1 / 28
Phần 1. Phần mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to
lớn, tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định trên thế giới. Đời sống của người
dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đến năm 2009 chúng ta đã thoát
khỏi tình trạng là nước nghèo. Có được những thành tựu to lớn này là có sự đóng
góp công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của tất cả các ngành các cấp
trong đó có sự đóng góp to lớn của ngành nông nghiệp.
Kinh tế nông nghiệp là ngành
kinh tế quan trọng của nước ta. Phát
triển nông nghiệp nông thôn không chỉ
bảo đảm cho nhu cầu về lương thực,
thực phẩm mà còn là cơ sở phát triển
các mặt khác của đời sống kinh tế - xã
hội, đồng thời góp phần củng cố liên
minh công nông, tăng cường sức mạnh
của chuyên chính vô sản.
Hiện nay Việt Nam vẫn được coi là nước nông nghiệp với khoảng trên
80% dân số sống ở nông thôn và khoảng 74,6% lực lượng lao động làm nông
nghiệp. Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tới vấn đề phát triển nông nghiệp, nông
thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, và coi đó nhiệm vụ
chiến lược, là cơ sở để đảm bảo ổn định tình hình chính trị - xã hội, sự phát triển
hài hoà và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.Chính nhờ
được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước mà trong những năm qua ngành
nông nghiệp và nông thôn đã gặt hái được nhiều thành tựu hết sức đáng mừng.
Nông nghiệp Việt Nam không những đảm bảo tự cung tự cấp mà còn trở thành
một cường quốc trên thế giới trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đó ngành nông nghiệp Việt
Nam cũng còn có một số mặt hạn chế cần phải khắc phục như: vấn đề phát triển
nông nghiệp kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chưa thức sự sử dụng hiệu
quả và phát huy hết các nguồn lực , sự chuyển giao khoa học công nghệ còn
hạn chế.
Đứng
trước
những khó khăn và thách thức đó,thì việc xây dựng một nền
kinh tế nông nghiệp phát triển theo xu h
ư
ớng bền vững có ý nghĩa lý luận và thực
2 / 28
tiễn quan trọng. Điều này cũng đã đ
ư
ợc khẳng định trong chiến
lược
phát triển kinh
tế xã hội từ 2006 - 2010
được
thông qua tại Đại hội X của Đảng: “Hiện nay và
trong những năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân,nông thôn có tầm chiến l
ư
ợc
đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghịêp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn, h
ư
ớng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá
lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững”.
Vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài “Phát triển nông nghiệp bền
vững ở Việt Nam” để làm đề tài cho bài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài: trên cơ sở hệ thống hoá các vấn đề lý luận và
thực tiễn về phát triển nông nghiệp bền vững, đề ra các giải pháp để xây dựng và
phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài :
-Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về phát triển bền vững và phát triển bền vững
trong nông nghiệp từ góc độ lý luận và thực tiễn.
-Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nông nghiệp bền vững của một số quốc gia
trên thế giới.
- phân tích thực trạng về phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam và những
vấn đề đặt ra
-Giải pháp để phát triển nông nghiệp bền vững nước ta trong thời gian tới
Phần 2. Nội dung
Chương 1 : Cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững
1 . Khái quát chung về phát triển bền vững
1.1. khái niệm phát triển bền vững
Hiện nay có nhiều định nghĩa về phát triển bền vững tuy nhiên định nghĩa
sau đây của Uỷ ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc( năm 1987)
được xem là phổ biến rộng rãi với khái niệm Phát triển bền vững như sau:
“ Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của
con người nhưng không tổn hại tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương
lai”
1.2. sự hình thành các thuyết về phát triển bền vững
Các lý thuyết về phát triển bền vững đã
được
manh nha từ rất lâu trong lịch
3 / 28
phát triển của xã hội loài ng
ười
, tuy nhiên chỉ đến những năm gần đây các lý
thuyết và phát triển bền vững mới đ
ư
ợc xây dựng hoàn chỉnh:
-Năm 1971 Maurice Strong tổ chức hội thảo với chủ đề “Phát triển và môi
trường”.
-Tháng 6-1972, Tuyên bố Stockholm về “môi trường con người”.
-Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Uỷ ban Môi tr
ư
ờng
và Phát triển của Ngân hàng thế giới thuật ngữ phát triển bền vững chính thức
được
định nghĩa.
2. Phát triển nông nghiệp theo xu hướng bền vững.
2.1. Khái niệm Nông nghiệp
Có thể hiểu, nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất tạo
ra các sản phẩm lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu sinh tồn của con
người. Nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả ba nhóm ngành: nông nghiệp
thuần túy, lâm nghiệp và ngư nghiệp, là ngành có vai trò quan trọng về kinh tế,
xã hội và môi trường sinh thái.
2.2. Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
Phát triển nông nghiệp bền vững (bao gồm cả lâm nghiệp và
ngư
nghiệp)
là quá trình sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, giải quyết tốt các
vấn đề xã hội gắn với bảo vệ môi tr
ư
ờng sinh thái trên cơ sở đảm bảo thoả mãn
các nhu cầu của con
người
trong trong hiện tại và t
ư
ơng lai và
được
xã hội chấp
nhận.
2.3. Đặc trưng của nền nông nghiệp theo xu hướng bền vững
Thứ nhất: là nền sản xuất trong đó hoạt động của con người phù hợp với
các quy luật phát triển của tự nhiên , khai thác và bồi dưỡng được tự nhiên được
thực hiện trong cùng một quá trình, nhờ đó duy trì được môi trường tự nhiên cho
đời sống trường tồn của mọi thế hệ.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp bền vững là nền sản xuất nông nghiệp
đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, dựa trên cơ sở ứng dụng thành tựu
khoa học - công nghệ hiện đại sản xuất.
Thứ ba, phát triển nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả các nguồn lực nhưng vẫn đảm bảo sự tăng trưởng.
Thứ tư, phát triển nông nghiệp bền vững là nền sản xuất nông nghiệp có
cơ cấu kinh tế hợp lý. Nói đến cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp là nói đến cơ
cấu giữa chăn nuôi và trồng trọt
Thứ năm, phát triển nông nghiệp bền vững là nền sản xuất nông nghiệp
bảo đảm được công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, tạo được cơ
4 / 28
sở vật chất cho phát triển nông thôn mới.
Thứ sáu, phát triển nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp, trong đó
đòi hỏi trình độ của người lao động ngày càng cao
3. Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nông nghiệp bền vững và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam
3.1. Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nông nghiệp bền vững
-Trước tiên phải đề cập về kinh nghiệm để phát triển nông nghiệp ở đất
nước Hàn Quốc với mô hình Seamaul Undong với 8 bài học kinh nghiệm từ họ :
Phát huy dân chủ để phát triển nông thôn
Đào tạo cán bộ phát huy nông thôn
Phát huy nội lực của dân để xây dựng hạ tầng nông thôn
Nâng đỡ địa phương để kích thích sự thi đua giữa các làng
Phát triển kinh tế hộ và loại hình kinh tế có sức cạnh tranh cao
Phát triển kinh tế hợp tác từ phát triển cộng đồng
Trồng và bảo vệ rừng
Chính sách hỗi trợ cho nhân dân
-Kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển nông nghiệp bền vững. Với
“Chương trình bó đuốc” Trung Quốc đã xác định 7 lĩnh vực chiến lược trong
chương trình xây dựng nền nông nghiệp bền vững.
Lĩnh vực công nghệ sinh học :được công nghệ sản xuất với hơn 60 hoại
hoa, lúa gạo, khoai tây, áp dụng thành công trên diện rộng về kỹ thuật cấy mô khử
virut vào sản xuất theo kiểu công trường hóa.
Lĩnh vực công nghệ thông tin: xây dựng nhiều ngân hàng dự trữ thông tin
nông nghiệp như : ngân hàng dự trữ nông nghiệp, ngân hàng dự trữ tài nguyên
giống cây trồng.
