Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Giải pháp nhu cầu năng lực tài chính cho Vietcombank trong điều kiện hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.81 KB, 112 trang )


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
em. Các số liệu và tài liệu sử dụng trong khóa luận là trung thực
và có nguồn dẫn cụ thể, các kết luận trong khóa luận là kết quả
của quá trình nghiên cứu một cách nghiêm túc của em.
Sinh viên
Ngô Thuỳ Dung
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÍ TỰ VIẾT TẮT
XHCN Xã hội chủ nghĩa
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTƯ Ngân hàng Trung Ương
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHVN Ngân hàng Việt Nam
NHNT, VCB Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
KH Khách hàng
KHKT Khoa học kỹ thuật
BIS Ngân hàng thanh toán quốc tế
CAR Capital Adequacy Ratio: Hệ số đủ vốn
ROA Tỷ suất lợi nhuận/ tổng tài sản
ROE Tỷ suất lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu
ROAA Tỷ suất lợi nhuận/ Tổng tài sản bình quân
ROEA Tỷ suất lợi nhuận/ Vốn chủ sở hữu bình quân
NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
AMC Asset management company: Công ty quản lý tài sản
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
Cheabol Tập đoàn kinh tế lớn
TS Tài sản
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế


WB Ngân hàng thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC Cộng tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
ASEM Hội nghị cấp cao Á – Âu
HSC Hội sở chính
SGD Sở giao dịch
DANH MỤC BẢNG, BIỂU

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Bất cứ một doanh nghiệp nào hoạt động cũng chịu tác động của các yếu
tố thuộc về môi trường kinh tế vĩ mô như chính sách của Đảng và Nhà nước
trong từng thời kì, môi trường pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp...
Trong điều kiện hội nhập, môi trường kinh tế vĩ mô ở đây không còn bó hẹp
trong môi trường kinh tế của một nước, một quốc gia riêng rẽ nữa mà trong
nhiều trường hợp, nó bao hàm cả môi trường kinh tế quốc tế, là sự tăng
trưởng hay suy thoái kinh tế chung của cả thế giới. Chính vì thế, trong điều
kiện hội nhập, các NHTM VN trước hết phải đương đầu với những thách
thức do môi trường kinh tế trong nước và quốc tế gây ra.
Nền kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp và cơ cấu kinh tế không
hợp lý. Chúng ta không thể phủ nhận được rằng nền kinh tế Việt Nam là nền
kinh tế, tuy được đánh giá là đang phát triển, nhưng chúng ta có xuất phát
điểm thấp và có cấu kinh tế không hợp lý, không hiệu quả. Chính vì thế mà
trong bảng xếp hạng cạnh tranh của một số nền kinh tế do Diễn đàn kinh tế
thế giới (World Economic Forum) tiến hành, vị trí cạnh tranh của Việt Nam
đứng ở tốp cuối, và đáng buồn hơn nữa là những năm sau lại thấp hơn năm
trước. Điều đó cho thấy chúng ta cần phải cố gắng nỗ lực hết sức mình để
cải thiện vị trí cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của từng doanh
nghiệp nói riêng.

Hệ thống NHTM VN cũng không nằm ngoài bối cảnh này. Không thể có
một NHTM khoẻ mạnh trong một nền kinh tế còn nhiều vấn đề. Hiệu quả của
hoạt động ngân hàng phản ánh hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, của
nền kinh tế. Chính vì vậy mà thách thức lớn của nền kinh tế Việt Nam trong
hội nhập kinh tế quốc tế, trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư... cũng
1
chính là những thách thức của ngành ngân hàng, của hệ thống NHTM - "kênh
truyền dẫn vốn quan trọng trong nền kinh tế".
Nhận thức được tính cấp thiết đó, trong thời gian thực tập tại Sở giao
dịch chính của Vietcombank tại 31- 33 Ngô Quyền, em đã cố gắng tìm hiểu
thực tiễn hoạt động của ngân hàng thông qua phân tích tình hình tài chính của
VCB trong thời gian gần đây nhằm tìm hiểu những giải pháp nhu cầu năng
lực tài chính cho VCB trong điều kiện hội nhập. Vì vậy, em chọn đề tài: “
Giải pháp nhu cầu năng lực tài chính cho Vietcombank trong điều kiện hội
nhập” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Năng lực tài chính của NHTM.
Phạm vi nghiên cứu: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, bao gồm
việc vận dụng phương pháp tư duy lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử kết hợp với các phương pháp nghiên cứu của khoa học quản lý kinh tế - tài
chính như phương pháp thống kê chọn lọc, đối chiếu so sánh từ đó tổng hợp
và phân tích đối tượng cần nghiên cứu.
4. Kết cấu.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, khóa luận có bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về năng lực tài chính của
ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng về năng lực tài chính của Vietcombank trong
điều kiện hội nhập.

Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của Vietcombank
trong điều kiện hội nhập.
2
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC
TÀI CHÍNH CỦA NHTM
1.1. Tổng quan về NHTM.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của NHTM.
NHTM là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất trong
nền kinh tế, tổng tài sản có của NHTM luôn luôn có khối lượng lớn nhất
trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Mặt khác, khối lượng séc, thẻ tín dụng
hay tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mà nó có thể tại ra chiếm một tỷ trọng
lớn trong tổng cung tiền tệ M1 của cả nền kinh tế. Có nhiều khái niệm khác
nhau về NHTM:
 Ở Hoa Kỳ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài
chính.
 Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận
của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền
mà họ dùng chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ
tài chính.
 Ở Việt Nam: theo Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-05-1990 của Hội
đồng Nhà nước xác định: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh
doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho
vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và là phương tiện thanh toán”
Theo luật tổ chức tín dụng năm 1998: “NHTM là những tổ chức thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
3

nhiệm vụ thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và dịch vụ thanh toán.
1.1.2. Chức năng và vai trò của NHTM.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa, NHTM thực hiện các chức năng sau:
 Chức năng là trung gian tín dụng.
Đây là chức năng cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong việc thúc đẩy nên kinh tế hàng hóa phát triển. Thực hiện chức
năng này, NHTM thực sự là “cầu nối” giữa những người có tiền nhàn rỗi
muốn cho vay với những người thiếu vốn cần vay. NHTM góp phần tạo lợi
ích công bằng cho cả 3 bên trong quan hệ: Người gửi tiền, Ngân hàng và
người vay tiền.
 Đối với người gửi tiền: Phát huy tối đa hiệu suất sinh lời từ đồng vốn
tạm thời nhàn rỗi hay nhận được các phương tiện thanh toán tiện ích,
an toàn từ ngân hàng.
 Đối với NHTM: Sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi
suất cho vay, lãi suất huy động hay hoa hồng môi giới.
 Đối với người vay: Đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh
doanh, chi tiêu hay thanh toán.
Khi thực hiện chức năng làm trung gian tín dụng, NHTM đa huy động
triệt để các vốn nhàn rỗi, điều hòa từ nơi thừa đến nơi thiếu. Kích thích quá
trình luân chuyển vốn của toàn xã hội và thúc đẩy quá trình tái sản xuất của
các doanh nghiệp.
 Chức năng làm trung gian thanh toán.
4
Những người có
đồng tiền nhàn
rỗi
NHTM
Những người
cần vốn
Nhận tiền

