Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Nâng cao chất lượng phân tích tín dụng đối với doanh nghiệp tại Chi nhánh Vietinbank Chương Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.52 KB, 86 trang )

LỜI

CẢM

ƠN
Trước

hết

em

xin

chân

thành

cảm

ơn

Chi nhánh Ngân hàng Công
thương Chương Dương
,
đặc

biệt



Ban



lãnh

đạo

ngân

hàng đã

tạo

điều
kiện

cho

em

vào

thực

tập



nhiệt

tình


giúp

đỡ

em

trong

thời

gian thực
tập

để

em

hoàn

thành

tốt

qluận

văn

tốt

nghiệp


này.
Em

xin

chân

thành

cảm

ơn

sự

giảng

dạy

qua

bốn

năm

học

của


quý
thầy

cô trường

Đại

học

Kinh tế quốc dân,

đặc

biệt



thầy



của

khoa

Tài
chính – Ngân hàng. Em

xin


cảm

ơn

cô Trương Thị Hoài Linh

đã

trực

tiếp
hướng

dẫn,

giúp

đỡ em

rất

nhiều

để

hoàn

thành

đề


tài

luận

văn

tốt

nghiệp.
Trong

quá

trình

thực

tập,

do

thời

gian



hạn


nên

nghiên

cứu

chưa

sâu,
mặt khác

kiến

thức

còn

hạn

chế,

chủ

yếu





thuyết


cũng

như
còn hạn
chế về
kinh

nghiệm

thực

tế nên

không

tránh

khỏi

những

thiếu sót.

Do

đó,
để

luận


văn

được

hoàn chỉnh

hơn,

kính

mong

được

những

ý

kiến

đóng
góp

chân

tình

của


giáo

viên hướng

dẫn

cũng

như

Ban

lãnh

đạo

Ngân
hàng.
Em

xin

kính

chúc

quý

thầy


cô,

các

anh

chị

trong

Chi nhánh Ngân
hàng Công thương Chương Dương dồi dào

sức

khỏe,

thành

đạt



hạnh
phúc.

Kính

chúc


Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương

ngày
càng

lớn

mạng

và phát

triển

bền

vững.
Xin

chân

thành

cám

ơn!
Ngày
15
tháng 4.năm

2009

Sinh

viên

thực

hiện
Trương Quang Hải
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thế giới đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
trên nhiều phương diện. Mới đây, Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)
Ben Bernanke đã tuyên bố, sớm nhất thì cũng phải đến cuối năm 2010 kinh tế
toàn cầu mới có thể hồi phục.Đương nhiên, Việt Nam cũng không thoát khỏi
vòng xoáy của “cơn bão” khủng hoảng, và Chính phủ đã thực hiện một loạt
biện pháp để kích thích nền kinh tế.
Cộng thêm việc Chính phủ vừa đề ra chính sách cho vay hỗ trợ lãi suất
và bảo lãnh tín dụng (nằm trong gói kích cầu 1 tỷ USD), dự kiến các khoản
tín dụng sẽ tăng vọt trong thời gian sắp tới. Bởi vậy, các quy trình phân tích
tín dụng chất lượng cao sẽ là một mũi tên trúng 2 đích: vừa đảm bảo nguồn
vốn hỗ trợ đến đúng địa chỉ, qua đó thúc đẩy nền kinh tế, vừa duy trì sự ổn
định cho hệ thống Ngân hàng.
Từ thực tế kể trên, rõ ràng các Ngân hàng cần có giải pháp hữu hiệu để
đưa các khoản cho vay đến đúng địa chỉ, mà trực tiếp nhất là nâng cao chất
lượng phân tích tín dụng. Sự thực là hoạt động này vốn luôn là ưu tiên hàng
đầu của các Ngân hàng từ xưa đến nay, nhưng trong tình hình hiện tại thì
công tác phân tích tín dụng càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nhất là,
hiện nay tại Chi nhánh Vietcombank Chương Dương còn tồn tại một số vấn
đề. Vì vậy, chuyên đề “Nâng cao chất lượng phân tích tín dụng đối với
doanh nghiệp tại Chi nhánh Vietinbank Chương Dương” được lựa chọn

nhằm đóng góp thêm một quan điểm, và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện công tác phân tích tín dụng của Chi nhánh Vietinbank Chương Dương.
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ PHÂN TÍCH TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán –
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội thông qua năm 1997
và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (được
thông qua ngày 15/6/2004) thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
liên quan”, còn “hoạt động ngân hàng” được hiểu là “hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2 Chức năng của Ngân hàng thương mại
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính
sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Ngân hàng nói chung
và Ngân hàng thương mại nói riêng có 3 chức năng chính như sau:
- Trung gian tài chính: Trong nền kinh tế, luôn tồn tại hai loại chủ thể, một
loại có chi tiêu và đầu tư vượt quá thu nhập, nghĩa là cần bổ sung vốn, còn một
loại có thu nhập lớn hơn chi tiêu, như vậy họ có tiền để tiết kiệm. Tuy nhiên,
không phải lúc nào hai loại chủ thể trên cũng có thể tiếp xúc trực tiếp với nhau,
3

