Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, những điểm mới, kiến nghị và hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.95 KB, 40 trang )


TIỂU LUẬN THỰC TẬP
ĐỀ TÀI:

CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO
••
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM
••••
2015, SỬA ĐỔI BỔ SUNG NĂM 2017,
NHỮNG ĐIỂM MỚI, KIẾN NGHỊ VÀ
HOÀN THIỆN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:
BLHS 2015

Bộ Luật Hình sự
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

CTTP:

Cấu thành tội phạm

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TAND:



Tịa án nhân dân

THTT:

Tiến hành tố tụng

QĐHP:

Quyết định hình phạt

NCTN

Người chưa thành niên

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự


MỤC LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian qua, pháp luật nước ta đã thể chế hóa các đường lối, chính sách

của Đảng, Nhà nước trong đó có nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện
các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược cải cách tư pháp đã
mang lại nhiều chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước.
Tuy nhiên, tình hình tội phạm ở nước ta vẫn diễn biến hết sức phức tạp, với những
phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, trong đó nhóm tội phạm do người dưới 18
tuổi (trước đây được gọi là người dưới 18 tuổi) thực hiện ngày càng gia tăng về số
lượng và tính chất. Điều này đặt ra u cầu cần phải có những chính sách pháp luật
hình sự phù hợp để vừa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, thể
hiện tính nghiêm minh của pháp luật đối với tội phạm nói chung vừa đảm bảo tính
nhân đạo trong việc giáo dục, phòng ngừa đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Pháp luật hình sự Việt Nam đã đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử lý hành vi
phạm tội của người dưới 18 tuổi, đó là những nguyên tắc cơ bản có tính chất chỉ
đạo, xun suốt trong q trình khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như
phân loại mức độ phải chịu trách nhiệm hình sự của từng lứa tuổi. Theo đó, người
dưới 18 tuổi ngay cả khi trở thành chủ thể của tội phạm thì việc bảo vệ các quyền và
lợi ích của họ cũng được tôn trọng và đặt lên hàng đầu, lấy mục đích xử lý giáo dục,
phịng ngừa là chính, làm sao để các em có thể quay lại trở thành cơng dân có ích
cho xã hội.
Trước tình trạng chung hiện nay, tội phạm có xu hướng trẻ hóa, tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng diễn biến phức tạp và gia tăng. Bên cạnh
đó, một số quy định về nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội còn chưa cụ
thể dẫn đến việc áp dụng các nguyên tắc này của các cơ quan tiến hành tố tụng còn
chưa thống nhất và triệt để trong việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, tình trạng áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đối với người dưới 18 tuổi. Do đó, nhằm bảo đảm thực hiện triệt để các nguyên
tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì những lý do trên, chúng tơi quyết định lựa
chọn đề tài "Các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy
định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, những điểm mới,



6

kiến nghị và hoàn thiện " để làm tiểu luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu liên quan đề tài này. Trước hết,
về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các cơng trình sau: 1) PGS.TS. Trịnh
Quốc Toản, "Chương XVIII - Những đặc thù về trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội", Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb
Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007 (Tập thể tác giả do GS.
TSKH. Lê Cảm chủ biên); 2) TS. Hoàng Văn Hùng, "Chương XVI - Trách nhiệm
hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội", Giáo trình luật hình sự Việt Nam,
Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2000 (tập thể tác giả do GS. TS Nguyễn Ngọc Hịa
chỉ biên); 3) PGS. TS Trần Đình Nhã, "Chương XXIV - Trách nhiệm hình sự đối
với người chưa thành niên phạm tội", Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2003 (tập thể tác giả do GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên); 4)
GS. TS Nguyễn Xuân Yêm, "Chương 27 - Phòng ngừa các tội phạm do người chưa
thành niên gây ra", Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2001; 5) ThS. Trịnh Đình Thể, Áp dụng chính sách hình sự đối
với người chưa thành niên phạm tội, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006; 6) TS. Vũ Đức
Khiển, Bùi Hữu Hùng, Phạm Xuân Chiến, Đỗ Văn Hán, Trần Phàn, Phòng ngừa
người chưa thành niên phạm tội, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1987; 7) ThS. Trần Đức
Châm, Thanh, thiếu niên làm trái pháp luật - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002; v.v...
Bên cạnh đó, dưới góc độ khoa học cho thấy mới có một số cơng trình ở cấp
độ luận văn thạc sĩ luật học nhưng dưới khía cạnh pháp lý hình sự hoặc tội phạm
học hay xem xét nội dung vấn đề trong tương quan với nhiều nội dung khác như
quyết định hình phạt, trách nhiệm hình sự người chưa thành niên: 1) Đào Thị Nga,
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật
học, trường Đại học Luật Hà Nội, 1997; 2) Trần Văn Dũng, Trách nhiệm hình sự
của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ

Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; 3) Nguyễn Minh Khuê, Quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; 4) Lưu Ngọc Cảnh, Các hình phạt và biện


7

pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự
Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn thạc
sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; v.v...
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu chun sâu về đề tài
“Các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, những điểm mới, kiến nghị và
hoàn thiện”.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các nguyên tắc xử lý đối với người
dưới 18 tuổi phạm trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2020 và rút ra những tồn
tại, hạn chế;
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam và những điểm mới.
5. Phương pháp nghiêncứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như:
phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so sánh, đối chiếu,
phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các giá trị tri thức khoa học luật
hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần được nghiên cứu trong luận văn này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài có ý nghĩa là tài liệu tham khảo cho những nhà nghiên cứu pháp luật,
sinh viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành pháp luật, đặc biệt là cán bộ trong các cơ

quan tư pháp đang hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến
người dưới 18 tuổi, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác giáo dục, cải tạo và
phòng ngừa đối tượng người dưới 18 tuổi, một đối tượng đặc thù ở nước ta hiện
nay.
7. Kết cấu luận văn