gửi, ủy thác
đầu tư…
Cho vay,
đầu tư…
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán NHTM cung cấp các phương
tiện thanh toán cho nền kinh tế, tiết kiệm chi phí lưu thông và nâng cao khả
năng tín dụng.
Việc mở tài khoản, cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán làm
cho NHTM trở thành một trung tâm thanh toán của nền kinh tế. NHTM sẽ
thừa lệnh khách hàng thực hiện toàn bộ các nghiệp cụ ngân quỹ của khách
hàng. Giúp cho khách hàng và nền kinh tế chu chuyển vốn nhanh, an toàn và
tiết kiệm.
Với chức năng trung gian thanh toán cũng cho phép NHTM tạo ra bút tệ
để mở rộng quy mô tín dụng.
Việc hệ thống NHTM thực hiện chức năng trung tâm thanh toán mang
một ý nghĩa rất to lớn:
 Trước hết đối với nền kinh tế, hệ thống ngân hàng sẽ cung cấp nhiều
công cụ thanh toán tiện ích như: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, thẻ rút
tiền, ngân phiếu, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu…
 Thứ hai, khi sử dụng phương thức thanh toán, bản thân các chủ thể
kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí lao động, thời gian lại an
toàn. Hệ thống NHTM lại tích tụ được một số vốn khổng lồ để có thể
mở rộng khả năng tín dụng.
Tóm lại, có thể nói chu chuyển tiền tệ ngày nay chủ yếu thông qua hệ
thống NHTM và do vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn
thiện thì vai trò của NHTM sẽ được nâng cao hơn với tư cách là người thủ
quỹ của xã hội.
 Chức năng tạo tiền của NHTM.
Nghiệp vụ tạo tiền xuất phát từ cả 2 chức năng trên trong toàn bộ hệ
thống Ngân hàng.

Khi NHTM cho vay hoặc mua chứng khoán trong dân chúng thì NHTM
5
mở rộng thu hút tiền gửi và nhờ hoạt động trong hệ thống mà các NHTM đã
tạo ra bút tệ. Một NHTM đơn độc không thể mở rộng tiền gửi mà chỉ cho vay
trong số tiền dự trữ của mình. Vì vậy nghiệp vụ tạo tiền chỉ thực hiện thông
qua hợp đồng của toàn hệ thống.
Nghiệp vụ tạo tiền của NHTM có ý nghĩa toàn diện khá to lớn. Các
khoản tiền mới tạo ra thật sự thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở
nguồn vốn mới tạo ra, không phải trên cơ sở nguồn vốn tiền gửi ban đầu.
 Chức năng trung gian trong việc thực hiện chính sách kinh tế quốc gia.
Hệ thống NHTM mặc dù mang tính chất độc lập nhưng nó luôn luôn
chịu sự quản lý chặt chẽ của NHTƯ về mọi mặt. Đặc biệt NHTM phải luôn
tuân theo các quyết định của NHTƯ về việc thực thi chính sách tiền tệ.
 Để ổn định giá trị của đồng tiền về mặt đối nội và đối ngoại, lượng
tiền cung ứng cho lưu thông phải phù hợp với giá trị hàng hóa lưu
thông. để làm được điều này NHTƯ sử dụng các công cụ của chính
sách tiền tệ để điều hòa khối lượng tiền tệ trong lưu thông và bắt buộc
các NHTM phải chấp hành. Như vậy NHTM là chủ thể đóng vai trò
quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ .
 Để gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, tín dụng phát ra từ các NHTM
phải mang lại hiệu quả, việc thu hút vốn nươc ngoài thông qua các
ngân hàng thương mại cũng phải được sử dụng đúng mục đích, yêu
cầu của nền kinh tế...
 Tín dụng NHTM trên cơ sở cho vay mở rộng sản xuất, phát triển
ngành nghề, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần
thực hiện các mục tiêu và chính sách xã hội cho Nhà nước.
Từ 4 chức năng chủ yếu trên của NHTM, ta rút ra được vai trò của
NHTM như sau:
☻ NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
6