do đó cần đến trung gian tài chính để kết nối người tiết kiệm với người đầu tư.
Với chuyên môn, khả năng thẩm định thông tin của mình và sự không hoàn
hảo trong hệ thống tài chính, Ngân hàng thương mại là tổ chức thích hợp nhất để
đóng vai trò trung gian tài chính, bằng cách đi huy động vốn trước khi cho vay
lại để hưởng chênh lệch lãi suất. Khi đó, Ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là
người cho vay.
- Tạo phương tiện thanh toán: Làm phương tiện thanh toán chính là một
trong những chức năng quan trọng nhất của tiền tệ. Tuy nhiên, việc in tiền là độc
quyền của Bộ Tài chính, hoặc Ngân hàng Trung ương và các Ngân hàng thương
mại không có khả năng tự tạo ra các giấy bạc của riêng mình. Dù vậy, Ngân
hàng thương mại vẫn có khả năng tạo ra phương tiện thanh toán, hay nói cách
khác là làm gia tăng tổng cung tiền bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng).
Thông qua hoạt động nhận gửi và cho vay, hệ thống Ngân hàng thương mại
sẽ làm tăng cung tiền, tuy nhiên mức độ gia tăng này là bao nhiêu thì còn phụ
thuộc vào tỷ lệ dự trữ của các Ngân hàng. Trong trường hợp lý tưởng, nếu mỗi
Ngân hàng đều dự trữ lượng tiền mặt bằng 10% tiền gửi thì số nhân tiền m sẽ có
giá trị bằng 10.
- Trung gian thanh toán: Trong đa số các trường hợp, việc thanh toán bằng
tài khoản (chuyển khoản) tiện dụng và dễ quản lý hơn rất nhiều so với thanh toán
bằng tiền mặt. Để có thể tiến hành thanh toán qua tài khoản, thì vai trò của các
Ngân hàng là không thể thiếu. Thông qua các công cụ như thanh toán bằng séc,
ủy nhiệm chi, nhờ thu, thẻ ATM…. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán
lớn nhất hiện nay tại hầu hết các quốc gia.
1.1.1.3 Tầm quan trọng của hoạt động tín dụng
Tuy nhiên, những lý thuyết trên chỉ đúng với các mô hình Ngân hàng cổ
điển. Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế và khoa học công nghệ hiện đại,
hoạt động của Ngân hàng thương mại đã trở nên vô cùng đa dạng. Bên cạnh
những nghiệp vụ truyền thống như tín dụng, huy động vốn, làm trung gian thanh
4
toán, các Ngân hàng hiện đại còn tham gia đầu tư ủy thác, tư vấn tài chính, kinh

doanh vàng và ngoại tệ….
Không chỉ có thế, trên đường xây dựng một mô hình tập đoàn tài chính –
ngân hàng đa năng, nhiều Ngân hàng thương mại VN đã mở rộng đầu tư sang
chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản…. bằng cách thành lập những công ty con,
hoạt động trong các lĩnh vực riêng biệt với trung tâm là ngân hàng mẹ. Dù vậy,
đối với bất kỳ Ngân hàng nào tại VN nói riêng và trên thế giới nói chung thì tín
dụng vẫn là hoạt động cơ bản, chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng tài sản cũng
như lợi nhuận. Vì thế, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng có xu hướng tập
trung nhiều nhất vào hoạt động tín dụng, và đây luôn là mối quan tâm lớn nhất
của các Ngân hàng thương mại.
1.1.2 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm và phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền
sản xuất hàng hóa, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy cung
cấp và lưu thông hàng hóa. Có rất nhiều cách hiểu về hoạt động tín dụng, tuy
nhiên một cách chung nhất thì tín dụng là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa các
chủ thể, trong đó chủ thể này chuyển cho chủ thể khác quyền sử dụng một
lượng tiền tệ (hoặc hàng hóa), theo những điều kiện nhất định mà hai bên
cùng đồng ý.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ
Ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi
phí nhất định. Về ý nghĩa thì khái niệm tín dụng rộng hơn cho vay. Thực tế,
cho vay chỉ là một trong nhiều hình thức cấp tín dụng, bởi còn có nhiều hình
thức khác như chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán…
Tất cả những nghiệp vụ này đều là việc Ngân hàng cho phép khách hàng
sử dụng vốn của mình, xuất phát từ sự tin tưởng nhất định đối với khách
hàng.
5
Theo Luật các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật các tổ chức tín dụng thì “hoạt động tín dụng” là việc tổ chức tín dụng sử

dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Trong đó, “cấp
tín dụng” là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu,
cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Dù thế nào, tín dụng ngân hàng cũng có các đặc trưng sau:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang người
sử dụng.
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, nghĩa là ngân hàng khi chuyển giao
quyền sử dụng vốn cho khách hàng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ
trả cả gốc và lãi đúng hạn.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị cho vay, tức là người
đi vay phải trả thêm một khoản lãi bên cạnh phần vốn gốc.
- Tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Những văn
bản xác định quan hệ tín dụng thực chất là một dạng lệnh phiếu, theo đó bên
đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
*Phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau.
+ Căn cứ vào thời hạn cho vay: Phân loại tín dụng theo thời gian có ý
nghĩa hết sức quan trọng, vì thời hạn tín dụng liên quan rất mật thiết đến tỷ lệ
sinh lời cũng như rủi ro của các khoản tín dụng, hay kể cả khả năng hoàn trả
của khách hàng. Có thể phân chia như sau:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở
xuống, thông thường để tài trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp, hoặc
các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Nhìn chung, tín dụng ngắn hạn có
tỷ trọng lớn nhất.
6
- Tín dụng trung hạn: Thường có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Chủ yếu được
dùng để tài trợ cho các tài sản cố định, hoặc đầu tư vào các dự án mới có quy
mô tương đối nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.

- Tín dụng dài hạn: Từ 5 năm trở lên, dùng để đáp ứng các nhu cầu dài
hạn như xây dựng nhà ở, mua sắm những thiết bị có thời gian sử dụng lâu,
đầu tư các dự án lớn…
Tất nhiên, việc phân chia này cũng chỉ có tính chất tương đối vì có nhiều
khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời gian.
+Căn cứ theo hình thức tài trợ: Tùy theo hình thức tài trợ, tín dụng có thể
được chia thành cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bao thanh
toán…
- Cho vay: Là việc Ngân hàng cấp tiền cho khách hàng, với cam kết hoàn
trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Có thể cho vay thấu
chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức….
- Chiết khấu: Là hình thức cấp tín dụng trong đó Ngân hàng nhận các
chứng từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền nhất định, thông thường
nhỏ hơn mệnh giá của chứng từ được chiết khấu. Phần chênh lệch chính là lợi
nhuận mà Ngân hàng được hưởng.
- Bảo lãnh: Là cam kết bằng văn bản của Ngân hàng (bên bảo lãnh) với
bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng (bên được bảo lãnh), nếu khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo lãnh.
- Cho thuê: Là việc Ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng
thuê lại theo những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian, khách hàng phải
trả cả gốc lẫn lãi cho Ngân hàng.
- Bao thanh toán: Là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc
mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong
7
hợp đồng mua, bán hàng hóa (QDD số 1096/2004/QĐ-NHNN).
+Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
- Tín dụng không có đảm bảo: Là loại hình tín dụng không cần có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Điều đó có nghĩa, việc cho

vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng (tín chấp). Thông thường, cho vay tín
chấp chỉ được áp dụng đối với các khách hàng lớn, đã có quan hệ lâu năm với
Ngân hàng, hoặc các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ (mà Chính
phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo).
- Tín dụng có đảm bảo: Là loại hình tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm
như thế chấp, cầm cố…. hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba. Ngân hàng phải
kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo, bởi đây là nguồn thu nợ
để bù đắp trong trường hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ.
+ Căn cứ theo mức độ rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này, các Ngân
hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ về đánh giá rủi ro. Theo khoản
6, điều 7, quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của ngân hàng nhà nước, tổ
chức tín dụng cần tiến hành phân loại nợ theo 5 nhóm:
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng thu hồi cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu
khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức
tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến
hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng
tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là khả năng tổn thất cao.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ
8
chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
+Căn cứ theo mục đích cho vay:
Theo tiêu thức này, tín dụng có thể được chia thành các loại sau
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng cá nhân, có thể chia nhỏ ra thành cho vay mua nhà, mua ô tô, hỗ trợ du

học…
- Tín dụng công nghiệp & thương mại: Là loại hình cho vay phục vụ sản
xuất kinh doanh công nghiệp, thương mại, dịch vụ…
- Tín dụng nông nghiệp: Là loại hình cho vay để trang trải các khoản chi
phí sản xuất trong hoạt động nông nghiệp.
+Căn cứ vào phương pháp hoàn trả
- Tín dụng có thời hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trả nợ định
trước, được xác định rõ trong hợp đồng. Có thể có một hoặc nhiều kỳ hạn trả
nợ (nợ được trả thành một hoặc nhiều lần).
- Tín dụng không có thời hạn cụ thể: Có thể do Ngân hàng yêu cầu, hoặc
người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào nhưng cần phải thông báo trước
cho Ngân hàng một khoản thời gian hợp lý.
* Những phương pháp phân loại kể trên cho thấy tính đa dạng, hoặc
chuyên môn hóa trong cấp tín dụng của các Ngân hàng. Trong xu hướng đa
dạng hóa hoạt động, các Ngân hàng có thể đồng thời mở rộng phạm vi tài trợ
và duy trì những lĩnh vực mà mình có lợi thế. Với việc phân loại tín dụng hợp
lý, các Ngân hàng cũng dễ dàng theo dõi mức độ rủi ro và sinh lợi gắn liền
với mỗi lĩnh vực tài trợ, từ đó đề ra chính sách tín dụng phù hợp.
1.1.2.2 Các nghiệp vụ tín dụng
1.1.2.2.1 Cho vay
- Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất
9
định theo thỏa thuân với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Thời hạn nhất định ở đây chính là thời hạn cho vay, được tính từ khi
khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vay.
+Cho vay thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho
phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình
đến một giới hạn nhất định, trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn
này được gọi là hạn mức thấu chi.

Khi khách hàng gửi thêm tiền vào tài khoản, hoặc được chuyển khoản
thêm một số tiền, Ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số tiền mà khách hàng phải
trả được tính như sau: Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi * Thời gian thấu chi
* Số tiền thấu chi.
Hình thức này cho phép khách hàng thực hiện các thủ tục thanh toán
nhanh chóng, kịp thời, linh hoạt mà không cần phải làm đơn xin cấp tín dụng
mới. Tất nhiên, thấu chi chỉ được áp dụng cho các khách hàng có độ tin cậy
cao, thu nhập đều đặn.
+Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay phổ biến với các
khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được
cấp hạn mức thấu chi. Đối với những khách hàng chủ yếu sử dụng vốn chủ sở
hữu và tín dụng thương mại, chỉ có nhu cầu vốn thời vụ thì đây là phương
thức cho vay phù hợp.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình bày phương án sử dụng
vốn vay. Mỗi món vay sẽ được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau. Ngân
hàng sẽ thu gốc và lãi theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, và nếu có dấu hiệu
vi phạm hợp đồng thì Ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn.
Nghiệp vụ này tương đối đơn giản, nhưng Ngân hàng phải mất nhiều chi
phí cho việc theo dõi các món vay.
+Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ theo đó Ngân hàng thỏa thuận
10
cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng nhất định, có thể tính cho cả kỳ
hoặc cuối kỳ. Tuy nhiên, bất kể theo phương pháp nào (cả kỳ, cuối kỳ) thì hạn
mức tín dụng cũng là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được tính toán dựa trên cơ sở kế hoạch kinh doanh và
nhu cầu vốn của khách hàng. Cụ thể, với các doanh nghiệp sản xuất thì hạn
mức này được ước lượng theo dự trữ hàng hóa hợp lý, vốn chủ sở hữu tham
gia dự trữ và các nguồn khác tài trợ cho dự trữ.
Trong kỳ vay khách hàng có thể vay trả nhiều lần, nhưng dư nợ không
được vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng cần trình bày

