẻ em gái đã tăng lên trong những năm qua, cho thấy một sự can thiệp cố ý làm
thay đổi tỷ lệ cân bằng tự nhiên giữa số lượng trẻ em trai và trẻ em gái sinh ra trong xã
hội. TSGTKS bình thường dao động trong khoảng từ 103-106. Qua 3 cuộc Tổng điều
tra Dân số trước đây, TSGTKS đã tăng từ 105 (1979) lên 106 (1989) lên 107 (1999)
nhưng từ năm 2006 đến nay, TSGTKS tăng cao và nhanh liên tục, từ 110 (2006) lên
111 (2007) và 112 (2008) đến 2012 chỉ số này ở mức 112,3.Tình trạng mất cân bằng
giới tính khi sinh ngày càng nghiêm trọng. Các chuyên gia quốc tế đã nhận xét,
TSGTKS tăng ở những nước có nền văn hóa tương đồng (ưa thích sinh con trai hơn
con gái) như Việt Nam nhưng chưa có nước nào lại có tốc độ gia tăng nhanh như ở
nước ta. Nếu không có giải pháp tích cực sự mất cân bằng giới tính này sẽ để lại
những hệ lụy nặng nề, gây khó khăn trong việc xây dựng gia đình của các thế hệ tương
lai và tác động xấu đến trật tự an ninh xã hội.Đây là vấn đề xã hội được đặc biệt quan
tâm.
2.2 Những quy định của pháp luật liên quan đến bất bình đẳng ở nước ta
hiện nay
Bình đẳng giới và quyền phụ nữ là quyền hiến định.Nguyên tắc bình đẳng đã được
khẳng định ngay trong Hiến pháp Việt Nam năm 1946 “tất cả các công dân Việt Nam đều
ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá” và “đàn bà ngang quyền với
đàn ông về mọi phương diện” và được tái khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 “công dân
nam nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá và gia đình. Nghiêm
cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm người phụ nữ”.
Nội dung bình đẳng giới cũng được quy định trong các Luật và Bộ luật điều chỉnh
cáclĩnh vực của đời sống xã hội. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 quy định “công
dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành
phần xã hội, tín ngưỡng, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời gian cư trú, đủ mười tám tuổi
trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đề có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội”.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 còn
quy định rõ “số đại biểu Quốc hội là phụ nữ do Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban chấp hành trung ương Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam, bảo đảm để phụ nữ có số đại biểu thích đáng”.
Trong lĩnh vực y tế, theo Luật Bảo vệ sức khỏe khỏe nhân dân năm 1989,
“công dân có quyền được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải trí, rèn luyện thân thể;
được bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường sống và
được phục vụ về chuyên môn y tế” và một trong những nguyên tắc trong hành nghề
khám bệnh, chữa bệnh theo Luật Khám, chữa bệnh là “bình đẳng, công bằng và không
kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người bệnh”.
Về giáo dục, “mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ,
nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập”.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được quy
định rõ trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là “vợ chồng bình đẳng”.
Trong lĩnh vực lao động, Bộ luật Lao động quy định “mọi người đều có quyền làm
việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp,
không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo”.
Bộ luật Lao động còn có một chương dành riêng cho lao động nữnhằm bảo vệ
sức khỏe sinh sản của họtrong khi làm việc. Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29
tháng 11 năm 2006 đánh dấu bước phát triển về thể chế và hệthống hóa trách nhiệm
của Nhà nước Việt Nam bằng việc tăng cường bình đẳng giới trong đời sống cá nhân
và xã hội. Dưới đây là những nội dung cơ bản của Luật Bình đẳng giới năm 2006 và
các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật này. Những nội dung chi
tiết sẽ được trình bày trong những phần tiếp theo của Tài liệu.
a) Luật Bình đẳng giới
Luật Bình đẳng giới quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới và được áp dụng
đối với cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, gia đình và công dân Việt Nam; cũng như
cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cá
nhân nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.