Lĩnh vực vật liệu, phân hóa học, thuốc trừ sâu, các loại phân bón, thuốc trừ
sâu bệnh sinh vật…
Lĩnh vực thiết bị nông nghiệp: ứng dụng thiết bị đồng bộ , phù hợp với các
cấu trúc, kỹ thuật trồng trọt, khống chế môi trường khác nhau, sử dụng ánh sáng
mặt trời.
-Kinh nghiệm của Thái Lan về phát triển nông nghiệp bền vững: thúc đẩy
nông nghiệp phát triển theo chiến lược xây dựng cơ cấu kinh tế toàn diện và ổn
định, thực hiện chiến lược lúa gạo quốc gia, phát triển các vùng nông nghiệp sinh
thái đô thị.
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- Yếu tố quan trọng tạo động lực cho sự phát triển là : tinh thần nông dân, lấy chính
sách nhỏ và chính sách để kích thích mạnh tinh thần qua đó phát huy nội lực tiềm tàng
5 / 28
vốn có của nông dân khát vọng của người dân, cuộc cách mạng tinh thần chính
sách Seamaul Undong.
-Xác định đúng mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp
-Cần đấu tư thích đáng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn
-Phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường
-Phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn liền với vấn đề xoá đói, giảm nghèo, nâng cao
mức sống cuả cư dân nông thôn
-Phát triển kinh tế nông nghiệp phải phù hợp với quy luật của thị trường
Chương 2. Thực trạng phát triển nông nghiệp theo xu hướng bền vững ở nước
ta
1. Tổng quan về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam
1.1. Vị trí của nông nghiệp trong nền kinh tế
-Cung cấp lương thực - thực phẩm cho nhu cầu tiêu dùng của người dân.
-Cung cấp các yếu tố đầu vào cho các ngành công nghiệp.
-Nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ lớn của công nghiệp.
-Nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn.
-Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là cơ sở trong sự phát triển bền vững của
môi trường.
1.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Việt Nam
-Sản xuất nông nghiệp tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc nhiều
vào tự nhiên.
-Trong nông nghiệp có sự tồn tại nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh,
nhiều thành phần kinh tế. Trong đó kinh tế hộ nông dân có vai trò đặc biệt quan
trọng.
-Nền nông nghiệp Việt Nam đang trong tình trạng lạc hậu tiến lên xây dựng một
nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá theo định h
ư
ớng xã hội chủ nghĩa.
2. Những chuyển biến trong phát triển nền nông nghiệp theo xu h
ư
ớng bền
vững
2.1. Đảm bảo giữ vững được nhịp độ tăng trưởng ổn định và có hiệu quả
trong thời gian dài.
-Tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp trong thời gian qua: trong suốt 10 năm
(1989 - 1999) tốc độ tăng tr
ư
ở
ng bình quân đạt 4,3%/ năm và từ năm 2000 đến
6 / 28
n
a
y
tố
c độ tăng tr
ư
ở
ng bình quân đạt 5,4%/ năm, giá trị tăng thêm tăng 3,8% năm.
Khái quát bức tranh chung của nông nghiệp Việt Nam trong những năm vừa qua
đó là: nhịp độ tăng tr
ư
ở
ng liên tục song vẫn tiềm ẩn những nguy cơ ảnh h
ư
ở
ng tới
sự phát triển bền vững lâu dài.
-Hoạt động khai thác và sử dụng các nguồn lực: đất nông nghiệp, nhân lực, nguồn
lực vốn, nguồn lực khoa học - công nghệ
-Hình thành các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp
như
lúa gạo ở Đồng
bằng Sông Hồng, Đồng bằng Sông Cửu Long, cây công nghiệp ở Đông Nam Bộ
và Tây Nguyên, thuỷ sản ở Duyên hải Miền Trung, Đồng bằng Sông Cửu
Long…. Bên cạnh việc hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, thì nông nghiệp
của Việt Nam cũng đang hội nhập sâu rộng vào thị tr
ư
ờng quốc tế.
2.2. Giải quyết các vấn đề về mặt xã hội nảy sinh trong khu vực nông
nghiệp, nông thôn
-Xoá đói giảm nghèo trong khu vực nông nghiệp, nông thôn đã đạt được những
kết quả nhất định. Tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn đã giảm từ 66,4% năm 1993
xuống còn 35,6% năm 2002 và 27,5 % năm 2004, năm 2009 thoát khỏi tình
trạng nước nghèo
-Đảm bảo vai trò thích đáng của
người
nông dân trong mọi khâu của quá trình ra
quyết định ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
-Đảm bảo việc tiếp cận công bằng hơn đối với các nguồn lực, nguồn tài nguyên và
thu nhập của
người
nông dân trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.
7 / 28
2.3. Từng bước xây dựng một nền nông nghiệp theo hướng phát triển
sạch, môi trường tự nhiên được bảo vệ và hình thành các vùng nông nghiệp
sinh thái
Hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học để phát triển những
giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và sức chống chịu sâu bệnh
cao, không thoái hóa, không tổn hại tới đa dạng sinh học ngày càng tăng. Các
hoạt động cụ thể
được
triển khai
như
phát triển sản xuất phân bón hữu cơ, phân
bón sinh học phục vụ nông nghiệp sinh thái, tăng c
ư
ờng phổ cập quy trình phòng
trừ sâu bệnh tổng hợp IPM, công tácbảo tồn đa dạng nguồn gen cũng
được
triển
khai ở nhiều nơi.
3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển nền kinh tế nông nghiệp theo xu
h
ư
ớng bền vững ở nước ta
3.1. Thành công
Sản xuất nông lâm ngư nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá: từ năm
2000
đến
2011, ngành nông-lâm-thủy sản đã đạt được tốc độ tăng tăng trưởng
hàng năm
tương
đối cao, với giá trị sản xuất bình quân đạt gần 5,36%/năm, giá
trị gia tăng (GDP)
tăng
3,7%/năm. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tốc độc tăng
trưởng giá trị sản xuất của
toàn
ngành nông nghiệp 3,76% so với cùng kỳ năm
trước, giá trị gia tăng tăng 2,81%,
đóng
góp 0,48 điểm phần trăm trong GDP cả
nước. Nông nghiệp ngày càng đa dạng, giá
trị
gia tăng cao đặc biệt lĩnh vực
chăn nuôi và thủy
sản.
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực: cơ cấu
sản
xuất
nông, lâm, thuỷ sản chuyển dịch tích cực theo hướng nâng cao năng
suất, chất
lượng,
hiệu quả gắn với nhu cầu thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn
2000 đến nay. Tỷ
trọng
nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, diêm nghiệp và
thuỷ sản) trong tổng GDP
cả
nước giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn
22,02% năm 2011. Trong nội bộ
ngành
đang có xu hướng tăng nhanh tỷ
trọng thủy sản, giảm tỷ trọng trồng trọt trong giá
trị
sản xuất. Tỷ trọng thuỷ
sản tăng từ 15,6% năm 2000 và 24,6% năm 2011. Trong
khi
đó, tỷ trọng nông
nghiệp giảm từ khoảng 78%-82% giai đoạn trước năm 2002
xuống
còn 72%
năm
2011
1
.
Trong nội bộ các tiểu ngành cũng đang diễn ra các chuyển biến cơ cấu
tích
cực,
đặc biệt trong giai đoạn 10 năm trở lại đây. Trong ngành nông
nghiệp, tỷ trọng giá
trị
sản xuất của trồng trọt giảm từ 78-82% giai đoạn trước
năm 2004 xuống còn 76%
năm
2011. Trong chăn nuôi, hình thức chăn nuôi
8 / 28
trang trại, gia trại đang thay thế dần
mô
hình chăn nuôi tận dụng nhỏ lẻ ở gia
đình.
Trong thủy sản, nghề khai thác xa bờ phát triển nhanh. Đến nay, tổng số
tàu
thuyền có 128.865 chiếc với tổng công suất 5.400.000 CV. Trong đó, tàu
thuyền
có
công suất 90CV trở lên có 24.180 chiếc, chiếm tỷ trọng gần
19%
.