phương án sử dụng tiền vay, cung cấp các chứng từ hàng hóa và nêu yêu cầu
vay vốn. Hình thức này rất thích hợp với những khách hàng vay mượn thường
xuyên, và giúp khách hàng chủ động trong quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên,
Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát các khoản cho vay.
+Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển
của hàng hóa., thường được áp dụng khi doanh nghiệp mua hàng nhưng thiếu
vốn. Khi đó, doanh nghiệp sẽ làm đơn xin vay vốn và cam kết trả nợ ngay khi
thu được tiền bán hàng. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một
hoặc vài năm, và cả Ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế
hoạch luân chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quĩ trong thời gian sắp tới.
Trong cho vay luân chuyển, thời hạn cho vay không phải là thời hạn trả
nợ (khác với các nghiệp vụ cho vay khác) mà là thời hạn để Ngân hàng xem
xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định xem có nên cho vay nữa
hay không. Các khoản phải thu và hàng hóa trong kho đều trở thành vật đảm
bảo cho khoản cho vay.
Hình thức này rất tiện lợi cho khách hàng, nhưng Ngân hàng có thể
không thu hồi được vốn nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiêu thụ
hàng hóa.
+Cho vay trả góp: Là loại hình cho vay trong đó Ngân hàng cho phép
11
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho
vay trả góp thường được áp dụng cho các khoản vay có thời hạn dài, tài trợ
cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Cho vay trả góp có rủi ro khá cao do khách hàng thường thế chấp bằng
chính hàng hóa mua trả góp, do dó lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất
trong khung lãi suất của Ngân hàng.
+Cho vay gián tiếp: Ngoài các khoản cho vay trực tiếp, Ngân hàng cũng
có thể cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng chuyển giao một
số khâu của hoạt động tín dụng cho các tổ chức như Hội Nông dân, Hội Phụ
nữ…., nhằm tiếp cận tốt hơn với thị trường có nhiều khoản vay nhỏ, người

vay phân tán, cách xa Ngân hàng, nhằm tiết kiệm phí cho vay.
Tuy nhiên, các trung gian cũng có thể lợi dụng vị thế của mình để chiếm
dụng vốn, hoặc tự ý nâng lãi suất cho vay.
1.1.2.2.2 Chiết khấu
Chiết khấu là việc Ngân hàng nhận các chứng từ có giá và trao cho
khách hàng một số tiền nhất định, nhỏ hơn mệnh giá của chứng từ được
chiết khấu. Số tiền chênh lệch này phụ thuộc vào lãi suất, kỳ hạn và lệ phí
chiết khấu.
So với cho vay, chiết khấu có các điểm khác biệt như sau:
- Không cần tài sản thế chấp, sử dụng ngay chứng từ nhận chiết khấu
làm bảo đảm tín dụng
- Ngân hàng thu lãi trước khi phát tiền vay bằng cách khấu trừ vào mệnh giá
- Quy trình cấp tín dụng đơn giản và nhanh chóng hơn so với cho vay
Thương phiếu là loại giấy tờ có giá được đem chiết khấu nhiều nhất, tuy
nhiên các Ngân hàng cũng nhận chiết khấu trái phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết
kiệm….Nhìn chung, nghiệp vụ này khá an toàn bởi thương phiếu, trái
phiếu…. đều có tính thanh khoản tốt, nếu cần thiết có thể thực hiện tái chiết
khấu tại NHNN
12
1.1.2.2.3 Cho thuê tài sản
Giao dịch thuê tài sản là một hợp đồng thương mại, trong đó người sở
hữu tài sản (bên cho thuê) đồng ý cho khách hàng (bên đi thuê) được quyền
sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định, với một mức phí nhất
định. Khoản phí này thường được trả theo hình thức chuỗi niên kim, nhưng
cách thức thanh toán cũng có thể được thỏa thuận để phù hợp với nhu cầu của
khách hàng.
Khi đi thuê, doanh nghiệp sẽ có tài sản để sử dụng mà không cần bỏ tiền
ra mua sắm. Nghiệp vụ này đặc biệt hữu dụng khi doanh nghiệp không có đủ
tiền, hoặc chỉ có nhu cầu sử dụng trong thời gian ngắn, nhỏ hơn thời gian
khấu hao của tài sản…

Cho thuê tài sản lại có thể chia thành hai hình thức, là thuê vận hành và
thuê tài chính. Thuê vận hành (thuê hoạt động) là hợp đồng cho thuê ngắn
hạn, chi phí thuê bao gồm cả hao mòn tài sản, chi phí bảo dưỡng, bảo hiểm và
lợi nhuận của bên cho thuê. Trong trường hợp này, chi phí thuê thường cao vì
bên cho thuê chịu nhiều rủi ro xung quanh giá trị của tài sản.
Thuê tài chính là hình thức phổ biến hơn, về thực chất là một phương
pháp tài trợ vốn. Thông thường, người đi thuê sẽ lựa chọn tài sản cần sử dụng,
sau đó thương lượng với công ty cho thuê tài sản (hoặc Ngân hàng). Khi đó,
Ngân hàng sẽ bỏ tiền ra mua tài sản để cho doanh nghiệp thuê lại. Cũng có
trường hợp, doanh nghiệp bán tài sản cho Ngân hàng rồi đi thuê lại chính tài
sản đó.
Một hợp đồng thuê tài chính phải thỏa mãn 3 điều kiện:
- Người đi thuê có quyền mua lại tài sản khi chấm dứt hợp đồng thuê
- Thời gian thuê tối thiểu phải bằng 75% thời gian sử dụng của tài sản
- Hiện giá của các khoản tiền thuê ít nhất phải bằng 90% giá thị trường
của tài sản ở thời điểm thuê
Thuê tài chính có những ưu điểm nhất định so với bỏ tiền ra mua tài sản,
13
và tùy tình hình là doanh nghiệp có thể lựa chọn phương án tối ưu.
- Nếu đi thuê tài chính, khách hàng có thể tránh được rủi ro do sở hữu tài
sản. Trong nhiều hợp đồng thuê, người đi thuê có quyền chấm dứt hợp đồng
trước thời hạn (và chịu một khoản phạt). Khi đó, rủi ro về sự lạc hậu hay mất
giá của tài sản sẽ cho người cho thuê gánh chịu.
- Linh hoạt hơn nhiều so với đi mua. Điều này đặc biệt thích hợp với
những khách hàng chỉ có nhu cầu sử dụng tài sản theo thời vụ, nhờ đó họ có
thể thay đổi tài sản một cách dễ dàng.
- Lợi ích về thuế. Đối với thuê hoạt động, chi phí thuê sẽ được tính vào
chi phí trước khi xác định lợi nhuận nộp thuế.
- Tiết kiệm thời gian. Trong nhiều trường hợp, quy trình ra quyết định
thuê tài sản nhanh hơn nhiều so với việc đi mua.