Luật Bình đẳng giới có 6 Chương với 44 Điều, cụ thể như sau:
Chương I gồm 10 Điều(từ Điều 1 đến Điều 10)về những quy định chung, gồm
phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, các nguyên tắc cơ bản về
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
bình đẳng giới, nội dung và cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới và các hành vi
bị nghiêm cấm.
Chương II gồm 8 Điều (từ Điều 11 đến Điều 18) về bình đảng giới trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, gồm: chính trị; kinh tế; lao động ; giáo dục và
đào tạo; khoa học và công nghệ; văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao; y tế và gia đình.
Chương III gồm 6 Điều (từ Điều 19 đến Điều 24) vềcác biện pháp bảo đảm
bình đẳng giới, gồm các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, lồng ghép vấn đề bình
đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, thông tin, giáo dục, truyền
thông về giới và bình đẳng giới và nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới.
Chương IV gồm 10 Điều (từ Điều 25 đến Điều 34) về trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức,gia đình và cá nhân trong việc thực hiện và đảm bảo bình đẳng giới.
Chương V gồm 8 Điều (từ Điều 35 đến Điều 42) về thanh tra, giám sát và xử
lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.
Chương VI gồm 2 Điều (Điều 43 và Điều 44) về điều khoản thi hành, gồm:
hiệu lực và hướng dẫn thi hành.
Luật Bình đẳng giới năm 2006 đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng
giới bao gồm:
- Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
- Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới.
- Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
- Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
- Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật.
- Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân.
Luật Bình đẳng giới năm 2006 cũng xác định những điểm cốt yếu trong chính
sách của Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới, bao gồm:
- Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như
nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.
- Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều
kiện đểnam, nữ chia sẻ công việc gia đình.
- Áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản
trởthực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
- Khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc
đẩy bình đẳng giới.
- Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
kiện cần thiếtđể nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương
mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
b) Các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới
Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2008 của Chính phủ qui
định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Bình đẳng giới về trách nhiệm quản lý nhà
nước về bình đẳng giới và phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới với
4 Chương, 18 Điều.
Nghị định số 48/2009/ NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Chính phủvề các
biện pháp bảo đảm bình đẳng giớ với 6 Chương, 23 Điều.
Nghị định số 55/2009/ NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ qui
định xửphạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới với 5 Chương, 29 Điều.
c) Các văn bản, chiến lược, chính sách khác liên quan đến Bình đẳng giới
Chương trình hành động của chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị
quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Ban hành kèm theo Nghị
quyết số 57/NQ-CP ngày 01 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ) với mục tiêu nâng cao
nhận thức, trách nhiệm và hiệu quả quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước ở
Trung ương và địa phương đối với công tác phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới nhằm
phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học
vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hoá,
tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh
vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một
trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực.
Chiến lược quốc qia về bình đẳng giớigiai đoạn 2011-2020 (được phê duyệt tại
Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ)
với Mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa
nam và nữvề cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước và các mục
tiêu cụ thể, gồm:
Mục tiêu 1: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh
đạo,nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị;
Mục tiêu 2: Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm;
tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số
đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động;
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
Mục tiêu 3: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự
tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo;
Mục tiêu 4: Bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe;
Mục tiêu 5: Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin;
Mục tiêu 6: Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ
bạo lực trên cơ sở giới
Mục tiêu 7: Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng
(1) Điều 6 Hiến pháp 1946
(2) Điều 9 Hiến pháp 1946
(3) Điều 63 Hiến pháp 1992
(4) Điều 2
(5) Điều 10
(6) Điều 1
(7) Điều 3
(8) Điều 10 Luật Giáo dục 2005
(9) Điều 2
(10) Điều 5
(11)Điều 6 Luật Bình đẳng giới
2.3 Đánh giá tình hình chung về bất bình đẳng giới (BBĐG) của Việt Nam
qua giai đoạn 2009-2011
Theo số liệu thống kê của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFP), dân số thế giới
đã lên đến hơn 6,7 tỉ người (năm 2009). Mỗi ngày có hơn 70.000 nữ thanh thiếu niên
kết hôn và khoảng 40.000 phụ nữ sinh con. Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê năm
2009, dân số đã lên tới hơn 85 triệu người, tăng 9,6 triệu so với 10 năm trước đó.