Diện tích
nuôi
trồng thủy sản tăng rất nhanh, từ năm 2000 đến 2011
tăng 406.000 ha. Nuôi
trồng
thủy sản tiếp tục đa loài, đa loại hình, đa phương
thức theo hướng thân thiện với
môi trường.
Trong lâm nghiệp, việc trồng rừng sản xuất được đẩy mạnh nhờ chính
sách
giao
đất giao rừng, chương trình 327, dự án trồng mới 5 triệu ha v.v…
Nhờ vậy, tỷ lệ
che
phủ rừng tăng từ 28% năm 1995 lên xấp xỉ 40% năm 2010,
tương đương với diện
tích
13,39 triệu ha. Công nghiệp chế biến gỗ và lâm
sản xuất khẩu phát triển rất
mạnh
trong những năm gần đây: giá trị lâm sản
xuất khẩu tăng từ 1.786 triệu USD năm
2005
lên 3.000 triệu USD năm 2010,
đạt tốc độ tăng 10,9%/năm; trong đó, giá trị xuất
khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ tăng
từ 1.561 triệu USD năm 2005 lên 2.800 triệu USD năm
2010,
đóng góp vào kim
ngạch xuất khẩu của cả nước và tạo cơ hội cho phát triển rừng
trồng
nguyên liệu
công
nghiệp.
9 / 28
Nguồn : www.thuysanvietnam.com.vn
Cơ cấu ngành nghề ở khu vực nông thôn có sự hay đổi nhanh theo
hướng
tích
cực: giảm số lượng và tỷ trọng nhóm hộ nông, lâm, thủy sản; tăng
số lượng và tỷ
trọng
nhóm hộ công nghiệp, xây dựng, và dịch vụ. So với năm
2006, tỷ trọng hộ nông,
lâm,
thủy sản khu vực nông thôn giảm từ 71,1% xuống
còn 62,0%; tỷ trọng hộ công
nghiệp
và xây dựng tăng từ 10,2% lên 14,7%; tỷ
trọng hộ dịch vụ từ 14,9% lên
18,4%.
Đảm bảo ANLT quốc gia: sản xuất nông nghiệp phát triển từng bước
đáp
ứng
tốt nhu cầu của thị trường trong nước. Bất chấp những biến động thị
trường, thiên
tai,
dịch bệnh, bình quân lương thực đầu người tăng từ 445 kg
năm 2000 lên 513 kg
năm
2010, góp phần thiết thực cho công tác xóa đói giảm
nghèo.
Không chỉ đảm bảo đủ nhu cầu lương thực trong nước mà hiện nay
Việt
Nam
còn là quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo với lượng
xuất khẩu đạt
5-7
triệu tấn/năm. Con số này tương đương với 8-12 triệu tấn
thóc và chiếm khoảng
¼
tổng sản lượng quốc gia hàng
năm.
Xuất khẩu tăng nhanh, một số mặt hàng có vị thế cao trên thị trường
thế
giới:
lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp là lĩnh vực duy nhất trong nền kinh tế
liên tục xuất
siêu,
năm sau cao hơn năm trước, kể cả trong những giai đoạn kinh
10 / 28
tế gặp khó khăn.
Xuất
khẩu các loại nông, lâm, thủy sản tiếp tục được mở rộng,
một số ngành có thị phần
lớn
trong khu vực và thế giới như: gạo, cao su, cà phê,
hồ tiêu, hạt điều, sản phẩm đồ
gỗ,
thuỷ sản v.v… Giá trị kim ngạch xuất khẩu
nông, lâm, thuỷ sản giai đoạn 1995 -
2010
bình quân mỗi năm đạt khoảng 7
tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 12,6%/năm.
Năm
2011, kim ngạch xuất khẩu
của toàn ngành đạt xấp xỉ 25 tỷ USD, tăng 27,9% so
cùng
kỳ năm trước và gấp
gần 6 lần năm 2009. Năm 2012, tuy giá nông sản sụt giảm so
với
năm 2011
nhưng tổng giá trị xuất khẩu toàn ngành trong 8 tháng đầu năm vẫn
đạt
18,152 tỷ đô, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm
trước.
Trong những năm gần đây, có 5 mặt hàng liên tục nằm trong nhóm
các
mặt
hàng có giá trị xuất khẩu cao là thuỷ sản, cà phê, gạo, cao su, đồ gỗ.
Năm 2011,
kim
ngạch xuất khẩu 5 mặt hàng trên nằm trong số 14 mặt hàng đạt
giá trị xuất khẩu trên
2
tỷ USD, cụ thể là: thủy sản 6,1 tỷ USD, tăng 21,7%;
gỗ và sản phẩm gỗ 3,9 tỷ
USD,
tăng 13,7%; gạo 3,6 tỷ USD, tăng 12,2%; cao
su 3,2 tỷ USD, tăng 35%; cà phê 2,7
tỷ
USD, tăng
48,1%
.
Hiệu quả đầu tư cao và có sức lan tỏa mạnh mẽ: với lợi thế sẵn có về
nông
nghiệp, trong điều kiện hiệu quả đầu tư chung của Việt Nam rất thấp, các
tính toán
về
tỷ lệ chi phí/thu nhập của các ngành kinh tế (ICOR) gần đây cho
thấy hiệu quả đầu
tư
cho nông nghiệp không kém gì so với các ngành kinh tế
khác, thậm chí là có thể
còn
cao
hơn
Trong vòng 20 năm vừa qua, với lượng vốn đầu tư ít ỏi chỉ chiếm 7% tổng
vốn
đầu tư xã hội, mà trong đó 50% là của đầu tư nhà nước, lại tập trung chủ yếu
cho
việc
xây mới các công trình thủy lợi lớn, nhưng nông nghiệp vẫn duy trì
mức tăng trưởng
3-
4%/năm. Vì vậy, nếu được qua tâm đầu tư đúng mức
nông nghiệp Việt Nam
chắc
chắn có thể tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức cao
hơn, đặc biệt về giá trị gia
tăng.
Mặt khác, nông nghiệp là lĩnh vực có sức lan tỏa mạnh mẽ cho tăng
trưởng
kinh
tế nói chung. Nghiên cứu của Viện Chính sách và Chiến lược Phát
triển Nông
nghiệp
Nông thôn cho thấy, tăng cầu tiêu thụ hàng nông lâm thủy
sản với giá trị 1% GDP
sẽ
tăng GDP cả nước 1,2%. Trong khi đó, nếu tập
trung kích cầu vào lĩnh vực
công
nghiệp thì tác động tổng hợp lên chính
lĩnh vực này chỉ tăng GDP công nghiệp
lên
0,94%. Xét về việc làm, tập trung
kích cầu cho sản phẩm lĩnh vực nông nghiệp sẽ
tạo
ra việc làm nhiều nhất, cao
hơn hẳn so với kích cầu vào các lĩnh vực khác (tạo ra
thêm
khoảng một triệu
việc làm so với mức 200 - 370 ngàn lao động khi kích cầu vào
khu
vực công
nghiệp và dịch
vụ).
11 / 28
Đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn được cải thiện: về
cơ
bản,
Việt Nam đã xóa được đói. Công tác giảm nghèo được tập trung đẩy
mạnh, hướng
vào
các đối tượng khó khăn vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc.
Nhờ đó, tỷ lệ hộ
nghèo
đã giảm 18,1% năm 2004 xuống còn 10,7% năm
2010, trung bình mỗi năm
giảm1,1%.
Thu nhập bình quân một nhân khẩu hộ nông thôn tăng từ 3,3 triệu
đồng/người
năm 2002 lên 12,9 triệu đồng/người năm 2010 tính theo giá hiện
hành. Từ năm
2001
đến 2011, tích lũy để dành của hộ nông thôn tăng lên gấp
5,3 lần, bình quân từ
3,2
triệu đồng/hộ lên 16,8 triệu
đồng/hộ
.
Nhiều xã, thôn
ở nông thôn vùng Đồng bằng Bắc bộ, vùng miền Trung đã
cơ
bản hoàn thành
việc “xóa” nhà tranh tre, nứa lá; nhiều huyện, xã ở miền Bắc và
miền
Trung đã
cơ bản “ngói hoá” nhà ở, miền Nam đã bố trí cho khoảng 200 ngàn hộ
dân
đang
sống thường xuyên trong vùng ngập lũ và “sống chung với lũ” khi có lũ lớn.