- Loại bỏ các hạn chế tín dụng. Có một số doanh nghiệp không đủ điều
kiện để nhận tín dụng, nhưng họ lại dễ dàng có được tài sản mới thông qua
việc đi thuê. Lý do đơn giản là tài sản đi thuê được coi như vật thế chấp.
1.1.2.2.4 Bảo lãnh, bao thanh toán
+ Bảo lãnh là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của Ngân hàng, nếu
khách hàng không thực hiện nghĩa vụ như cam kết. Về bản chất, bảo lãnh là
một hình thức tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có
thể tìm được nguồn tài chính để mua hàng hóa, hoặc thực hiện các hoạt động
sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
Đây là hình thức tài trợ thông qua uy tín, nghĩa là Ngân hàng không phải
xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi là tài sản ngoại bảng.
Tuy nhiên, khi khách hàng không thực hiện được cam kết thì Ngân hàng phải
đảm nhiệm nghĩa vụ trả nợ thay, cho nên bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro
như một khoản cho vay. Do đó, Ngân hàng phải phân tích khách hàng như khi
cho vay.
14
Tùy theo mục tiêu, bảo lãnh có thể được chia thành nhiều loại.
- Bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu là cam kết của Ngân hàng với chủ
đầu tư (hoặc chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu, trong trường
hợp bên dự thầu vi phạm các quy định.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của Ngân hàng về việc chi trả
tổn thất thay cho khách hàng, nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp
đồng như cam kết và gây tổn thất cho bên thứ ba.
- Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của Ngân hàng về
việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua (người hưởng bảo lãnh) nếu bên
cung cấp (người được bảo lãnh) không trả. Thông thường, bên mua yêu cầu
bên cung cấp phải có bảo lãnh của Ngân hàng về hoàn trả tiền ứng trước,
nhằm đề phòng người cung cấp vừa không chuyển hàng, vừa không trả tiền
đặt cọc.

- Bảo lãnh vay vốn là cam kết của Ngân hàng đối với bên cho vay (tổ
chức tín dụng, cá nhân, doanh nghiệp…..) về việc trả gốc và lãi đúng thời hạn
nếu người đi vay không trả được.
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán là cam kết của Ngân hàng về việc sẽ
thanh toán tiền theo đúng hợp đồng cho người thụ hưởng nếu khách hàng
không thanh toán đủ.
+Bao thanh toán về bản chất là hoạt động mua bán nợ, nói cách khác thì
Ngân hàng đã mua lại các khoản phải thu của doanh nghiệp. Nhờ có sự
chuyên môn hóa trong việc thu hồi nợ nên sau khi mua lại các khoản nợ,
Ngân hàng có thể nâng cao hiệu suất và giảm chi phí thu nợ. Trong khi đó,
doanh nghiệp không cần bận tâm đến việc thu nợ mà chỉ tập trung vào sản
xuất kinh doanh.
Với nghiệp vụ bao thanh toán, khách hàng có thể nhận được những tiện
ích sau:
15
- Có thể thu tiền hàng ngay lập tức, tăng nguồn vốn lưu động, thực chất
thì doanh nghiệp đã sử dụng tín dụng của Ngân hàng mà không cần phụ thuộc
vào tài sản thế chấp.
- Tiết kiệm đáng kể thời gian và chi phí trong việc theo dõi và thu hồi
khoản phải thu, được Ngân hàng hỗ trợ đánh giá tình hình kinh doanh và uy
tín tín dụng của bên mua trước khi giao hàng
- Nếu sử dụng hình thức bao thanh toán miễn truy đòi thì Ngân hàng sẽ
gánh chịu hộ rủi ro thanh toán đối với người bán chịu hàng hóa.
Theo quy chế Hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng ban hành
kèm Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN thì tổng số dư bao thanh toán cho một
khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán.
Ngoài ra, các khoản phải thu phát sinh từ các giao dịch bán hàng dưới hình
thức ký gửi, từ các hợp đồng mua, bán hàng có thời hạn thanh toán còn lại dài
hơn 180 ngày… cũng không được thực hiện bao thanh toán.
*Với các nghiệp vụ tín dụng đa dạng như đã kể trên, Ngân hàng có thể

đáp ứng một cách tối đa nhu cầu vốn của khách hàng. Tùy theo quá trình luân
chuyển vốn, chu kỳ thu nhập, đặc điểm kinh doanh…. của khách hàng mà
Ngân hàng áp dụng phương thức tài trợ vốn phù hợp.
1.1.2.3 Chính sách tín dụng của Ngân hàng thương mại
Mỗi một Ngân hàng thương mại đều xây dựng cho mình một chính sách
tín dụng riêng. Thông thường, chính sách tín dụng được thể hiện dưới hình
thức văn bản, tuy nhiên trong một số trường hợp thì chính sách tín dụng có
thể là những chỉ thị bằng lời của BLĐ Ngân hàng, hoặc là một tập hợp các
hành vi, thông lệ, tập quán…
Nhưng dù là dưới hình thức nào, mỗi Ngân hàng thương mại nói chung
và tổ chức tín dụng nói riêng đều xây dựng một tập hợp những quy chế,
hướng dẫn và chỉ tiêu đối với hoạt động tín dụng.
1.1.2.3.1 Vai trò của chính sách tín dụng
16
Tín dụng là hoạt động cơ bản của Ngân hàng. Với tầm quan trọng, quy
mô và mức ảnh hưởng lớn, hoạt động này cần phải được thực hiện dựa trên
một chính sách rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm. Đó
chính là chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng thể hiện cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, là cơ
sở để hình thành nên các thủ tục cho vay. Nói cách khác, nó là một văn bản
đưa ra triết lý và khái niệm cơ bản trong hoạt động tín dụng. Chính sách tín
dụng là hướng dẫn chung về mặt nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng cũng như các
nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng,
tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hướng tới mục tiêu
hạn chế rủi ro, nâng cao tỷ lệ sinh lời.
1.1.2.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tín dụng
Có 4 nhân tố chính ảnh hưởng đến chính sách tín dụng.
- Nhu cầu tín dụng của khách hàng: Chính sách tín dụng là chính sách
phục vụ nhu cầu tín dụng của khách hàng. Do đó, hiển nhiên là nhu cầu của
khách hàng với các đặc tính khác nhau (khách hàng lớn, nhỏ, thường xuyên