Trong đó phụ nữ chiếm 51,8% dân số và 52% lực lượng lao động. Tuy nhiên, sự mất
bình đẳng nam - nữ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng trong nhiều lĩnh
vực vẫn đang là thực tế. Ở nước ta hiện nay, tuy đã bước vào một thời đại mới, bước
vào một kỷ nguyên mới, nhưng hiện tượng phụ nữ bị đánh đập, bị lạm dụng vẫn đang
diễn ra khá phổ biến. Vấn đề bất bình đẳng giới cũng như vấn đề giải phóng phụ nữ
được nhà nước ta, các ban ngành và toàn xã hội quan tâm sâu sắc. Đây không phải là
một vấn đề còn mới mẻ, nhưng cũng không phải là vấn đề cũ kỹ và có lẽ sẽ không bao
giờ là một vấn đề bị coi là “lỗi thời”.
Khoảng cách giới vẫn còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực quan trọng như:
chính trị, kinh tế, lao động và việc làm, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, gia đình.
Phụ nữ vẫn là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi hơn so với nam giới. Định kiến giới, tư
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
tưởng “trọng nam coi thường nữ” vẫn còn tồn tại, đặc biệt là ở khu vực nông thôn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân chính gây nên tình trạng bất bình đẳng giới nói chung và đặc biệt là mất
cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam. Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ vẫn diễn ra
khá phổ biến.v.v.
Kết quả phân tích số liệu Tổng điều tra 2009 đã chỉ ra rằng tỷ số giới tính khi
sinh ở Việt Nam đã tăng tới mức 110,6 trẻ em trai trên 100 trẻ em gái vào năm 2009,
cao hơn đáng kể so với chuẩn sinh học bình thường dao động trong khoảng 104-106
trẻ em trai cho 100 trẻ em gái.
Từ năm 2011, dấu hiệu gia tăng tỷ lệ sinh con trai từ số liệu các cuộc điều tra
dân số hàng năm của Tổng cục Thống kê (TCTK)vẫn không hề giảm. Tỷ số khi sinh
có thể coi là một trong các chỉ số để đo vị thế của phụ nữ ở khía cạnh bất bình đẳng
giới, tỷ số này càng cao càng rõ ràng nhận thấy đây là hậu quả của tư tưởng thích con
trai hơn con gái và phá thai có sự lựa chọn giới tính. Bất kể một sự thay đổi đáng kể
nào của tỷ suất này chênh lệch khỏi mức sinh học bình thường điều này phản ánh
những can thiệp có chủ đích ở các mức độ khác nhau đến sự mất cân bằng tự nhiên. Ở
Việt Nam tỷ số giới tính khi sinh tăng rất nhanh trong giai đoạn 2009-2011.
Theo đánh giá của các chuyên gia vào năm 2009 thì Việt Nam cũng có rất nhiều
khả năng đạt được mục tiêu xóa bỏ khoảng cách về giới ở bậc giáo dục tiểu học và
trung học. Tuy nhiên, sân chơi vẫn chưa bằng phẳng, phụ nữ Việt Nam tiếp tục phải
đối mặt với những thách thức và trở ngại.Tỷ lệ tham gia của phụ nữ ở một số ngành,
nghề quá cao, nhưng ở một số ngành nghề khác lại quá thấp.Nam giới được hưởng lợi
nhiều hơn từ những công việc đi kèm với quyền lực và quyền gia quyết định.Ngoài ra,
vấn đề bạo lực gia đình và tình dục vẫn phổ biến.Theo Liên Hiệp Quốc năm 2011 ít
nhất cứ ba phụ nữ thì có một người có thể bị đánh, bị ép quan hệ tình dục hoặc làm
nhục trong đời. Tỉ lệ phá thai thuộc hàng cao nhất thế giới- trung bình một phụ nữ Việt
Nam có 3,32 lần phá thai trong đời. Người ta thấy có vết nứt kinh tế và xã hội phân rẽ
người phụ nữ nông thôn với người thành thị, trong khi nạn mại dâm và buôn người
vẫn là “tệ nạn xã hội” chưa giải quyết.