Năm
2002, tỷ lệ nhà bán kiên cố và nhà tạm ở khu vực nông thôn tương ứng
là 59,2%
và
28,2% thì năm 2010 đã giảm xuống còn 32,9% và 16,7%. Tỷ lệ
nhà kiên cố tăng
từ
12,6% năm 2002 lên 50,5% năm
2010.
Kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn được tăng
cường
Đầu tư thuỷ lợi đang hướng sang phục vụ đa mục tiêu. Trong 4 năm
2006-2010,
tổng vốn đầu tư qua Bộ Nông nghiệp và PTNT cho thủy lợi là 29.532,1 tỷ đồng
(chiếm
80% tổng vốn thực hiện các dự án do Bộ quản lý). Qua 5 năm đầu tư đã
tăng năng
lực
tưới thêm 450 ngàn ha so với chỉ tiêu 400 ngàn ha; tăng năng
lực tiêu thêm 234
ngàn
ha so với chỉ tiêu 200 ngàn ha, năng lực ngăn mặn tăng
thêm 192 ngàn ha so với
kế
hoạch 200 ngàn ha. Đến hết năm 2010, tổng năng
lực tưới của hệ thống thủy lợi
đạt
3,45 triệu ha đất canh tác, đảm bảo tưới cho
6,92 triệu ha trồng lúa, khoảng 1,5 triệu
ha
rau màu và cây công nghiệp ngắn
ngày, tiêu thoát nước cho 1,72 triệu ha đất
nông
nghiệp, góp phần đáng kể
vào việc tăng năng suất, sản lượng và chất lượng các
loại
cây
trồng.
Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, giao thông nông
thôn
có
bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Từ năm 1999 đến nay
làm mới
được
24.167 km đường; sửa chữa, nâng cấp 150.506 km đường. Năm
2011 có tới 98,6%
xã
có đường ôtô đến khu trung tâm, trong đó 87,3% xã có
đường ô tô được nhựa, bê
tông
hóa (năm 2006 là
70,1%).
Bên cạnh đó, mạng lưới điện đến các xã được đầu tư, mở rộng và đạt được
những
kết quả đáng khích lệ. Nếu năm 1994 cả nước mới có 60,4% số xã và
50% số thôn
có
điện, năm 2006 các con số tương ứng là 98,9% và 92,4%,
thì đến năm 2011 có
tới
99,8% số xã và 95,5% số thôn có điện
.
Ngoài ra, các
cơ sở hạ tầng khác như chợ, y
tế,
nước sạch cũng được cải thiện rõ rệt, góp
12 / 28
phần nâng cao chất lượng cuộc sống
cho
người dân nông
thôn.
-Hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, tăng nhanh xuất khẩu. Nhiều
vùng sản xuất hàng hoá tập trung
được
hình thành,
như
các vùng lúa ở đồng bằng
sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng; vùng cà phê ở Tây Nguyên, Đông Nam
Bộ; vùng chè ở các tỉnh miền núi phía Bắc; vùng cao su Đông Nam Bộ; vùng cây
ăn quả ở Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh Miền núi phía
Bắc; vùng rau Lâm Đồng, các tỉnh đồng bằng sông Hồng; các vùng mía ở duyên
hải miền Trung, Khu IV cũ, Nam Bộ… tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
khoa học - kỹ thuật để thâm canh, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến và tiêu
thụ sản phẩm làm ra. Việc hình thành các vùng chuyên canh với các sản phẩm
chất
lượng
cao là cơ sở cho việc gia tăng các hoạt động xuất khẩu.
-Những thành tựu về nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ trong quá trình
phát triển nông nghiệp và nông thôn. Công tác lai tạo, bảo tồn và phát triển các
nguồn giống tốt phục vụ cho sản xuất đã
được
phát triển mạnh.
3.2. Những hạn chế
Nông nghiệp tăng trưởng kém bền vững, khả năng cạnh tranh thấp: tăng
trưởng GDP nông nghiệp có xu hướng giảm dần: tốc độ tăng GDP nông nghiệp giai
đoạn 1995 - 2000 đạt 4%/năm, giảm xuống còn 3,83%/năm trong giai đoạn 2001 -
2005 và 3,4%/năm trong giai đoạn 2006-2011. Tỷ lệ giá trị gia tăng so với tổng giá trị
sản xuất nông nghiệp cũng có xu hướng giảm, từ 66,35% năm 2000 xuống 57,6% năm
2011 (theo giá thực tế) và 45,6% năm 2000 xuống 38,3% năm 2011 (theo giá so sánh).
Năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp
còn thấp; kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản, chế biến như kho tàng, sân phơi, bến bãi
v.v… còn kém phát triển, công nghiệp chế biến nông sản rất nhỏ bé nên chất lượng
nhiều loại nông sản còn thấp, nhất là rau quả, sản phẩm chăn nuôi. Phần lớn nông sản
xuất khẩu ở dạng sơ chế, giá trị gia tăng rất thấp, chưa có thương hiệu, mẫu mã bao bì
chưa hấp dẫn.
Chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm thấp: hiện có quá nhiều doanh
nghiệp chế biến nông, thủy sản quy mô nhỏ, việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật, vệ sinh ATTP chưa được coi trọng; tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất
lượng còn lớn.
Ngoài ra, vấn đề dịch bệnh trong cả trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy
sản cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng toàn ngành và thu nhập của nông dân.
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm: tỷ trọng thuỷ
sản trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành tăng nhanh trong giai đoạn từ 2000 đến 2007
(đạt mức cao nhất là 26,5% năm 2007); nhưng bắt đầu từ năm 2008 lại có xu hướng
giảm, chỉ còn 22% vào năm 2008 và 24,6% năm 2011. Sản xuất nông nghiệp vẫn nặng
13 / 28
về trồng trọt (chiếm tỷ trọng 73%), chăn nuôi và dịch vụ mới chỉ chiếm 27%.
Kết cấu kinh tế nông thôn vẫn chủ yếu là thuần nông (sản xuất nông nghiệp
chiếm 65%), các hoạt động phi nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn
chiếm tỷ lệ nhỏ, chưa đủ sức thu hút tạo việc làm để thúc đẩy chuyển dịch lao động.
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nhiều nơi còn yếu kém: nguồn vốn đầu tư
phát triển nông nghiệp và xây dựng công trình kết cấu hạ tầng nông thôn còn thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống của người
dân, nhất là ở các vùng miền núi (đặc biệt là giao thông, thủy lợi, thông tin liên lạc).
Hệ thống thuỷ lợi cho sản xuất ở một số vùng còn chưa đáp ứng nhu cầu, tỷ lệ
diện tích cây hàng năm được tưới bằng công trình thuỷ lợi ở Duyên hải miền Trung
(44%), miền núi phía Bắc (32%), Tây Nguyên (25%) và Đông Nam bộ (51%). Vẫn còn
khoảng 20% dân số nông thôn chưa có nước hợp vệ sinh cho sinh hoạt v.v…
Đối với thuỷ sản, các công trình kết cấu hạ tầng được đầu tư ít về nguồn và
thấp về số tuyệt đối nên hiện nay một số cảng cá, bến cá đã quá tải và xuống cấp cần
đầu tư cải tạo, nâng cấp, mở rộng nhưng chưa có vốn.
Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn chậm đổi mới: việc chuyển
đổi phương thức hoạt động, tuyên truyền thành lập các HTX mới theo Luật hợp tác xã,
mặc dù đã có Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX và nhiều chính sách tháo gỡ của
Chính phủ, nhưng chậm được triển khai, nhiều nơi còn lúng túng. Các nông, lâm
trường việc triển khai chương trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả trên tinh thần
Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị và Nghị định của Chính phủ còn chậm. Kinh tế hợp tác
phát triển rất chậm, chưa đóng vai trò mong đợi trong hỗ trợ hoạt động sản xuất của
nông hộ.