hay không thường xuyên….) sẽ tác động đến nội dung và thành công của
chính sách tín dụng.
- Khả năng sinh lời và rủi ro tiềm năng của khách hàng: Mức độ an toàn
cũng như tỷ lệ sinh lời của các hoạt động tín dụng được quyết định chính bởi
khả năng sinh lời và rủi ro tiềm năng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
khách hàng. Nếu khách hàng làm ăn thuận lợi, Ngân hàng sẽ dễ dàng thu hồi
vốn và ngược lại.
- Chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước: Các chính sách ưu
đãi tín dụng, chính sách tỷ giá, chính sách hỗ trợ lãi suất…. của Chính phủ và
Ngân hàng nhà nước đều có ảnh hưởng đến chính sách tín dụng. Nếu Chính
phủ yêu cầu thu hẹp cung tiền, các Ngân hàng thương mại phải hạn chế cấp
tín dụng mới và ngược lại.
17
- Tính chất của các khoản tiền gửi: Quy mô, tính ổn định… của các
khoản tiền gửi, cũng như khả năng huy động vốn của Ngân hàng đều có tác
động lớn đến chính sách tín dụng. Nếu nguồn tiền gửi dài hạn chiếm tỷ trọng
lớn, Ngân hàng có thể gia tăng các khoản tín dụng trung và dài hạn, và
ngược lại.
1.1.2.3.3 Nội dung cơ bản của chính sách tín dụng
Tất cả các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được xem
xét và đưa ra trong chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng tạo cho cán bộ
tín dụng ý thức về phương hướng và một khung tham chiếu nhất định để theo
đó xem xét cân nhắc một khoản cho vay. Tất nhiên, chính sách tín dụng
không nên quá cứng nhắc đến mức bóp nghẹt tính sáng tạo của cán bộ tín
dụng, hay ngăn cản các trường hợp ngoại lệ có thể đưa ra một khoản cho vay
an toàn.
+Chính sách khách hàng
Nhìn chung, khách hàng nhận tín dụng của Ngân hàng rất đa dạng, từ
doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước…. tuy nhiên
luật pháp cũng cấm, hoặc hạn chế Ngân hàng cho vay đối với một số đối

tượng nhất định.
Người đứng tên vay cho một tập thể phải được sự ủy thác của cả tập thể.
Cá nhân vay phải là người đến tuổi thành niên.
+ Chính sách qui mô và giới hạn tín dụng
Ngoài các giới hạn cho luật quy định, mỗi Ngân hàng đều có quy định
riêng về quy mô cho vay tối đa đối với mỗi chi nhánh hoặc khách hàng.
Quy mô tối đa phải đẩm bảo kết hợp tính sinh lời với mức rủi ro có thể
chấp nhận được của mỗi khoản cho vay. Chính sách này còn được quy định
cho từng thời kỳ trong năm, có tính đến quy mô và tính chất nguồn vốn của
từng ngân hàng.
+ Lãi suất và phí suất tín dụng
18
Mỗi Ngân hàng có các mức lãi suất tín dụng khác nhau tùy theo kỳ hạn,
mức độ rủi ro hoặc các loại tiền tệ. Bên cạnh khung lãi suất định trước, Ngân
hàng cũng cung cấp lãi suất thỏa thuận đối với từng khách hàng cụ thể (khách
hàng lớn, thường xuyên có thể được hưởng mức lãi suất ưu đãi hơn).
Lãi suất có thể cố định trong suốt kỳ hạn tín dụng, hoặc biến đổi tùy theo
thay đổi của lãi suất tham khảo (lãi suất thả nổi). Kết hợp của hai loại trên gọi
là lãi suất hỗn hợp. Khung lãi suất tín dụng do Ban giám đốc ngân hàng thông
qua, bao gồm lãi suất cơ bản và lãi suất bình quân với các kỳ hạn, các ngành
và lĩnh vực chủ yếu. Chính sách lãi suất cần chỉ rõ các bộ phận chính cấu
thành lãi suất tín dụng như lãi suất huy động (nguồn), chi phí nhân sự, phần
bù rủi ro, thuế…
+ Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
Kỳ hạn tín dụng luôn là một vấn đề quan trọng, bởi nó liên quan đến
thanh khoản và rủi ro của ngân hàng, cũng như chu kỳ kinh doanh của người
đi vay. Chính sách tín dụng giống như một thông điệp, qua đó thể hiện Ngân
hàng sẵn sàng cung ứng tín dụng với kỳ hạn như thế nào.
Chính sách thời hạn phải giải quyết mối quan hệ của nguồn (chủ yếu là
do người gửi tiền quyết định), và thời hạn tài trợ (xuất phát từ yêu cầu và đặc