Những bất cập này dường như cho thấy rằng các quan niệm phương Tây về
bình đẳng giới- được định nghĩa bởi những mô hình phát triển và được thực hiện bởi
một chính phủ quyết tâm gia nhập thế giới công nghiệp hóa - thật xa lạ trước hiện thực
xã hội của người phụ nữ Việt Nam.
2.4 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới
2.4.1 Tư tưởng định kiến
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
Trọng nam khinh nữ là một tư tưởng trong đó coinam giới là quan trọng hơn
phụ nữ, tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới.Mặc dù hiện nay quyền phụ nữ được công
nhận nhưng tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn ở một số nước, đặc biệt là gắn liền
với tư tưởng tôn giáo và biểu hiện dưới nhiều cấp độ khác nhau.Học thuyết Nho giáo
chi phối mội thời gian dài trong đời sống tinh thần của người Việt Nam là làm sao phải
có con trai để nối dõi dòng tộc, áp lực về con nối dõi cứ truyền từ đời này qua đời khác
dần dần ngấm vào tâm khảm của nhiều người và cứ thế tư tưởng trọng nam khinh nữ
ngày càng có chiều hướng gia tăng.
Tư tưởng trọng nam khinh nữ ở nước ta dược lý giải dựa trên ảnh hưởng của tư
tưởng Nho giáo và nhận thức của người dân về thực tiễn cuộc sống: người đàn ông có
trách nhiệm nối dõi dòng họ, sẽ trông nom chăm sóc mồ mã tổ tiên,không có con trai là
một điều bất kính với tổ tiên dòng họ. Nam giới là nguồn lao động chính,kế thừa tài sản
của gia đình và có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ lúc về già. Khi hệ thống phúc lợi xã hội
đối với người già còn chưa phát triển, nhất là tại các vùng nông thôn,mà dân số Việt Nam
hầu hết sinh sống tại các vùng nông thôn, con cái chăm sóc cha mẹ lúc về già vẫn là hết
sức quan trọng.Người già đa phần vẫn phải dựa vào gia đình.Những suy nghĩ,cách hành
xử,sự dạy dỗ có liên quan đến phân biệt,định kiến giới của ông, bà, cha, mẹ, anh, chị
chính là những yếu tố ảnh hưởng lớn tới việc hình thành quan niệm về giới của mỗi thành
viên trong gia đình. Do đó nếu trong gia đình có những định kiến giới thì những định kiến
này sẽ được lặp lại ở các thế hệ tiếp theo.Mặt khác chúng ta đã duy trì được mức sinh thấp
kéo dài liên tục trong nhiều năm. Nhưng từ đó cũng xuất hiện mâu thuẫn, các gia đình
muốn chỉ có 1-2 con thì trong đó phải có con trai. Vì thế mới có chuyện cố tình đẻ con trai
cho bằng được. Nhưng nguyên nhân trực tiếp là mong muốn có con trai của các gia đình.
Ngoài ra phụ nữ số đen, số xấu, đem lại không may cho người khác như “ra ngõ
gặp gái”. Họ còn được coi là người có giá trị thấp “Một trăm con gái không bằng một
cái… con trai”, “đàn ông miệng rộng thì sang,đàn bà miệng rộng tan hoang cửa
nhà”… Trong những hoàn cảnh như vậy người phụ nữ sẽ không đủ tự tin để vươn lên
như nam giới và sự cam chịu của người phụ nữ càng là điều dễ hiểu.
2.4.2 Tính chất công việc
Nguyên nhân quan trọng nhất cản trở phân chia bình đẳng công việc trong gia
đình ở Việt Nam là quan niệm xã hội: “Công việc nội trợ là thiên chức của Phụ nữ”.