Ngồi
nội
dung
phần
của
mởtiễn
luận
đầu,
văn
kết
gồm
luận
3lý

chương:
danh
mục
Chương
tài
1:
liệu
Một
tham
số

vấn
khảo,
đề
chung
tội

về
những
các
điểm
ngun
mới
tắc
xử
đối
với
người
dưới
2015
18
sửa
tuổi
đổi,
phạm
bổ
sung
năm
2017;
Chương
2:

Nội
Bộ
dung
luật
các
hình
ngun
sựsự
Việt
tắc
xử
Nam

hiện
người
hành
những

giải
thực
pháp
bảo
thi
đảm
hành;
thi
Chương
hành
các
3:

ngun
Hồn
thiện
tắc
xử
pháp

người
luật

dưới
18
tuổi
phạm
tội
trong
pháp
luật
hình
Việt
Nam.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ 2015 SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017
1.1.

••~

Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý người

dưới 18 tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
ơ
1.1.1.

1 •

” •
• •
Khái niệm các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trong

luật hình sự Việt Nam
Đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta ln quan tâm
chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em, hệ thống pháp luật, chính sách, chăm sóc bảo
vệ trẻ em đã từng bước được hoàn thiện. Trẻ em được cộng đồng quan tâm, giáo dục
và bảo vệ trước hành vi xâm hại và ngay cả khi các em là chủ thể của tội phạm thì
pháp luật hình sự cũng dành cho các em sự quan tâm đặc biệt. Theo Bộ luật hình sự,
việc xử lý, giải quyết các vụ án do người dưới 18 tuổi phạm tội phải tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 91 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung
2017. Đó là các "Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội"
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng như các sách, báo chuyên khảo
hoặc công trình nghiên cứu đã có phân tích các ngun tắc cũng như đường lối xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội và đã làm rõ những đặc điểm đặc trưng của các nguyên
tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
Thứ nhất, các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội thể hiện tính
nhân đạo sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện xuyên suốt trong
các nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 91 Bộ luật hình sự mà điển hình là nguyên tắc
thứ nhất - Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của
người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai

lầm, phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người
dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội
phạm. Đây là nguyên tắc thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo đặc biệt, nó phản ánh
chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực


hiện. Nhân đạo, như đã nêu là phạm trù đạo đức thừa nhận và tôn trọng danh dự,
nhân phẩm của con người, coi con người là giá trị cao nhất, coi mục đích của các q
trình phát triển xã hội và của sự tiến bộ xã hội là vì lợi ích của mọi người và đặc biệt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội với sự hạn chế nhất định về năng lực nhận thức
và năng lực hành vi thì yêu cầu về tính nhân đạo phải được đặt lên hàng đầu.
Thứ hai, các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật
hình sự Việt Nam thể hiện tính cụ thể, nhân văn. Điều này được thể hiện ở chỗ không
phải tất cả những người dưới 18 tuổi phạm tội đều xử lý bằng hình sự. Theo khoa
học luật hình sự, tội phạm do người dưới 18 tuổi gây ra khi thỏa mãn các điều kiện
sau:
- Phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội;
- Do người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự tương ứng với từng loại tội phạm và lỗi gây ra;
- Có lỗi, riêng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy
định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,
171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và
304 của BLHS này.
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội do người dưới 18 tuổi thực hiện phải được
Bộ luật hình sự quy định là tội phạm
- Người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có thẩm
quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà khơng thể áp dụng các biện
pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội

phạm...
Do vậy, bên cạnh việc xử lý hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội, pháp luật
hình sự nước ta cịn quy định các biện pháp xử lý khác như miễn trách nhiệm hình
sự, áp dụng các biện pháp tư pháp v.v...
Trong q trình giải quyết vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội, các cơ quan
tiến hành tố tụng ngoài việc điều tra, xác minh sự thật khách quan vụ án còn phải xác
định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm, để từ đó đưa ra biện pháp xử lý mang


lại hiệu quả giáo dục tốt nhất cho người chưa thành niên phạm tội hoặc kiến nghị
phòng ngừa tội phạm. Khi áp dụng chế tài xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
những người tiến hành tố tụng chỉ được áp dụng hình phạt nếu thấy thực sự cần thiết
và đặc biệt phải hạn chế hình phạt tù. Điều này đòi hỏi những người tiến hành tố
tụng phải hiểu và đồng tình với quan niệm nhà tù là lựa chọn cuối cùng để xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ ba, các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật
hình sự Việt Nam đều nhằm mục đích giáo dục, tái hịa nhập cộng đồng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Nhấn mạnh điều này, các nhà làm luật đã quy định ngay
tại nguyên tắc đầu tiên trong Điều 91 Bộ luật hình sự - Việc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh
và trở thành công dân có ích cho xã hội. Điều đó cho thấy các biện pháp áp dụng
người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ thấy được tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật và giúp đỡ họ trở
thành công dân có ích. Việc quy định án đã tun đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội khi chưa đủ 16 tuổi khơng được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm
cũng thể hiện đặc điểm này, việc quy định như vậy đã tạo điều kiện để người dưới 18
tuổi có thể tái hịa nhập cộng đồng, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần,
cũng như tránh mặc cảm tội lỗi của bản thân người dưới 18 tuổi và cái nhìn thiếu
thiện cảm, dị nghị của xã hội đối với người đó sau nay khi đã trở thành người thành