Kinh tế trang trại tuy tăng nhanh về số lượng nhưng lại chiếm một tỷ lệ không
đáng kể trong hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như kinh tế nông thôn.
Doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ đã được tổ chức, sắp xếp lại theo hướng cổ
phần hóa nhưng hiệu quả của mô hình tổ chức mới vẫn còn chưa thể hiện rõ, nhiều
doanh nghiệp vẫn còn lúng túng trong công tác quản lý tài chính, quản trị doanh
nghiệp.
Nông thôn chưa có chuyển biến rõ nét, đời sống một bộ phận nông dân chậm
được cải thiện: tuy đời sống của đại bộ phận dân cư nông thôn được nâng cao, nhưng
so với mặt bằng chung thì nông thôn ta vẫn nghèo và phát triển chậm, khoảng cách
chênh lệch giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn; yêu cầu về việc làm ngày càng
bức xúc.Mặc dù tỷ lệ người nghèo giảm nhanh và đáng kể trong thời gian qua nhưng
tốc độ giảm số hộ nghèo của nông thôn thấp hơn so với thành thị khoảng 20%; vẫn còn
nhiều người dân sống dưới hoặc cận kề mức nghèo đói.
Ô nhiễm môi trường tăng, nhiều tài nguyên bị khai thác quá mức: tình trạng
14 / 28
sản xuất thâm canh, sử dụng quá
nhiều phân bón, hóa chất, thuốc
bảo vệ, chất kích thích sinh trưởng
và tạo ra nhiều chất thải của các
vùng chăn nuôi tập trung, nuôi
thủy sản tập trung, các vùng
chuyên canh cây trồng thâm canh
như bông, nho, rau v.v… tạo ra dư
lượng các chất độc hại trong nông
sản thực phẩm, làm tăng khả năng
chống chịu và đột biến của sâu bệnh; tình trạng ô nhiễm môi trường đang gia tăng, đặc
biệt ở các làng nghề và chưa có giải pháp hữu hiệu để khắc phục.
Bên cạnh đó, nhiều tài nguyên bị khai thác bừa bãi cũng dẫn đến tình trạng
suy giảm tính đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.
Tài nguyên động vật quí hiếm, nguồn nước ngầm, nguồn lợi thuỷ sản trong nội địa và ở
các vùng biển ven bờ, một số loại khoáng sản đã có dấu hiệu bị khai thác quá mức.
3.3.Một số vấn đề đặt ra
-Trình độ hiện tại của nông nghiệp Việt Nam còn thấp so với yêu cầu phát triển
bền vững.
-Nền nông nghiệp Việt nam về cơ bản
chưa
thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ,
phân tán, manh mún gây trở ngại cho xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá.
-Khả năng cạnh tranh còn thấp kém trong khi tình hình cạnh tranh trên thị tr
ư
ờng
trong n
ư
ớc
và quốc tế ngày càng gay gắt làm tổn hại đến khả năng nâng cao thu nhập cho
cư
dân nông nghiệp.
-Chất
lượng
nguồn lao động nông nghiệp còn thấp kém không đáp ứng
được
yêu
cầu của quá trình xây dựng nền nông nghiệp bền vững.
-Vai trò của nhà
nước
đối với nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế
chưa
được
thể hiện rõ nét
-Tác động của quá trình toàn cầu hoá đối với nông nghiệp, đặc biệt là khi Việt
Nam ra nhập WTO đang vừa là cơ hội vừa là thách thức cho quá trình phát triển
nông nghiệp
15 / 28
Chương 3. Định hướng và Các giải pháp để góp phần thực hiện phát triển
nông nghiệp theo xu hướng bền vững ở nước ta .
1. Định hướng phát triển
Xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn,
hướng về xuất khẩu, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
cao,đáp ứng nhu cầu thị trường.
2.Các giải pháp để phát triển nền nông nghiệp theo xu h
ư
ớng bền vững ở
nước
ta
2.1. Làm tốt công tác quy hoạch phát triển nông nghịêp
-Tại các vùng chuyên canh nông nghiệp, quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng
phát
triển các cụm trọng điểm nông nghiệp. Ở mỗi nơi, có các tổ hợp liên kết
nông
nghiệp, tại đây có các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản, sản
xuất vật
tư
nông nghiệp và các cơ sở bán hàng, cơ sở cung cấp dịch vụ
nghiên cứu, đào
tạo,
tư vấn v.v… áp dụng công nghệ, tiêu chuẩn cao, khép
kín xử lý chất thải và
tái
tạo năng lượng. Xung quanh các trung tâm này là
các vùng cung cấp
nguyên
liệu đồng bộ, liên kết bằng hợp đồng với khu
trung tâm. Các cụm kết nối
phục
vụ trực tiếp với thị trường trong và ngoài
nước bằng hệ thống phân
phối.
-Ở những vùng mật độ dân cư
cao như các vùng ven đô,
Đồng bằng sông Hồng, Đồng
bằng sông Cửu Long, Đông
Nam Bộ cần quy hoạch và xây
dựng các khu chăn nuôi tập
trung tách khỏi khu dân cư.
Tại đây, xây dựng cơ sở hạ
tầng cho các tổ chức chăn
nuôi lớn bao gồm: trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi, trại chăn nuôi của HTX,
hệ thống giết mổ, chế biến gia súc gia cầm. Tập trung các hoạt động dịch vụ
phục vụ thú y, kiểm soát dịch bệnh, cung cấp giống, xử lý môi trường tại các
khu vực này.
-Ở những vùng có lợi thế như đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam
Trung
Bộ, quy hoạch vùng chuyên canh nuôi trồng thủy sản. Tại đây, xây
dựng cơ
sở
hạ tầng thủy lợi và giao thông hoàn chỉnh để tập trung các trang
16 / 28
trại, các công
ty
sản xuất quy mô trung bình và lớn, áp dụng công nghệ nuôi
trồng thủy sản
thâm
canh và bán thâm canh, áp dụng tiêu chuẩn về vệ sinh
an toàn thực phẩm,
bảo
vệ môi trường, đáp ứng các yêu cầu quốc tế về xuất
xứ, nguồn gốc. Tại các
khu
vực này, xây dựng các khu công nghiệp chế biến
thủy hải sản, các trạm trại
dịch
vụ phục vụ nuôi trồng thủy
sản.
-Ở những khu vực gần các ngư trường đánh bắt quan trọng ở Duyên hải
Trung
Bộ, Nam Bộ, và trên một số hải đảo chính hình thành các trung
tâm hậu
cần
nghề cá. Tại đây, xây dựng hệ thống cầu cảng phục vụ tàu
đánh cá, xây
dựng
các công trình và cơ sở dịch vụ như cung cấp nhiên
liệu, đá, thực phẩm,
kho
chứa, cơ sở thương mại, cơ khí sửa chữa, thông tin
liên lạc, kiểm tra chất
lượng
vệ sinh v.v… nhằm đảm bảo cung cấp dịch vụ
hậu cần cho tàu đánh bắt xa
bờ,
mua bán thủy sản và tránh trú
bão.