Không những thế,xã hội còn đánh giá thấp ý nghĩa của các công việc gia đình làm cho
nam giới thiếu động lực trong việc chia sẽ công việc gia đình với phụ nữ.Vấn đề giải
phóng phụ nữ trong gia đình chưa được đặt một cách tương xứng với yêu cầu đổi mới
kinh tế, xã hội, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Phụ nữ phải phụ thuộc, yếu đuối,
thụ động, nam giới là độc lập, mạnh mẽ có năng lực và là người ra quyết định. Chồng
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
có quyền dạy vợ, vợ phải nghe theo chồng. Nam là trụ cột trong gia đình, có quyền
quyết định những việc lớn quan trọng trong gia đình, nữ có trách nhiệm nuôi dạy con
cái, nội trợ trong nhà. Nam giỏi việc xã hội,nữ phải giỏi việc nhà.
Do đặc tính của công việc một số ngành nghề đòi hỏi phải có sức khỏe như việc
đánh bắt cá ngoài khơi,các nghành công nghiệp nặng,khai thác khoáng sản,xây dựng…
ngược lại có những ngành lao động nữ cao hơn nam giới. Trên bình diện toàn bộ nền kinh
tế, lao động nữ gần như cân bằng với nam giới (chiếm 48,6% tổng số lao động). Nhiều
ngành đã có tỷ lệ nam - nữ khá cân bằng. Những ngành có tỷ lệ phụ nữ làm việc cao là:
Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và
dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình (87,8%), Giáo dục và đào tạo (68,8%), Dịch vụ lưu
trú và ăn uống (68,2%). Một số ngành có tỷ lệ lao động nữ thấp là: Vận tải kho bãi
(9,2%), Xây dựng (11,0%), Sản xuất và phân phối điện, khí đốt (17,6%).
(Nguồn biểu 2.5 tỷ trọng lao động có việc làm từ 15 tuổi trở lên theo giới tính
và ngành nghề kinh tế, 1/9/2009.)
2.4.3 Nhận thức xã hội
Nguyên nhân căn bản dẫn tới hiện tượng bất bình đẳng giới là nhận thức xã hội
về vấn đề này chưa thấu đáo, đặc biệt là nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức,
lãnh đạo, quản lý và nhân dân. Mặt nhận thức của nhân dân còn hạn chế, công tác
tuyên truyền bình đẳng giới còn nhiều hạn chế, chưa thiết thực, chưa phù hợp và chưa
đi sát vào dân, nên hiệu quả nâng cao nhận thức của nhân dân còn hạn chế. Mặt khác,
trong Báo cáo về mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam qua các bằng chứng từ
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, trình độ học vấn của người mẹ quan hệ tương
hổ chặt chẽ với tỷ số giới tính khi sinh,người phụ nữ càng có học thức cao thì càng có
khả năng và điều kiện lựa chọn sinh con trai. Cụ thể, nhóm các bà mẹ có trình độ tiểu
học và thấp hơn có tỷ lệ đẻ con trai là 107/100(số nam/nữ), trong khi nhóm trung học
phổ thông và học nghề là 111/100 và con số này ở nhóm chị em có trình độ cao đẳng
trở lên là gần 114/100. Nhóm phụ nữ có học thức cao thường cũng là nhóm giàu nhất,
có mức sinh thấp, đồng thời cũng có điều kiện tiếp cận thông tin, công nghệ để lựa
chọn giới tính của con, nên có tỷ lệ đẻ con trai cao hơn.
2.5 Thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn 2009-2011
Bình đẳng giới là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, được
cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm và cùng thống nhất hành động giải quyết để đạt
được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp
phần thực hiện công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và phát triển bền vững.