niên.
Ngoài ra, các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phản ánh tính
hướng thiện của người dưới 18 tuổi. Người dưới 18 tuổi là đối tượng chưa phát triển
đầy đủ về mặt thể chất cũng như tâm, sinh lý nên họ dễ bị lôi kéo, kích động vào
hành vi phạm tội, tuy nhiên họ cũng dễ thay đổi, cải tạo, trở thành người lương thiện
và cơng dân có ích cho xã hội nếu được quan tâm, giáo dục đúng phương pháp trong
một môi trường sinh hoạt lành mạnh. Nhận thức được điều này, các nhà làm luật đã
quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự
nhằm đề cao tính hướng thiện, tự hồn thiện bản thân của người dưới 18 tuổi.
Thứ tư, các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội hạn chế sử dụng
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Người dưới


18 tuổi phạm tội có thể được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã phường, thị
trấn hoặc nếu bị áp dụng hình phạt thì chỉ thực sự cần thiết, hạn chế hình phạt tù,
khơng áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Điều này thể hiện không phải mọi trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội đều bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra khi nó thật sự cần thiết và
ngay cả khi người dưới 18 tuổi phạm tội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì vẫn
có khả năng khơng bị áp dụng hình phạt, thay vào đó họ có thể áp dụng các biện
pháp tư pháp nếu biện pháp này đủ tác dụng cải tạo thành cơng dân có ích cho xã
hội. Mặt khác, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, hình phạt khơng phải biện pháp
răn đe, phịng ngừa chungcàng khơng phải là biện pháp trừng trị mà mục đích cuối
cùng chỉ là giáo dục, cải tạo họ thành cơng dân có ích.
Từ những đặc điểm trên tác giả có thể đưa ra một khái niệm về các nguyên tắc
xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội như sau: Các nguyên tắc xử lý đối với người dưới
18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam là những định hướng, tư tưởng
chỉ đạo, thể hiện chính sách hình sự khoan hồng và nguyên tắc nhân đạo của Đảng
và Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, qua đó góp phần cải tạo, giáo

dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích
cho gia đình và xã hội.
1.1.2.

Những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18

tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
Nhà nước ta thừa nhận người dưới 18 tuổi (trong đó bao gồm cả người chưa
dưới 18 tuổi phạm tội) là một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù, cần phải được sự bảo
trợ của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Sự bảo trợ đặc biệt này
khơng chỉ khi người dưới 18 tuổi là đối tượng của sự xâm hại mà ngay cả khi họ là
chủ thể của hành vi phạm tội. Điều 37 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: "Trẻ em
được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục"1.
Trước khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực, Nhà nước ta đã ban hành
nhiều quy định về tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như Nghị định số
60/CP của Chính phủ ngày 16/9/1993 quy định về bảo đảm các nguyên tắc cơ bản
1Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.


của quyền trẻ em như: không được tra tấn hoặc đối xử tàn tệ, xúc phạm nhân phẩm,
danh dự; Người dưới 18 tuổi phạm tội không được giam giữ chung với người thành
niên; Trong thời gian bị giam giữ các em được giáo dục sửa chữa sai lầm, khuyết
điểm được chăm sóc sức khỏe, học văn hóa, học nghề, vui chơi giải trí, và được tiếp
xúc người thân.
Tuy nhiên, văn bản pháp luật về người dưới 18 tuổi trong thời kỳ này vẫn cịn
khơng ít sơ hở, thiếu nhất qn. Một trong những thiếu sót đó là các văn bản luật và
dưới luật còn lạc hậu, chồng chéo hoặc chậm được ban hành cho phù hợp với tình
hình, dù đã có nhiều nghị quyết, văn bản của Đảng, Nhà nước chỉ đạo, xác định
nhưng những căn cứ pháp lý quy định trách nhiệm của các chủ thể thực hiện công tác
phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn còn chưa rõ ràng; hoặc nếu có xác định

thì cịn chung chung, trùng lặp, chưa rõ ràng, rằng buộc trách nhiệm cụ thể. Đó là lỗ
hổng của pháp luật, mặt khác cũng vơ tình gây khó khăn cho khâu thực hiện.
Trước tình hình cấp thiết đó, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật hình sự năm
1999 và tiếp đó là luật sửa đổi bổ sung luật hình sự năm 2009 hoàn thiện hơn các
nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, khắc phục những thiếu sót trên. Tuy
nhiên BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 đã dần dần bộc lộ những hạn chế, thiếu
xót nhất định về việc quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Lại
một lần nữa Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung luật
hình sự năm 2017 nhằm hồn thiện hơn các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội trước tình hình thực tiễn đề ra.
Cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội này
chính là những căn cứ riêng thể hiện nội dung cơ bản và lợi ích xã hội tương ứng của
chính sách hình sự về người dưới 18 tuổi, đồng thời phản ánh quy luật phát triển
khách quan tác động đến quá trình hình thành các nguyên tắc xử lý người dưới 18
tuổi phạm tội có khả thi, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục nhằm đấu tranh có
hiệu quả với tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Từ khái niệm trên,
chúng ta có thể đưa ra những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người
dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
Cơ sở thứ nhất, việc quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm
tội phải dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ được thừa nhận chung của nền văn