thù hoạt động của người đi vay). Nếu Ngân hàng chủ yếu huy động các khoản
tiền gửi ngắn hạn và khả năng chuyển đổi kỳ hạn của nguồn không cao thì
chính sách thời hạn sẽ hướng tới các khoản cho vay ngắn hạn là chính. Đương
nhiên, nếu Ngân hàng có khả năng chuyển hoán nguồn tốt thì chính sách thời
hạn tín dụng và kỳ hạn nợ sẽ nghiêng về đáp ứng kỳ hạn của người vay.
+Các khoản đảm bảo
Chính sách đảm bảo bao gồm các quy định về những trường hợp tài trợ
cần đảm bảo bằng tài sản, các loại đảm bảo cho mỗi loại hình tín dụng, cách
thức thẩm định và quản lý tài sản đảm bảo. Ngoài ra, chính sách này cũng nêu
rõ danh mục các đảm bảo được Ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ phần trăm cho vay
19
đối với mỗi loại đảm bảo.
Đảm bảo có thể bằng phương pháp cầm cố, thế chấp, và Ngân hàng
thường yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm tài sản. Chính sách đảm bảo
cũng quy định về việc sử dụng tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay.
+ Các khoản nợ xấu
Chính sách với các tài sản có vấn đề (các khoản nợ xấu) quy định về
cách thức xác định nợ xấu và các tài sản có khả năng mất vốn khác, tỷ lệ nợ
xấu có thể chấp nhận được. Bên cạnh đó, nó cũng đề cập tới mức độ rủi ro
của món vay, trách nhiệm giải quyết, phạm vi thanh lý và khai thác.
*Cùng với phân tích tín dụng, chính sách tín dụng là xương sống trong
hoạt động của Ngân hàng thương mại. Thực chất, đây chính là chính sách
khách hàng của Ngân hàng.
1.1.3 Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng
1.1.3.1 Rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng luôn phải đối đầu với rủi ro như
rủi ro tín dụng, thanh khoản, hối đoái, lãi suất….
Phần lớn nguồn vốn của Ngân hàng là các khoản tiền gửi phải trả khi
được yêu cầu. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trở nên ngày càng
“phẳng”, các nguồn tiền gửi này thường dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với

lãi suất hơn. Tài sản của Ngân hàng thì chủ yếu là các tài sản tài chính (các
khoản tín dụng, chứng khoán…) với tính rủi ro cao.
Nếu phân chia rủi ro theo nguyên nhân, sau đây là một số loại rủi ro phổ
biến:
+ Rủi ro tín dụng: Là khả năng xảy ra tổn thất khi khách hàng không trả
đúng hạn, hoặc chỉ trả một phần vốn và lãi.
+ Rủi ro ngoại hối: Là khả năng xảy ra tổn thất khi tỷ giá hối đoái thay
đổi vượt quá dự tính. Tùy thuộc vào trạng thái hối đoái của Ngân hàng, sự
20
thay đổi tỷ giá có thể mang đến thu nhập thặng dư, nhưng cũng có thể gây ra
tổn thất.
+ Rủi ro lãi suất: Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất khi lãi suất
thay đổi ngoài dự tính, khiến chênh lệch lãi suất giữa nguồn huy động và các
khoản cho vay thay đổi (theo hướng tiêu cực cho Ngân hàng).
+ Rủi ro thanh khoản: Là khả năng xảy ra tổn thất cho Ngân hàng khi
cung thanh khoản không đáp ứng được cầu thanh khoản.
+ Rủi ro luật pháp: Rủi ro luật pháp liên quan những sự cố hoặc sai sót
trong quá trình hoạt động kinh doanh làm thiệt hại cho khách hàng và đối tác
dẫn đến việc ngân hàng bị khởi kiện. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro này là do
con người hoặc hệ thống công nghệ thông tin.
+ Rủi ro vận hành: Rủi ro trong vận hành là những tổn thất phát sinh do
cơ chế vận hành của ngân hàng không thích hợp, không tuân thủ đúng các
quy trình, quy định nội bộ, nhầm lẫn của con người, các hành động ngoại vi
như lừa đảo, tin tặc.
1.1.3.2 Rủi ro tín dụng, các chỉ tiêu phản ánh rủi ro
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng, cơ bản và có quy mô
lớn nhất của Ngân hàng thương mại – hoạt động tín dụng – nên rủi ro tín dụng
là không thể tránh khỏi, là khách quan. Thực tế, không một Ngân hàng nào có
thể dự báo chính xác những gì sẽ xảy ra trong tương lai, cho nên rủi ro tín
dụng luôn tồn tại và chỉ có thể đề phòng, hạn chế mà không thể loại trừ hoàn

toàn. Vì thế, chỉ cần tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra thấp hơn mức tổn thất
dự kiến thì đã là một thành công
+Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng: Có rất nhiều nguyên nhân gây ra
rủi ro tín dụng, tuy nhiên về cơ bản có thể chia thành các loại sau:
- Nguyên nhân bất khả kháng (rủi ro chính sách, rủi ro hệ thống): Khi
Chính phủ thay đổi chính sách, hoặc thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh…. xảy
ra, có thể xuất hiện những biến cố vượt quá tầm kiểm soát và dự báo của cả
21
người vay lẫn Ngân hàng. Trong những trường hợp bị tổn thất nặng nề, khả
năng trả nợ của Ngân hàng chắc chắn sẽ bị suy giảm.
- Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay: Những nguyên nhân thuộc
loại này thường xuất phát từ sự yếu kém trong quản lý, sử dụng vốn của
người đi vay, hoặc cũng có thể do họ chủ định lừa đảo cán bộ Ngân hàng. Rất
nhiều người vay sẵn sàng sử dụng thủ đoạn ứng phó với Ngân hàng như cung
cấp thông tin sai lệch, mua chuộc…. nhằm thu được lợi nhuận cao. Cũng có
thể, người vay đã tính toán sai hoặc không có khả năng dự báo những bất trắc
xảy ra trong tương lai
- Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng: Trình độ chuyên môn không tốt,
không đủ khả năng đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm
sai…cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Nhân viên tín dụng phải tiếp
cận với rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh…. nên họ có thể mắc sai
sót trong khâu thẩm định khoản cho vay. Nhiều trường hợp, do sống và làm
việc trong một môi trường “nhạy cảm” nên nhân viên tín dụng không giữ
được bản lĩnh, đã tiếp tay cho khách hàng rút ruột Ngân hàng.
*Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng:
Ngân hàng cần phải quản lý rủi ro tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín
dụng, Ngân hàng có thể cụ thể hóa thành những dấu hiệu chính phát sinh
trong hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng.
+ Nợ quá hạn & tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ

+ Nợ khó đòi & tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
+ Các khoản cho vay có vấn đề
+ Chấm điểm/xếp hạng tín dụng của khách hàng
+ Mức độ đa dạng hóa của tín dụng
+ Mất ổn định vĩ mô, lĩnh vực kinh doanh của người vay
1.1.3.3 Quản lý rủi ro tín dụng
22
Hoạt động tín dụng luôn có hai mặt: sinh lời và rủi ro. Vì hoạt động tín
dụng chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động của Ngân hàng, phần lớn thua lỗ của
Ngân hàng là hậu quả của hoạt động này. Bên cạnh đó, tín dụng còn là hoạt
động mang tính khách quan. Do đó, Ngân hàng cần chú trọng đến quản lý rủi
ro tín dụng để đảm bảo an toàn trong hoạt động, nhưng vẫn duy trì tỷ lệ sinh
lời đã đề ra.
Quản lý rủi ro tín dụng bao gồm:
- Hạn chế các khoản tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi
- Thực hiện tốt các quy định về an toàn tín dụng của Ngân hàng Nhà
nước
- Xây dựng một cách chuẩn mực chính sách tín dụng và quy trình phân
tích tín dụng
- Xây dựng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất.
- Sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng trong các nghiệp vụ tự phòng
vệ. Phái sinh tín dụng là các công cụ phái sinh được sử dụng trong việc quản
lí rủi ro tín dụng. Chúng cho phép tách rủi ro tín dụng với các loại hình rủi ro
khác, và chuyển rủi ro này từ người bán rủi ro (người mua sự bảo vệ tín dụng)
đến người mua rủi ro (người bán sự bảo vệ tín dụng).
- Từng bước xây dựng và định vị thương hiệu của ngân hàng, chú trọng
phát triển những sản phẩm, dịch vụ mới, tăng thu phí dịch vụ, giảm dần tỷ
trọng của các sản phẩm dịch vụ tín dụng truyền thống.
- Tăng cường sử dụng bảo hiểm ngân hàng. Quản lí rủi ro tín dụng và
bảo hiểm là các bộ phận không thể thiếu trong quan điểm an ninh kinh tế và

ổn định kinh doanh. Cơ sở của bảo hiểm ngân hàng là các nghĩa vụ chi trả bảo
hiểm cho các ngân hàng khi gặp sự cố rủi ro
- Xây dựng một nền tảng công nghệ hiện đại, đảm bảo các yêu cầu về
quản lý nội bộ của ngân hàng, thỏa mãn yêu cầu của các giao dịch kinh doanh
23
ngày càng đa dạng, yêu cầu quản lý rủi ro, quản lý thanh khoản, có khả năng
kết nối với các ngân hàng khác
1.2 Phân tích tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm, quy trình phân tích tín dụng
1.2.1.1Khái niệm, mục tiêu và yêu cầu
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi
ro nhất của Ngân hàng thương mại. Tuy xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, những rủi ro này đều làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Vì thế, Ngân
hàng cần cân nhắc và thẩm định kỹ lưỡng, ước tính mức độ rủi ro và sinh lời
trước khi quyết định cấp tín dụng. Phân tích tín dụng là quá trình đánh giá
toàn diện về nhu cầu vay vốn của khách hàng, xem liệu chúng có phù hợp với
những quy định của Ngân hàng hay không, có khả năng hoàn trả đúng hạn
hay không, đồng thời qua phân tích đó Ngân hàng xác định được mức độ rủi
ro trong quá trình cho vay.
Mục tiêu của phân tích tín dụng là xác định khả năng và ý muốn hoàn trả
của người nhận tín dụng, nói cách khác là xác định rủi ro và các biện pháp
hạn chế rủi ro.
Phân tích tín dụng là công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng, nếu không
muốn nói là quan trọng bậc nhất trong số các nghiệp vụ Ngân hàng. Đây là
hoạt động liên quan đến trách nhiệm của nhiều phòng ban, bộ phận, do đó qui
trình phân tích tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau
+Được xây dựng và thống nhất trong phạm vi toàn bộ Ngân hàng, tránh
việc tùy tiện, duy ý chí. Quy trình này phải được BLĐ Ngân hàng thông qua
và phổ biến tới các bộ phận có liên quan.
+ Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung.

Mỗi bộ phận, cá nhân trong Ngân hàng đều nhận thức được rõ vai trò, nhiệm
vụ của mình.
24
+ Toàn bộ quy trình phải được xây dựng nhằm thực hiện các nguyên tắc
tín dụng ngân hàng.
1.2.1.2 Các nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên
tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời.
+Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn lẫn lãi trong một thời gian
xác định. Các khoản tín dụng của Ngân hàng cấp cho khách hàng có nguồn
gốc từ tiền gửi của những khách hàng khác, mà khoản này thì Ngân hàng phải
cam kết hoàn trả. Do đó, người nhận tín dụng cũng phải thực hiện đúng cam
kết hoàn trả, đó là điều kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển.
+Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích đã thỏa
thuận với Ngân hàng, không trái các quy định của pháp luật nói chung và của
Ngân hàng Nhà nước nói riêng.
+Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án sử dụng vốn vay (hoặc dự án đầu
tư) có hiệu lực. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để tuân thủ nguyên tắc
thứ nhất. Sử dụng vốn vay có hiệu quả thể hiện được khả năng trả nợ của
khách hàng, và các khoản tài trợ của Ngân hàng phải gắn liền với việc hình
thành tài sản của người vay.
1.2.1.3 Quy trình phân tích tín dụng
Quy trình tín dụng được đặt ra để chuẩn hóa quá trình tiếp xúc, phân
tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng. Quy tình này bao gồm nhiều bước
có quan hệ chặt chẽ với nhau, mỗi bước bao gồm nhiều giai đoạn được xây
dựng một cách khoa học, hợp lý nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu của Ngân
hàng. Về thực chất, quy trình tín dụng chính là các bước (hoặc nội dung công
việc) mà cán bộ tín dụng, các bộ phậ có liên quan trong Ngân hàng phải thực
hiện khi cân nhắc tài trợ cho khách hàng.
+Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng

Đây là một trong những bước quan trọng nhất, vì nó quyết định chất
25

×