-Ở những vùng chuyên canh rừng sản xuất nguyên liệu gỗ phục vụ chế
biến
ở
Tây Bắc (giấy, ván nhân tạo), Đông Bắc (giấy, dăm, trụ mỏ, đồ
mộc),
Bắc
Trung Bộ (dăm giấy, nhựa thông, tre, mây), Nam Trung Bộ (ván
nhân tạo,
bột
giấy), Đông Nam Bộ (nguyên liệu giấy), Đồng bằng sông
Cửu Long (bột
giấy,
ván nhân tạo, đồ mộc), xây dựng đồng bộ các cơ sở
hạ tầng phục vụ rừng
sản
xuất như thủy lợi, giao thông, điện v.v… Tại
từng vùng, xây dựng các
cụm
công nghiệp chế biến lâm sản. Tại đây, tập
trung các nhà máy chế biến lâm
sản
quy mô vừa và lớn cùng phối hợp sản
xuất một số ngành hàng chính. Mức
độ
chế biến sâu khác nhau (cưa xẻ,
nghiền bột, dăm gỗ cho đến làm ván ép,
chế
biến đồ gỗ thành phẩm) kết
hợp chế biến phế phụ phẩm (cồn, hóa chất,
nấm,
năng lượng v.v…). Xây
dựng tại các cụm này các ngành công nghiệp phụ
trợ
(cung cấp nguyên
liệu vật tư, sửa chữa cơ khí v.v…) và các dịch vụ hỗ trợ
(đào
tạo, nghiên
cứu, thương mại
v.v…)
-Ở những vùng đồng bằng có điều kiện như Đồng bằng sông Hồng, Bắc
Trung
Bộ, Nam Trung Bộ xây dựng chương trình nghiên cứu xác định lợi
thế và
thị
trường, tập trung phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp bảo
vệ môi
trường,
có giá trị gia tăng cao, thu hút lao động và gắn với dịch vụ du
lịch (đồ gốm,
sứ,
thủ công mỹ nghệ v.v…). Kiên quyết chấm dứt các
ngành nghề gây ô
nhiễm
môi trường, phá hoại tài nguyên thiên nhiên (sản
xuất vật liệu xây dựng,
luyện
thép, chế biến thực phẩm v.v…). Quy hoạch
các làng nghề rải rác thành
từng
cụm theo phân cấp chức năng (làng hạt
nhân chế biến sâu và thương mại,
làng
vệ tinh gia công sản xuất, làng sản
17 / 28
xuất nguyên liệu). Hệ thống này liên kết
với
nhau thành các chuỗi sản xuất
hàng hóa và đảm bảo xử lý môi
trường.
2.2. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển
nông nghiệp bền vững
Huy động và sử dụng có hiệu quả đất đai theo h
ư
ớng bền vững Quy
hoạch, đánh giá lại việc sử dụng đất đai trong nông nghiệp, đẩy mạnh hoạt
động thâm canh, đẩy mạnh công tác dồn điền đổi thửa để hình thành các vùng
chuyên canh lớn khắc phục tình trạnh manh mún, phân tán, thúc đẩy quá trình
tập trung ruộng đất, , kết hợp chặt chẽ giữa khai thác với bảo vệ, bồi d
ư
ỡng và
cải tạo ruộng đất.
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển nông
nghiệp theo
hướng
bền vững. Nghiên cứu, đánh giá và phân loại lực
lượng
lao
động, sử dụng hợp lý nguồn lao động, phân bổ lao động hợp lý, nâng cao
trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật, trình độ nghiệp vụ của
người
lao động…
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong sản xuất nông nghiệp
theo hướng bền vững. Xác định đúng đắn
phương hướng
đầu
tư
vốn, sử dụng
có hiệu quả vốn đầu
tư
từ ngân sách và các nguồn vốn khác theo mục tiêu
phát triển, huy động và sử dụng nhiều hơn vốn tín dụng
thương
mại
2.3. Tái cấu trúc ngành nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế
cạnh tranh , đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước
-Căn cứ vào đề án An ninh lương thực, quy định rõ diện tích đất lúa giao
cho
từng địa phương, trước hết ở các vùng chuyên canh sản xuất lúa tại
hai
vùng
đồng bằng chính. Tại đây tiến hành dồn điền đổi thửa để giảm số
thửa trong
một
hộ xuống tối đa 2 thửa. Hỗ trợ nông dân xây dựng đồng
ruộng (san bằng và
làm
thủy lợi). Xây dựng hoàn chỉnh giao thông và
thủy lợi. Tại Đồng bằng
sông
Cửu Long, chuyển toàn bộ hệ thống tưới
động lực hiện nay sang tưới điện.
Tại
các vùng chuyên canh này sẽ từng
bước áp dụng quy trình sản xuất lúa mới
tiết
kiệm nước và giảm phát thải.
Áp dụng chính sách khuyến khích nông dân
tại
các vùng chuyên canh lúa
tập trung hóa ruộng đất, áp dụng cơ giới hóa
và
khuyến khích lao động
ra khỏi vùng. Xây dựng các cụm chế biến và kho tàng
để
đảm bảo chứa
được 30% lúa cho một vụ. Xây dựng hệ thống sấy đáp ứng
nhu
cầu cho vụ
hè thu. Các công trình kho, xay xát, sấy được tập trung xây
dựng
hoàn
chỉnh thành 3 vùng (Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, bán đảo
Cà
Mau) gắn với hệ thống giao thông. Ngoài ra, ở mỗi vùng hình thành hệ
thống
trạm trại sản xuất giống nguyên chủng, trạm trại bảo vệ thực vật
18 / 28
và
khuyến
nông. Xây dựng Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long thành Viện
Quốc gia,
nâng
cấp cảng Cần Thơ thành cảng xuất khẩu lúa gạo cho toàn
vùng.
-Với những cây trồng nhiệt đới mà Việt Nam có lợi thế và thị trường thế
giới
có
nhu cầu (cà phê, điều, tiêu, cao su, chè v.v ) quy hoạch xác định rõ
quy mô
và
địa bàn thích hợp cho từng cây (cà phê với sản lượng 1,1 triệu
tấn, điều
600
ngàn tấn, hồ tiêu đạt sản lượng 120 ngàn tấn, cao su đạt sản
lượng mủ 1,5
triệu
tấn, chè búp tươi 1 triệu tấn) tập trung vào địa bàn Tây
Nguyên, Đông Nam
bộ,
Trung du miền Núi phía Bắc. Tại đây, phát triển
kinh tế trang trại và
doanh
nghiệp sản xuất lớn. Xây dựng cơ sở hạ tầng,
nhất là giao thông và thủy
lợi
phục vụ sản xuất thâm canh, hình thành
một số cụm công nghiệp và dịch
vụ
phục vụ sản xuất. Tại mỗi cụm, bố trí
các nhà máy chế biến, các nhà máy
công
nghiệp phụ trợ, các công trình
dịch vụ và hệ thống thương mại, tập trung
xây
dựng tại TP.HCM hệ thống
các sàn giao dịch cho các nông sản có lợi thế
trên.
-Bộ Nông nghiệp và PTNT tiến hành dự báo nhu cầu tiêu thụ sản phẩm
chăn
nuôi trong nước 5 năm/lần và điều tra, điều chỉnh hàng năm, thông báo
rộng
rãi
cho người sản xuất. Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ đẩy
mạnh chăn
nuôi
lợn, gà theo hình thức trang trại công nghiệp, gia trại tập
trung. Đồng bằng
sông
Cửu Long, phát triển chăn nuôi vịt tập trung thâm
canh, chấm dứt nuôi vịt
chạy
đồng. Phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ như
trâu, bò thịt, bò sữa ở Trung
du
miền Núi phía Bắc và Tây Nguyên, dê ở
miền Núi phía Bắc và miền Trung,
cừu
ở miền Trung. Trước mắt, áp dụng
chính sách ưu tiên tiếp thu nguồn giống
vật
nuôi mới từ nước ngoài. Đồng
thời, tăng cường năng lực nghiên cứu của các
cơ
quan nghiên cứu trong
nước, thu hút các cơ quan nghiên cứu nước ngoài
để
nâng cao năng suất
và chất lượng chăn nuôi. Tiến hành thử nghiệm và
nghiên
cứu xây dựng
chính sách để nhân rộng việc thuần hóa một số động vật hoang
dã
có khả
năng chăn nuôi và có nhu cầu trên thị
trường.
-Trên các diện tích lúa sản xuất kém hiệu quả tại các vùng đồng bằng
chính,
mạnh dạn chuyển đổi thành đồng cỏ thâm canh và trồng các loại
cây tinh
bột
làm thức ăn gia súc. Tại các vùng trung du, miền núi phát triển
cây có củ,
nhất
là khoai lang, làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Đầu tư
khoa học công
nghệ
tăng năng suất thức ăn chăn nuôi, giành một tỉ lệ thích
đáng sản phẩm thủy
sản
làm chất bổ sung protein cho thức ăn chăn nuôi.