minh nhân loại.
Nền văn minh nhân loại, tư tưởng tiến bộ ấy được đúc kết trong Công ước
quốc tế về quyền trẻ em. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu tiến bộ đó, Nhà nước ta
đã thúc đẩy hồn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó đã dành sự
quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật, mà cụ thể Bộ luật hình sự
đã quy định về các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, đó là những
ngun tắc có tính chỉ đạo, xun suốt trong q trình giải quyết vụ án do người dưới
18 tuổi phạm tội; hay như dựa vào các điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội,

lịch sử - truyền thống của đất nước có sự tham khảo, nghiên cứu các quy định của
pháp luật hình sự nước ngồi chúng ta xây dựng nên độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự.
Cơ sở thứ hai, việc quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm
tội dựa trên những luận chứng khoa học thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa khoa học
pháp lý với các ngành khoa học khác. Trước xu thế tất yếu về hội nhập của Việt Nam
với các nước trong khu vực và trên thế giới, khi tình trạng tội phạm trong nước ngày
càng trẻ hóa, tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng diễn biến phức tạp
thì việc quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải có được
ba tiêu chí cơ bản: khách quan, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Chính sách
hình sự về người dưới 18 tuổi phạm tội nói chung và nguyên tắc xử lý người dưới 18
tuổi phạm tội nói riêng khơng thể là một mục đích tự thân vận động nên để cho
những vấn đề trên đạt được ba tiêu chí trên thì nhất thiết chúng ta phải ứng dụng các
thành tựu khoa học khác như khoa học về tâm lý, sinh lý về người dưới 18 tuổi, xã
hội học về người dưới 18 tuổi. Qua nghiên cứu về khoa học tâm lý người dưới 18
tuổi chúng ta nhận thấy ở độ tuổi này các em thường nghịch ngợm, muốn tỏ lịng
dũng cảm, khơng muốn thua kém người khác, đánh giá sai tình huống và các giá trị
chuẩn mực trong các mối quan hệ xã hội, dễ dàng chịu sự ảnh hưởng người khác qua
đó chúng ta nhận thấy động cơ của phần đông người dưới 18 tuổi phạm tội thường
mang tính đặc thù của tuổi trẻ nên khả năng phục thiện của các em nhanh hơn. Bên
cạnh đó, đối với người dưới 18 tuổi, khi tâm lý cá nhân đang hình thành, thì những
thiếu sót của việc giáo dục trong gia đình, nhà trường, nơi sản xuất, nơi cư trú trong
nhiều trường hợp lại là nguyên nhân trực tiếp đẩy họ bước vào con đường phạm tội.


Chính những điều này là luận chứng khoa học, giao người dưới 18 tuổi phạm tội cho
gia đình, xã hội giáo dục.
Cơ sở thứ ba, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của các cơ quan bảo
vệ pháp luật và Tòa án trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện. Với chức năng là các cơ quan trực tiếp đấu tranh, phòng chống tội

phạm nói chung, tội phạm là người dưới 18 tuổi nói riêng, các cơ quan bảo vệ pháp
luật trong quá trình hoạt động của mình phải đúc kết những kinh nghiệm, bài học
thực tiễn trong quá trình giải quyết những vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện. Tịa
án thơng qua hoạt động xét xử của mình, tổng kết các biện pháp xử lý (hình phạt, các
biện pháp tư pháp) có tác dụng giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội đồng
thời cũng có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
1.2.

Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18

tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
Từ sự phân tích khái niệm các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội và các đặc điểm của nó, chúng ta nhận thấy việc quy định các nguyên tắc
xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa chính trị,
xã hội, đạo đức và thực tiễn rất to lớn:
Thứ nhất, việc quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội thể
hiện sự minh chứng rõ ràng pháp luật hình sự Việt Nam được xây dựng trên triết lý,
tư tưởng nhân đạo của dân tộc có sự kế thừa nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ
của nền văn minh nhân loại. Nó thể hiện nguyên tắc cơng bằng, nhân đạo và nhằm
mục đích giáo dục phòng ngừa đối với người dưới 18 tuổi - là nhóm nhân khẩu đặc
biệt cần quan tâm, bảo vệ.
Thứ hai, việc quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội dựa
trên những cơ sở khoa học - thực tiễn khách quan, có căn cứ và đảm bảo sự thuyết
phục chính là điều kiện chủ yếu và cần thiết mà nếu như thiếu nó thì việc đấu tranh,
phòng ngừa với loại tội phạm người dưới 18 tuổi sẽ khơng thành cơng. Bởi vậy nó là
kim chỉ nam, là sợi chỉ xuyên suốt cho cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào đó để có
cách giải quyết vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội một cách cơng minh, có căn cứ,
đảm bảo việc giáo dục, phòng ngừa đối với người dưới 18 tuổi.
Thứ ba, xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xã hội nói chung,



thực tiễn lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta. Trải qua nhiều lần pháp
điển hóa Bộ luật hình sự với việc hồn thiện các ngun tắc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội đã đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, phù hợp sự phát triển của xã hội.
Như vậy, từ sự phân tích trên cho thấy vai trò, cũng như ý nghĩa quan trọng
của các nguyên tắc xử lý hình sự về người dưới 18 tuổi phạm tội trong việc đấu tranh
phòng ngừa tội phạm người dưới 18 tuổi mà còn là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu
các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam.
1
.3. Điểm mới về các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trong
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có sự
thay đổi về tên gọi từ “người chưa thành niên” thành “người dưới 18 tuổi”.
Bổ sung nguyên tắc: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm
lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi” (khoản 1 Điều 91). Với quy định này, khơng
có nghĩa là coi nhẹ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
khác mà nội dung của nguyên tắc có ý nghĩa định hướng cho các cơ quan tiến hành
tố tụng khi quyết định lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với người dưới 18 tuổi,
nhằm tìm ra biện pháp phù hợp nhất đối với người dưới 18 tuổi trong mối quan hệ
hài hòa với các lợi ích khác.
Sửa đổi nguyên tắc: “Khi xét xử, nếu thấy khơng cần thiết phải áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thì Tịa án áp dụng một trong các biện
pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này” tại khoản 4 Điều 69 Bộ luật
Hình sự năm 1999 thành: “Khi xét xử, Tịa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một
trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo
dục, phòng ngừa” (khoản 4).
Đồng thời bổ sung nguyên tắc: “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn

đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục
khác khơng có tác dụng răn đe, phòng ngừa” (khoản 6 Điều 91). Như vậy, BLHS


2015 đã quy định rõ hơn khi nào thì cần thiết áp dụng hình phạt tù đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Cịn tại BLHS 1999 lại khơng quy định rõ khi nào sẽ áp dụng
hình phạt tù đối với NCTN phạm tội. Điều này đã làm cho việc áp dụng hình phạt tù
ở NCTN phạm tội một cách tràn lan, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của NCTN
phạm tội.
Trong BLHS 2015 đã bỏ đi phần “không áp dụng hình phạt tiền đối với
NCTN phạm tội ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi” mà trong BLHS 1999 có quy định
tại khoản 5 Điều 69. Hình phạt tiền quy định trong BLHS 1999 và BLHS 2015 tùy
trong từng trường hợp mà được coi là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Tuy
nhiên, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, hình phạt tiền được xem là hình phạt
chính, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Như vậy, chỉ cần là người
dưới 18 tuổi phạm tội, tùy theo mức độ tội phạm, nhân thân người phạm tội mà có
thể áp dụng hình phạt tiền. Quy định mới này nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt
tù đối với người dưới 18 tuổi đồng thời việc áp dụng phạt tiền đối với người dưới 18
tuổi phạm tội trong những trường hợp này vẫn đảm bảo đạt được mục đích của hình
phạt.
Với việc sửa đổi và bổ sung các nguyên tắc trên, Bộ luật hình sự mới được
thiết kế để đảm bảo tính nhân đạo và tạo cơ hội cho những người dưới 18 tuổi được
giáo dục, cảm hóa, sửa chữa lỗi lầm.
Kết luận chương 1
Người dưới 18 tuổi phạm tội là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về tâm, sinh
lý, họ bị hạn chế về trình độ nhận thức pháp luật cũng như kinh nghiệm sống, dễ bị
kích động, lơi kéo vào những hoạt động phiêu lưu mạo hiểm nên họ dễ bị phạm tội
nhưng ngược lại họ cũng dễ được cảm hóa, giáo dục để trở thành người có ích cho xã
hội. Chính vì vậy chính sách hình sự về người dưới 18 tuổi phạm tội nói chung và
nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng được Đảng và nhà nước quan

tâm, và là kim chỉ nam, là sợi chỉ xuyên suốt cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng căn cứ vào đó để có cách giải quyết vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội một
cách cơng minh, có căn cứ, đảm bảo việc giáo dục, phòng ngừa đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.


Chương 2
NỘI DUNG CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH
2.1. Nội dung các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ
luật hình sự Việt Nam hiện hành
Quy định của BLHS năm 2015 về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội so với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có
sự thay đổi về tên gọi từ “người dưới 18 tuổi” thành “người dưới 18 tuổi” và đề cao
nguyên tắc bảo vệ lợi ích tốt nhất khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Điều 91 BLHS năm 2015 quy định bảy nguyên tắc xử lý đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi
ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội. Việc
xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của
họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện
gây ra tội phạm.
Theo nguyên tắc này, bảo đảm lợi ích tốt nhất và chủ yếu nhằm mục đích giáo
dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội là trong mọi tình huống, mọi trường hợp
Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện và áp
dụng các biện pháp phi hình phạt đối với họ. Các cơ quan tiến hành tố tụng khi điều
tra, truy tố, xét xử phải xác định độ tuổi của người phạm tội. Tuổi càng ít thì khả
năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội càng hạn chế, ngay cả khi đối với

những người cùng độ tuổi, không phải người nào cũng có khả năng nhận thức như
nhau, người ở thành phố nhận thức khác người ở vùng sâu, vùng xa, người có trình
độ văn hóa cao nhận thức khác người có trình độ văn hóa thấp ...
Nội dung quan trọng của nguyên tắc này còn đòi hỏi Cơ quan tiến hành tố
tụng phải xác định nguyên nhân và điều kiện khiến người dưới 18 tuổi thực hiện
hành vi phạm tội. Yêu cầu của nguyên tắc này là giáo dục, giúp đỡ người dưới 18
tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho


xã hội. Do đó, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi cũng phải thể hiện
sao cho bảo đảm việc giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, chứ khơng nhằm trừng trị. Do đó
ngay từ khi khởi tố, điều tra, Cơ quan điều tra không chỉ áp dụng các biện pháp pháp
lý có lợi nhất, đồng thời phải quán triệt tinh thần là: Nếu không cần thiết bắt giữ tạm
giữ, tạm giam đối với họ thì khơng được áp dụng các biện pháp này. Mặt khác, phải
bảo đảm các quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với họ như: Phải có
người bào chữa ngay từ khi bị bắt; nếu trường hợp buộc phải bắt giữ để ngăn chặn
hành vi nguy hiểm cho xã hội thì sau khi bị bắt, nếu có người bảo lĩnh hoặc thấy việc
cho tại ngoại không gây ảnh hưởng cho xã hội thì cương quyết phải cho tại ngoại.
Nguyên tắc thứ hai: Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả,
nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được
miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này.
Điều 29 BLHS năm 2015 quy định các trường hợp được miễn hoặc có thể
được miễn TNHS đối với bất cứ người nào không phân biệt người dưới 18 tuổi hay
trên 18 tuổi. Tuy nhiên, đối với người dưới 18 tuổi thì việc miễn TNHS, ngồi các
quy định tại Điều 29 của BLHS thì Cơ quan tiến hành tố tụng còn phải căn cứ vào
quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS.
Các trường hợp mà người dưới 18 tuổi có thể được miễn TNHS gồm:
-


Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội
nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều
171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều
249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép
chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội
chiếm đoạt chất ma túy) của BLHS;

-

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại
khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội
giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều


150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều
168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất
trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250
(tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất
ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
- Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trị khơng đáng kể
trong vụ án.
Nguyên tắc thứ ba: Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi
phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân
thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của
việc phòng ngừa tội phạm.
Đây là nguyên tắc đã được quy định từ BLHS năm 1985, khi hành vi phạm tội
của họ ở mức độ nghiêm trọng nhất định, nhân thân xấu và xét thấy việc áp dụng các

biện pháp giáo dục và tác động khác của xã hội không đủ hiệu lực để phòng ngừa
riêng và phòng ngừa chung thì mới tiến hành truy cứu TNHS.
Nguyên tắc thứ tư: Khi xét xử, Tịa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một
trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo
dục, phòng ngừa.
Nội dung nguyên tắc này đòi hỏi các Tịa án chỉ áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS hoặc áp dụng một trong
các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại trường giáo dưỡng nhưng khơng
có hiệu quả. Như vậy, trước khi Tịa án áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
thì phải áp dụng các biện pháp khơng phải là hình phạt trước. Tuy nhiên, trên thực tế
Tòa án chỉ cân nhắc và xem xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội để quyết định có áp dụng hình phạt hay khơng. Nếu xét thấy khơng cần áp
dụng hình phạt thì mới áp dụng các biện pháp giáo dục khác.
Nguyên tắc thứ năm: Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.


Đây là nguyên tắc xử lý, đồng thời cũng là căn cứ quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định từ BLHS năm 1985 và được nhắc lại
tại BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, thể hiện thái độ của Nhà nước ta dứt khốt
khơng áp dụng hình phạt tử hình và chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội;
quy định này thể hiện được nguyên tắc không lấy trừng trị là mục đích của hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Nguyên tắc thứ sáu: Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác
khơng có tác dụng răn đe, phịng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tịa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được

hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội
tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Đây cũng là nguyên tắc xử lý, đồng thời cũng là căn cứ quyết định hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Nội dung của nguyên tắc này cũng tương tự như
nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 91 BLHS. Tuy nhiên, đây là căn cứ áp dụng
hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Như vậy, BLHS 2015 đã quy định rõ hơn khi nào thì cần thiết áp dụng hình
phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Cịn tại BLHS 1999 lại khơng quy định
rõ khi nào sẽ áp dụng hình phạt tù đối với NCTN phạm tội. Điều này đã làm cho việc
áp dụng hình phạt tù ở NCTN phạm tội một cách tràn lan, ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích của NCTN phạm tội.
Trong BLHS 2015 đã bỏ đi phần “không áp dụng hình phạt tiền đối với
NCTN phạm tội ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi” mà trong BLHS 1999 có quy định
tại khoản 5 Điều 69. Hình phạt tiền quy định trong BLHS 1999 và BLHS 2015 tùy
trong từng trường hợp mà được coi là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Tuy
nhiên, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, hình phạt tiền được xem là hình phạt
chính, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Như vậy, chỉ cần là người
dưới 18 tuổi phạm tội, tùy theo mức độ tội phạm, nhân thân người phạm tội mà có
thể áp dụng hình phạt tiền. Quy định mới này nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt
tù đối với người dưới 18 tuổi đồng thời việc áp dụng phạt tiền đối với người dưới 18


tuổi phạm tội trong những trường hợp này vẫn đảm bảo đạt được mục đích của hình
phạt.
Ngun tắc thứ bảy: Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì
khơng tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Việc không quy định đối với người chưa đủ 16 tuổi bị coi là tái phạm hoặc tái
phạm nguy hiểm cũng là thể hiện nguyên tắc không coi việc trừng trị là mục đích đối
với người dưới 16 tuổi và tạo điều kiện cho các em phát triển bình thường trong cuộc

sống trước mắt và lâu dài, vì đối với người chưa đủ 16 tuổi cịn cả một tương lai phía
trước.
2.2. Thực tiễn thi hành các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành
2.2.1.