Bình đẳng giới là lĩnh vực rộng và có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
do vậy là bất bình đẳng giới cũng tồn tại ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực khác nhau. Để
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
tìm hiểu hết thực trạng của bất bình đẳng giới là một điều hết sức khó khăn tuy nhiên
nhìn sâu vào một số lĩnh vực thì chúng ta cũng có thể hiểu được phần nào về thực
trạng bất bình đẳng giới đang tồn tại trong xã hội của Việt Nam. Sau đây là thực trạng
bất bình đẳng giới ở một số tiêu chí tiêu biểu:
2.5.1Tỷ số giới tính khi sinh (SRB)
Tỷ số giới tính khi sinh được đo bằng số trẻ sơ sinh trai trên một trăm trẻ sơ
sinh gái được sinh ra của một thời kỳ. Tỷ lệ này được xem là bình thường khi có 103
đến 105 bé trai được sinh ra so với 100 bé gái và nhìn chung ổn định qua thời gian và
không gian giữa các châu lục, quốc gia, khu vực và chủng tộc người. Tỷ số giới khi
sinh có thể coi là một trong các chỉ số để đo vị thế của phụ nữ ở khía cạnh bất bình
đẳng giới, tỷ số này càng cao rõ ràng nhận thấy đây là hậu quả của tư tưởng thích con
trai hơn con gái và phá thai có sự lựa chọn giới tính. Bất kỳ một sự thay đổi đáng kể
nào của tỷ suất này chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can
thiệp có chủ ý ở các mức độ nào đó và sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự
nhiên, đe dọa sự ổn định dân số toàn cầu. Sự gia tăng bất thường về tỷ số giới tính khi
sinh của Việt nam trong những năm gần đây đang là mối quan tâm hàng đầu của các
nhà lập chính sách, các cơ quan thông tin đại chúng cũng như các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước. Sau đây là tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam trong những năm
gần đây:
Bảng 1 : Tỷ số giới tính khi sinh (SRB) của Việt Nam giai đoạn 2005 - 2011
ĐVT: %
Năm điều
tra
Nguồn Thời gian điều tra SRB
2005 Điều tra dân số hằng năm 1/4/2005 106,0
2006 Điều tra dân số hằng năm 1/4/2006 109,8
2007 Điều tra dân số hằng năm 1/4/2007 111,6
2008 Điều tra dân số hằng năm 1/4/2008 112,1
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
2009 Điều tra dân số hằng năm 1/4/2009 110,5
2010 Điều tra dân số hằng năm 1/4/2010 111,2
2011 Điều tra dân số hằng năm 1/4/2011 111,9
(Nguồn: Báo cáo Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình, 1/4/2011)
ĐVT: %
Biểu đồ 1 : Biểu đồ thể hiện tỷ số giới khi sinh (SRB) của Việt Nam giai đoạn
2005 - 2011
(Nguồn: Điều tra dân số hàng năm)
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam trong giai đoạn
2005-2008 không ngừng tăng lên. Năm 2005 tỷ số giới tính khi sinh là 106 bé trai trên
100 bé gái được sinh ra thì tỷ số này năm 2008 là 112,1 tăng 6,1. Nhưng đến năm 2009
tỷ số giới tính khi sinh giảm xuống còn 110,5 bé trai trên 100 bé gái. Đây là một dấu
hiệu đang mừng nhưng sự giảm xuống này chưa được bao lâu thì lại tăng lên vào năm
2010 và tăng hơn nữa vào năm 2011(năm 2011 tỷ số này tăng đến 111,9). Từ năm
2009 đến nay, mặc dù đã có nhiều cảnh báo về hệ lụy của sự mất cân bằng giới tính
khi sinh nhưng tình trạng này duờng như chưa hề được khắc phục, mỗi năm tỷ số giới
tính khi sinh tăng khoảng 0,7 điểm phần trăm. SRB nếu không có sự can thiệp lựa
chọn giới tính thường từ 103 đến 105 bé trai trên bé gái nhưng ở Việt Nam thì tỷ số
giới tính khi sinh đều vượt quá mức tự nhiên. Lý giải điều này do các nguyên nhân:
- Việt Nam được xem là quốc gia có sự ưa thích về giới dẫn đến sự mất cân bằng giới
tính. Giá trị văn hóa truyền thống đã được lưu truyền qua các thể chế (gia đình phụ hệ,
cộng đồng làng xã), trong khi đó ưa thích con trai cũng phụ thuộc vào những chuyển
biến kinh tế xã hội gần đây ở Việt Nam.