19 / 28
Tiến hành khảo nghiệm
để
triển khai chính sách chấp nhận sản phẩm biến
đổi gen làm thức ăn chăn
nuôi.
-Tập trung phần lớn lực lượng thú y vào công tác đảm bảo công tác kiểm
dịch
tại
các cửa khẩu và cửa ngõ các thị trường quan trọng, đảm bảo an toàn
sinh học
và
vệ sinh an toàn thực phẩm. Phân vùng chăn nuôi quốc gia
thành từng khu
an
toàn, cô lập với nhau và có biện pháp an toàn khi xảy ra
dịch.
2.4. Phát triển ngành lâm nghiệp trở thành ngành kinh tế đột phá
tại một
số
vùng trên cả
nước
Phân chia kế hoạch phát triển 3 loại rừng cho từng địa phương
theo quy
hoạch.
-Có chính sách hỗ trợ đặc biệt thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước
xây
dựng các vùng rừng sản xuất nguyên liệu tập trung, thâm canh đa
mục đích
ở
những nơi có quỹ đất được quy hoạch. Khuyến khích việc đầu
tư phát triển
các
vùng chuyên canh nguyên liệu gỗ áp dụng công nghệ cao,
sử dụng giống và
kỹ
thuật canh tác cải tiến, thâm canh, quản lý sử dụng bền
vững. Với những
vùng
nhạy cảm về an ninh quốc phòng, đặc biệt ưu tiên
cho đầu tư của doanh
nghiệp
trong nước. Rà soát lại quỹ đất của các nông
lâm trường, đất trống đồi núi
trọc,
đất bãi bồi, tổ chức công tác thu hồi bồi
thường để tạo quỹ đất thu hút các
nhà
đầu
tư.
-Tập trung đầu tư phát triển rừng phòng hộ ở những vùng đầu nguồn nhạy
cảm
về môi trường tại Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung
Bộ;
rừng
phòng hộ ven biển ở các vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng,
Bắc Trung
Bộ,
Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long nhằm đảm bảo
duy trì cân bằng
sinh
thái, bảo vệ đất, môi trường nước và khí hậu, phòng
chống thiên tai và tác
động
của biến đổi khí hậu. Nhà nước cấp vốn và thực
hiện giám sát bằng hình
thức
đấu thầu cạnh tranh để các tổ chức thuộc
các thành phần kinh tế kể cả
cộng
đồng tham gia thực hiện. Kết hợp cải
tạo, làm giàu rừng tự nhiên với khai
thác
vũng bền để vừa bảo vệ tài nguyên
rừng, vừa có nguồn thu hợp lý tái sản
xuất
mở rộng cho người làm lâm
nghiệp theo nguyên tác “khai thác rừng giàu,
dựa
trên tốc độ tăng
trưởng”. Đối với rừng nghèo kiệt và mới phục hồi,
phải
“khoanh nuôi,
cải tạo, làm
giàu”.
-Nhà nước tập trung đầu tư và quản lý để bảo tồn nguyên trạng rừng đặc
dụng,
phát triển các hệ sinh thái đặc thù, bảo tồn qũy gen và bảo tồn giá
20 / 28
trị đa
dạng
sinh học. Đối với 3 loại rừng trên, kết hợp với phát triển du
lịch sinh thái,
các
dịch vụ môi trường khác. Kết hợp bảo vệ tại chỗ và xây
dựng vùng
đệm.
-Xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn trồng cây bóng mát và chắn gió kết hợp
lấy
gỗ
dọc theo các công trình giao thông, thủy lợi, trong đô thị, trong khu
dân cư
tại
các vùng đồng bằng và trung du. Xây dựng chính sách khuyến
khích nhân
dân
trồng phân tán cây lấy gỗ có giá
trị.
2.5. Phát triển thủy sản theo hướng tăng tỉ trọng của thủy sản
trong cơ
cấu
toàn
ngành
-Tiến hành quy hoạch và phân chia rõ quy mô tối đa, địa bàn hợp lý cho
từng
địa
phương ven biển phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ (chủ yếu
là tôm sú
và
tôm chân trắng) và nước mặn (cá biển, tôm hùm, bào ngư
v.v…). Xây
dựng
chương trình nghiên cứu để xác định công nghệ nuôi
trồng và sản xuất
giống
nuôi trồng trên biển theo hướng đầu tư thâm canh
tăng năng suất, tăng hiệu
quả,
đảm bảo vệ sinh an toàn và duy trì cân bằng
sinh thái môi
trường.
-Phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt với đối tượng nuôi chính là cá
tra,
rô
phi đơn tính, tôm càng xanh; nuôi trồng thủy sản nước lợ. Mỗi nhà
máy
chế
biến và xuất khẩu thủy sản nước ngọt có trách nhiệm kí kết hợp
đồng với
nông
dân để hình thành vùng nguyên liệu, đảm bảo nắm vững
xuất xứ nguyên
liệu,
cân đối nguồn hàng, bình đẳng giá cả giữa hai bên.
Nhà nước có chính sách
ưu
đãi tín dụng cho nông dân thông qua nhà máy để
đầu tư phát triển sản
xuất.
-Tiến hành nghiên cứu thị trường, làm tốt công tác thông tin để sản xuất cân
đối
với nhu cầu. Hình thành chợ bán buôn thủy sản ở các vùng chuyên canh
lớn.
-Đầu tư nghiên cứu công nghệ sinh sản nhân tạo, di nhập các giống có năng
suất
cao, phù hợp điều kiện sinh thái và có thị trường. Xây dựng hệ thống
thú y
thủy
sản, kiểm dịch, giám sát tình hình dịch bệnh thủy sản; đảm
bảo chủ động
về
nguồn giống sạch bệnh, kiểm soát chặt chẽ chất lượng
giống, thức ăn,
môi
trường nuôi gắn với cơ sở sản xuất nuôi trồng thủy
sản, hiện đại hóa cơ sở
chế
biến và hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ tiếp thị
đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm.
-Xây dựng đội tàu hiện đại đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế đánh bắt biển xa
theo
hướng khai thác bền vững, kết hợp kinh tế - quốc phòng, kết hợp đánh
21 / 28
bắt
với
du lịch, phát triển kinh tế xã hội tại các vùng ven biển, hải đảo
v.v… bảo
vệ
nguồn lợi tự nhiên và cân bằng sinh thái môi
trường.
-Xây dựng và đưa vào họat động hệ thống khu bảo tồn biển và nội địa kết
hợp
với các mô hình quản lý có sự tham gia của cộng đồng. Xây dựng
lực
lượng
kiểm ngư mạnh để kết hợp bảo vệ nguồn lợi với bảo vệ ngư
dân và an
ninh
quốc phòng. Chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng chất nổ, chất
độc, xung điện
khai
thác hải sản và các nghề khai thác mang tính chất hủy
diệt nguồn lợi thủy
sản.
Quản lý chặt nguồn lợi thủy sản để giảm thiểu,
khống chế mức độ đánh bắt
ven
bờ, nội địa trong phạm vi đảm bảo bền
vững và tái tạo nguồn lợi, gắn với
hoạt
động du lịch. Quy hoạch và quản lý
một số vùng cấm khai thác, khai thác
có
thời hạn và khu bảo tồn biển, và
trong nội địa, giảm số lượng tàu thuyền
khai
thác ven bờ phù hợp với khả
năng khai thác cho phép của trữ lượng. Tiến
đến
phục hồi và tái tạo nguồn
lợi thủy sản. Hỗ trợ để chuyển phần lớn cư dân
sống
bằng đánh bắt ven bờ
sang đánh bắt biển xa, nuôi trồng thủy sản và trở
thành
lao động phi nông
nghiệp.
2.6. Phát triển những ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ để
nâng cao giá
trị
gia tăng cho hàng nông
sản
Công nghiệp sản xuất vật tư đầu vào phục vụ nông
nghiệp
Nghiên cứu xác định hiệu quả cân đối giữa vật tư sản xuất trong nước với
vật
tư
cần nhập khẩu. Áp dụng chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài
nước
phát
triển ngành cơ khí sản xuất, sửa chữa máy móc nông nghiệp, tàu
thuyền phục
vụ
thủy sản. Đặc biệt ưu tiên hỗ trợ những ngành áp dụng
công nghệ cao, có tỷ
lệ
nội địa hóa cao, thu hút đầu tư trong nước, phù
hợp với điều kiện Việt
Nam.