Thực trạng thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành

niên phạm tội
Công tác điều tra, xử lý tội phạm và đặc biệt công tác xét xử các tội phạm do
người dưới 18 tuổi phạm tội địi hỏi khơng những phải bảo đảm tính nghiêm minh
của pháp luật mà cịn phải thể hiện quan điểm chính thống - coi người dưới 18 tuổi
phạm tội là đối tượng có đặc điểm đặc biệt, một chủ thể cần được giúp đỡ, giáo dục
để trở thành cơng dân có ích cho gia đình và xã hội. Vì vậy, những năm qua, đa số
người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật (trong đó có một phần vi phạm pháp luật hình
sự) được xử lý bằng biện pháp khơng bằng các hình phạt chính mà bằng các biện
pháp hành chính nhằm giáo dục, giúp đỡ họ như: đưa vào trường giáo dưỡng, giáo
dục tại xã, phường, thị trấn, giao cho gia đình, chính quyền địa phương giáo dục. Tuy
nhiên thực tiễn cho thấy, khi phát hiện trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội vi
phạm pháp luật hình sự, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thẩm quyền
đã tiến hành thu thấp các tài liệu, xác minh đánh giá bước đầu về tính chất vụ việc
xảy ra, nhân thân người vi phạm, hậu quả và các tình tiết có liên quan để có hướng
xử lý phù hợp, phân hóa đối với dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật hay phạm tội.
Trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo một số bản án đã xét xử trên thực tế đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, tác ngả nhận thấy việc vận dụng các quy định pháp luật
luật sự, cũng như các nguyên tắc trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội có lúc, có
nơi còn chưa thống nhất, tác giả rút ra một số vụ án điển hình sau.


Vụ án thứ nhất: Bản án số 37/2018/HSST của Tòa án nhân dân huyện Đức

Phổ ( tỉnh Quảng Ngãi) tuyên phạt bị cáo Nguyễn Hùng T. (17 tuổi) phạm tội trộm
cắp tài sản (trị giá tài sản 4 triệu đồng) với hình phạt 5 tháng tù cho hưởng án treo
mặc dù trong quá trình tố tụng bị cáo khai báo thành khẩn, gia đình đã bồi thường
thiệt hại, khắc phục hậu quả, có đơn xin bảo lãnh.
Vụ án thứ hai: Bản án số 18/2019/HSST của Tòa án nhân dân huyện Bố
Trạch (tỉnh Quảng Bình) tuyên phạt bị cáo Châu Văn K. (17 tuổi 8 tháng) phạm tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (trị giá tài sản 7 triệu đồng) với hình phạt 8
tháng cải tạo khơng giam giữ mặc dù bị cáo đang là học sinh, khai báo thành khẩn,
gia đình đã bồi thường thiệt hại và đứng ra nhận bảo lãnh.
Qua việc xét xử trong thực tiễn nêu trên, tác giả nhận thấy hai trường hợp này,
mặc dù bị cáo có đủ điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự nhưng Tịa án lại áp dụng
hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ là không
thực hiện đúng tinh thần của nguyên tắc thứ hai trong việc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội: Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và
có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm
hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này.
Vụ án thứ ba: Bản án số 28/2018/HSST ngày 28/10/2018 của Tòa án nhân
dân huyện Vũ Quang (tỉnh Hà Tĩnh), phạt bị cáo Nguyễn V. H 20 tháng tù về tội trộm
cắp tài sản vẫn còn hơi nặng so với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi do bị cáo thực hiện, khi gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường được 1/2 giá trị
tài sản trộm cắp, bị cáo mới 17 tuổi.
Vụ án trên chỉ là những ví dụ điển hình cho việc áp dụng khơng triệt để
ngun tắc thứ sáu: Tịa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới
18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có tác
dụng răn đe, phịng ngừa.
Do đó tình trạng hình phạt cịn hơi nặng so với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, nhân thân của người phạm tội cũng như các tình tiết khách
quan của vụ án, qua đó làm giảm đi hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm nói chung, tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.



Vụ án thứ tư: Bản án số 66/2018/HSST của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lộc
(tỉnh Lâm Đồng) xử phạt Nguyễn Văn H. (18 tuổi) về tội cướp tài sản với tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm: 5 năm tù. Trước đó, năm 2016, H (khi đó
chưa đủ 16 tuổi) phạm tội đánh bạc bị xử phạt 12 tù nhưng cho hưởng án treo, thử
thách 24 tháng.
Tác giả nhận thấy, Tòa án vi phạm nguyên tắc thứ bảy: Án đã tuyên đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì khơng tính để xác định tái phạm.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã kháng nghị phúc thẩm đối với bản án trên.
Tháng 9/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã xét xử phúc thẩm và chấp nhận
kháng nghị của Viện kiểm sát.
2.2.2

Đánh giá thực trạng thi hành các nguyên tắc xử lý người người dưới

18 tuổi phạm tội
Qua quá trình khảo sát, đánh giá thực trạng, tình hình áp dụng các nguyên tắc
xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trên cho thấy một số những nét cơ bản sau:
- Trước hết, trong những năm gần đây, số vụ và số lượng người dưới 18 tuổi
phạm tội ngày càng gia tăng, tính chất, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng
(thậm chí có những vụ án gây chấn động dư luận như vụ Lê Văn Luyện phạm tội giết
người cướp tài sản tại Bắc Giang, vụ Lê Tuấn Anh phạm tội giết người, hiếp dâm tại
Thanh Hóa...), đã xuất hiện tội phạm người dưới 18 tuổi theo kiểu băng nhóm, có tổ
chức, phạm tội sử dụng bạo lực, cơn đồ hung hãn. Đứng trước tình hình đó, khơng
chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng mà các tổ chức, đoàn thể và cả hệ thống chính trị
đều vào cuộc tham gia phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh với các hành vi phạm tội
của người dưới 18 tuổi phạm tội bên cạnh đó, gia đình, nhà trường, đồn thể cũng tạo
điều kiện, động viên người dưới 18 tuổi để họ nhanh chóng cải tạo, rèn luyện thành
cơng dân có ích cho xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng thường xuyên nâng cao cơ