- Tiếp cận công nghệ lựa chọn giới tính. Việt Nam được đánh giá là nước có sự mất cân
bằng giới tính xảy ra khá muộn so với nhiều nước trên thế giới nhưng xảy ra với tốc độ
nhanh và diễn biến phức tạp. Nguyên nhân là do sự mất cân bằng giới tính ở Việt Nam
diễn ra trùng với sự bùng nổ khoa học - công nghệ trên thế giới, giai đoạn này thế giới ghi
nhận sự tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực y tế, các bà mẹ mang thai có thể tiếp cận với máy
móc thiết bị hiện đại trong việc chẩn đoán, sàng lọc trước sinh. Mặc dù việc lựa chọn giới
tính bị cấm ở Việt Nam nhưng không thể loại bỏ được những tư tưởng đó trong suy nghĩ
của nhiều sản phụ. Việc họ sẵn sàng “vứt bỏ” đi đứa con họ không mong muốn diễn ra
thầm lặng và không ai có thể phạt họ được là điều dễ thấy. Và tâm lý ưa thích con trai vẫn
là sự lựa chọn hàng đầu cho các bà mẹ Việt Nam.
Đáng chú ý là giữa thành thị và nông thôn tỷ số giới tính khi sinh có sự khác biệt rõ rệt.
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng
Bất bình đẳng giới
Bảng 2 : So sánh tỉ số giới tính khi sinh chia theo thành thị/ nông thôn
qua các năm
ĐVT:%
Năm
Khu vực
2008/2006 2011/2008
Số lượng
(+/-)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(+/-)
Tỷ lệ
(%)
Toàn quốc 2,3 2,09 -0,2 -0,19
Thành thị 5,2 4,77 0 0
Nông thôn 1,4 1,27 -0,3 -0,27
ĐVT:%
Biểu đồ 2 : Tỷ số giới tính khi sinh phân chia theo thành thị/nông thôn giai đoạn
2006 - 2011
(Nguồn: Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình)
Tỉ số giới tính khi sinh ở thành thị và nông thôn nhìn chung đều có xu hướng tăng
lên rõ rệt. Cụ thể là năm 2006 SRB ở là 109,0 thì đến năm 2011 tỉ số này tăng lên đến
114,2, còn ở nông thôn năm 2006 SRB là 110,1 đã tăng lên 111,1 vào năm 2011. Tỷ số
giới tính khi sinh vượt quá mức tự nhiên là hệ quả của quan niệm thích con trai dẫn đến
hành vi lựa chọn giới tính thai nhi ở các cặp vợ chồng khi mang thai. Việc sử dụng siêu
âm để biết giới tính thai nhi hiện rất phổ biến. Tỷ lệ phụ nữ mang thai biết giới tính thai
nhi trước khi sinh tăng đều qua các năm, đặc biệt là ở nông thôn. Chẳng hạn, năm 2006 tỷ
lệ này ở nông thôn là 56,6% thì năm 2011 là 74,8%, các tỷ lệ tương ứng ở thành thị là
83,1% và 82,5%. Khi mang thai, hầu hết phụ nữ có tâm lý muốn biết sớm giới tính thai
nhi. Trên phạm vi cả nuớc, có một tỷ lệ rất ít phụ nữ mong muốn mình sẽ sinh con gái
(11%), tỷ lệ phụ nữ muốn sinh con trai cao gần gấp ba lần số phụ nữ muốn sinh con gái
(31%).Lựa chọn giới tính thai nhi sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng về xã hội do
thiếu phụ nữ và mất cân bằng giới tính của dân số trong tương lai. Chiến lược quốc gia về
Bình đẳng giới đề ra chỉ tiêu là tỷ số giới tính khi sinh không vượt quá 113 trẻ sơ sinh
trai/100 trẻ sơ sinh gái vào năm 2015 và 115/100 vào năm 2020. Đây là một trong những
lĩnh vực cần đặc biệt quan tâm với các biện pháp giáo dục và y tế kiên quyết nhằm phấn
đấu đạt chỉ tiêu nói trên trong thời gian tới.
2.5.2 Bất bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo
Nhóm 2 – Kinh tế và chính sách phát triển vùng