Đặc biệt hỗ trợ cho các làng nghề, các hộ
chuyên ở nông thôn, tham gia tổ
chức
sản xuất và làm dịch vụ bảo dưỡng,
nâng cấp các công cụ sản xuất tại
địa phương.
-Đề ra chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển
công
nghiệp sản xuất sửa chữa máy móc nông nghiệp, chế biến thức ăn
chăn
nuôi,
thuốc thú y và các loại vắc xin phòng bệnh, thuốc bảo vệ thực
vật, phân bón
đáp
ứng nhu cầu xuất trong nước. Song song với tăng
cường sản xuất, đẩy
mạnh
việc quản lý tiêu chuẩn chất lượng các loại vật tư
phục vụ sản xuất nông
nghiệp,
kể cả sản xuất trong nước và nhập khẩu. Cải
tiến hệ thống quản lý thị
trường,
phân phối lưu thông các vật tư nông
nghiệp chiến lược theo hướng chuyển
từ
vai trò của các doanh nghiệp lớn
22 / 28
sang cho các tổ chức đại diện cho người
nông
dân và người sản
xuất.
-Tổ chức nghiên cứu khảo kiểm nghiệm máy, hình thành hàng rào kỹ
thuật
và
giải pháp thực hiện kiên quyết để ngăn chặn máy móc rẻ, chất
lượng
thấp,
không an toàn, ô nhiễm môi trường nhập khẩu vào Việt Nam.
Công khai
tiêu
chuẩn về kỹ thuật sử dụng, an toàn giao thông, bảo vệ môi
trường để tạo
điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhập khẩu máy móc
mà trong nước sản
xuất
không có hiệu
quả.
Công nghiệp chế biến sản phẩm đầu ra của ngành nông
nghiệp
-
Áp dụng chính sách ưu đãi đặc biệt (hỗ trợ tiền thuê đất, hỗ trợ đào tạo
lao
động, cho vay vốn ưu đãi, hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ,
đơn
giản
hóa thủ tục, miễn giảm thuế doanh nghiệp ở mức cao nhất v.v…)
để thu hút
đầu
tư của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước phát
triển công nghiệp
chế
biến. Đặc biệt khuyến khích các ngành công nghiệp
chế biến tinh, chế biến
sâu,
áp dụng công nghệ hiện đại, làm ra các sản
phẩm có giá trị cao, mở ra
hướng
mới về phát triển thị
trường.
-Hình thành một số đề án phát triển để tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng,
cung cấp dịch vụ nghiên cứu khoa học và đào tạo nghề cho một số
khu
công
nghiệp chế biến tại các vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp lớn
ở Đồng
bằng
sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ,
Tây Nguyên.
Tăng
đáng kể tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến
nông sản trong cơ cấu
kinh
tế của ngành công nghiệp nhằm tạo việc làm và
thu nhập cho cư dân nông
thôn,
nâng cao giá trị hàng hóa nông
sản
-
Nghiên cứu khả năng đầu tư những ngành công nghiệp chế biến có giá trị
cao
mà Việt Nam có tiềm năng phát triển và có thị trường (rau quả, sản phẩm
chăn
nuôi, dược phẩm, đồ uống, cao su thành phẩm
v.v…).
-V
ới mỗi ngành hàng chính trên bao gồm cả lúa gạo, tổ chức lại hệ thống
quản
lý
ngành hàng, đứng đầu là hội đồng ngành hàng, với đại diện của
các cơ
quan
quản lý nhà nước, doanh nghiệp và đơn vị sản xuất, nông dân.
Các cơ quan
này
sẽ đóng vai trò xây dựng chính sách, điều hành thị trường
và làm đối tác
chính
trong giao dịch với quốc
tế.
-
Hình thành hiệp hội ngành hàng để tổ chức các đại diện của các tác nhân
chính
trong mỗi ngành hàng (sản xuất, chế biến, kinh doanh, tiêu dùng
v.v ) gồm
cả
người sản xuất lớn lẫn người sản xuất nhỏ trong và ngoài
nước. Chuyển
giao
một số chức năng dịch vụ công của nhà nước cho các
23 / 28
hiệp hội (xúc tiến
thương
mại, khuyến nông, dự báo thị trường, tiêu chuẩn
chất lượng, xử lý tranh
chấp v.v ).
2.7. Nâng cao năng lực thể chế cho phát triển nông nghiệp nông
thôn
-Tiếp tục phát triển kinh tế hộ lên một bước mới theo hướng chuyên môn
hóa
sản xuất nông nghiệp, sản xuất quy mô lớn. Tạo điều kiện cho hộ dồn
điền
đổi
thửa, cho thuê đất, tích tụ đất, chuyển bớt các hộ làm ăn không hiệu
quả từ
sản
xuất nông nghiệp sang ngành nghề và sản xuất phi nông nghiệp,
áp dụng
khoa
học công nghệ. Đưa sản xuất trang trại, gia trại chăn nuôi,
thủy sản tập trung
ra
khỏi khu dân cư, hình thành các vùng chuyên canh
hàng hóa, các vùng
nguyên
liệu phục vụ chế biến và xuất
khẩu.
-Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ
chức
sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích phát
triển
các
mối liên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã,
tổ chức
khoa
học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để
hỗ trợ kinh tế
hộ
phát triển theo hướng gia trại, trang trại có quy mô phù
hợp, sản xuất hàng
hoá lớn.
-Ban hành chính sách đặc biệt ưu tiên khuyến khích phát triển kinh tế
hợp
tác
(vay vốn, đào tạo, thuê đất, ưu đãi kinh doanh trong một số lĩnh
vực) để
đảm
bảo tham gia hợp tác xã, hộ nông dân sẽ được hưởng những ưu
đãi hơn hẳn.
Hỗ
trợ kinh tế hợp tác về đào tạo cán bộ quản lý, lao động; tiếp
cận các nguồn
vốn,
trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, phát
triển thị trường, xúc
tiến
thương mại và các dự án phát triển nông thôn;
hợp tác xã phải làm tốt các
dịch
vụ đầu vào, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho
nông
dân.
2.8. Các giải pháp về khoa học - công nghệ
-Xây dựng các ch
ư
ơng trình và thực hiện theo ch
ư
ơng trình các tiến bộ khoa
học công nghệ nông nghiệp
-Tăng c
ư
ờng năng lực khoa học công nghệ của ngành nông nghiệp.
-Lựa chọn hình thức chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ thích hợp
-Th
ư
ờng xuyên có những nghiên cứu tổng kết các điển hình tiên tiến Việt Nam,
tổ chức nhân điển hình tiên tiến về tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản
xuất.
-Thực hiện có hiệu quả việc phát triển nền nông nghiệp hữu cơ hiện đại.
24 / 28
2.9. Sự hỗ trợ từ phía Nhà nước
-Nhà
nước
đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng các chiến
lược
phát triển
theo h
ư
ớng bền vững.
-Nâng cao vai trò của Nhà
nước
trong việc ban hành các văn bản pháp luật đối
với hoạt động sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là các văn bản pháp luật liên quan
đến sự phát triển bền vững.
-Nâng cao vai trò của Nhà
nước
trong việc làm cầu nối của liên kết “bốn nhà”.
-Cụ thể hoá các chính sách hỗ trợ của Nhà
nước
đối với lĩnh vực nông nghiệp.
-Nâng cao năng lực trong việc phối hợp thực hiện hàng hoạt cách chính sách
của Nhà
nước
như các chính sách về đất đai, hỗ trợ vốn, hỗ trợ về khoa học-
kỹ thuật, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đầu ra, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng…
-Đầu
tư
hơn nữa cho phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp
bền vững.
-Nhà
nước
cần tăng c
ư
ờng đầu
tư
cho nguồn nhân lực.
25 / 28