chế phối hợp, đổi mới hoạt động để thực hiện vai trị nịng cốt, xung kích trong việc
đấu tranh, phịng chống và ln coi việc giáo dục, phòng ngừa người dưới 18 tuổi
phạm tội là mục đích chính của việc giải quyết vụ án. Do vậy việc khởi tố và tiến
hành các biện pháp điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn đều đảm bảo đúng các quy
định của pháp luật hiện hành, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18
tuổi. Khơng có trường hợp nào oan, sai hay vi phạm pháp luật trong việc xử lý người


dưới 18 tuổi phạm tội.
- Việc thi hành các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội khó khăn
nhất định:
Về mặt khách quan, đất nước ta đang trong quá trình mở cửa hội nhập, chịu sự
tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được
giải quyết (như: tình trạng thất nghiệp, đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó
khăn, tình hình tội phạm trong khu vực và quốc tế phức tạp nhất là tình hình tội phạm
về ma túy và việc tràn lan các loại văn hóa phẩm độc hại...). Vì vậy, tình hình tội
phạm nói chung và tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện vẫn đang
trong xu hướng diễn biến phức tạp, tính chất nghiêm trọng. Đặc biệt tội phạm có sử
dụng bạo lực, tính chất "nhóm" và có tổ chức ngày càng tăng, gây nhiều khó khăn
cho cơng tác phịng ngừa, điều tra, tuy tố và xét xử.
Về mặt chủ quan, công tác phịng, chống tội phạm nói chung cịn nặng về mặt
chống, chưa chú ý đúng mức cơng tác phịng ngừa, lực lượng trực tiếp làm cơng tác
phịng ngừa, điều tra xử lý tội phạm và các vi phạm pháp luật ở người dưới 18 tuổi
còn thiếu và chưa được chuyên mơn hóa, chưa đáp ứng được địi hỏi của thực tiễn,
chưa nắm chắc về chính sách hình sự của Nhà nước và nguyên tắc xử lý đối với
người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật và phạm tội, nên nhiều trường hợp cịn áp dụng
máy móc và dập khn. Ngồi ra, cơng tác phối hợp giữa gia đình, nhà trường, các
cơ quan, tổ chức và xã hội trong việc quản lý, giám sát, chăm sóc, giáo dục người
dưới 18 tuổi còn chưa chặt chẽ, sâu sát còn để các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã
hội xâm nhập vào, dẫn đến việc họ vi phạm pháp luật và phạm tội.

- Về mặt lập pháp, chính sách và hệ thống pháp luật, theo đó, hệ thống pháp
luật về phịng ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật trong lứa tuổi dưới 18 tuổi còn thiếu
các văn bản hướng dẫn mang tính đồng bộ, ở một chừng mực nhất định cịn chưa cụ
thể hóa nhiều văn bản pháp luật quốc tế, do đó, cịn dẫn đến tình trạng một số quy
phạm pháp luật liên quan đến tư pháp người dưới 18 tuổi khó thực hiện (như vấn đề
giam giữ riêng người dưới 18 tuổi, vấn đề tái hòa nhập cộng đồng, chuyển hướng xử
lý sang áp dụng biện pháp tư pháp hình sự hoặc miễn trách nhiệm hình sự...). Cịn
nặng về xử lý, đưa vào áp dụng các chế tài pháp lý hình sự, cơng tác kiểm tra, giám
sát việc phịng ngừa tội phạm trong lứa tuổi dưới 18 tuổi chưa được quan tâm chỉ đạo


đúng mức, nhiều vấn đề khó khăn, bất hợp lý trong quá trình thực hiện chưa được
kiến nghị hay đề xuất sửa đổi, bổ sung kịp thời theo kịp yêu cầu của thực tiễn.
2.3. Những tồn tại trong thực tiễn thi hành và vướng mắc trong lập pháp
hình sự liên quan đến việc áp dụng các nguyên tắc xử lý người dưới 18
tuổi phạm tội
Trên cơ sở đánh giá tình hình thi hành các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội trong Bộ luật hình sự như đã nêu ở phần trên, việc áp dụng các nguyên tắc
này của Bộ luật hình sự cịn có những tồn tại trong thực tiễn và các vướng mắc trong
lập pháp hình sự như sau:
* Những tồn tại trong thực tiễn thi hành
Một là, việc quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trong
Điều 91 Bộ luật hình sự chưa dẫn đến sự thống nhất trong việc áp dụng hình phạt,
trong đó việc áp dụng hình phạt tù là chủ yếu. Theo đó, điều luật đã quy định rõ sáu
nguyên tắc xử lý nhưng nhiều nguyên tắc rất cần được hướng dẫn để áp dụng thống
nhất trong thực tiễn áp dụng, như:
"Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của
người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội"2.
"Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội và áp dụng

hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào
tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc
phịng ngừa tội phạm"3. Do chưa có hướng dẫn cụ thể nên việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn được áp dụng theo quy định chung.
Hai là, việc cho người dưới 18 tuổi phạm tội hưởng án treo (một biện pháp
miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện) cịn rất nhiều, nhưng chưa có nguyên tắc
ưu tiên áp dụng biện pháp này trong các nguyên tắc xử lý.
Ba là, các Tịa án nhân dân cịn ít áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội với tư cách là biện pháp thay thế cho hình phạt theo nguyên
tắc: "Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội, thì Tịa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định
2khoản 1 Điều 91Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
3khoản 3 Điều 91Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017


×