Hoạt động của NHTM là cung ứng tín dụng và làm trung gian thanh toán
cho các doanh nghiệp tiến hành hợp đồng sản xuất kinh doanh được thuận lợi.
Từ đó, góp phần quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
☻ NHTM là công cụ thực hiện chính sách của NHTW: Khi thực thi các
công cụ chính sách tiền tệ của NHTM thì mới có hiệu quả từ việc chấp hành
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, qui chế thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao hiệu
quả cho vay và đầu tư vốn trong nền kinh tế quốc dân.
1.2. Năng lực tài chính của NHTM.
1.2.1. Khái niệm về năng lực tài chính của NHTM.
Năng lực tài chính của NHTM được hiểu là khả năng của NHTM trong
việc đáp ứng, xử lý các vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh. Hay nói
cách khác thì năng lực tài chính là khả năng, là sức mạnh nội lực của ngân
hàng giúp ngân hàng có thể phản ứng linh hoạt trước mỗi sự thay đổi tích cực
hay tiêu cực của thị trường, như khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh kiếm lời
hay chính là “sức đề kháng” của ngân hàng trước những rủi ro phải đối mặt.
Năng lực tài chính quyết định khả năng sinh lời, khả năng mở rộng
quy mô, khả năng kiểm soát rủi ro, khả năng xử lý nợ xấu làm minh bạch
hóa tài chính…
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính của NHTM.
Năng lực tài chính của ngân hàng được thể hiện qua các chỉ tiêu như:
Vốn của ngân hàng, giới hạn an toàn hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng
kiểm soát rủi ro, khả năng kiểm soát và xử lý nợ xấu…
1.2.2.1. Nguồn vốn của NHTM.
(1) Khái niệm về vốn:
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hay huy động
được, dùng để cho vay, đầu tư hay thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
(2) Năng lực tài chính của NHTM được thể hiện qua các chỉ tiêu về vốn:
7
a) Quy mô vốn tự có.
 Vốn tự có là những giá trị tiền tệ ngân hàng tạo lập được thuộc sở

hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng (khoảng dưới 10%) song lại là điều kiện pháp ký
bắt buộc đối với 1 ngân hàng khi mới thành lập, vì vốn tự có là yếu tố
quyết định sức mạnh tài chính của 1 ngân hàng. Một mặt, vốn tự có là
cơ sở để ngân hàng tiến hành mọi hoạt động kinh doanh. Mặt khác,
nó được coi là “tấm đệm chốn đỡ rủi ro” khi ngân hàng gặp khó khăn
đặc biệt là nguy cơ mất khả năng thanh toán có thể dẫn ngân hàng tới
phá sản.
 Vốn tự có bao gồm:
 Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng
do pháp luật quy định.
 Vốn điều lệ: là vốn do cổ đông đóng góp và được ghi vào trong điều
lệ hoạt động của ngân hàng và theo quy định phải bằng vốn pháp
định.
 Vốn tự có bổ sung: vốn tự có của các NHTM không ngừng tăng lên
theo thời gian thông qua nguồn vốn bổ sung gồm:
 Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Với mục đích tăng cường vốn điều lệ
ban đầu, là vốn được trích từ lợi nhuận hàng năm để bổ sung vốn
pháp định. Luật của Việt Nam quy định hàng năm phải tính 5% lợi
nhuận ròng để lập quỹ này, còn mức tối đa do NHTƯ quy định.
 Quỹ dự trữ đặc biệt: Dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Đây cũng
là loại vốn được tính từ lợi nhuận để bù đắp rủi ro trong quá trình
hoạt động. Hàng năm ngân hàng phải trích 10% trên lợi nhuận ròng
cho tới khi bằng vốn pháp định.
8
 Ngoài các quỹ trên, còn có phần lợi nhuận được phân bổ hay các quỹ
nghiệp vụ khác như: quỹ phát triển nghiệp vụ ngân hàng, quỹ phúc
lợi, khen thưởng, khấu hao…
Một ngân hàng có vốn tự có lớn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, bởi

nó là 1 nhân tố có khả năng tác động lớn tới tâm lý khách hàng khi lựa chọn
ngân hàng để thực hiện giao dịch và gửi tiền, từ đó tạo nên uy tín của ngân
hàng. Mặt khác, giá trị vốn tự có cũng chính là giới hạn mức thua lỗ tối đa mà
ngân hàng có thể chịu đựng được khi gặp phải rủi ro. Bởi vậy ngân hàng
muốn hoạt động an toàn nhất thiết phải duy trì được mức vốn đủ lớn, thể hiện
năng lực tài chính của mình là đủ mạnh.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, cạnh tranh trên mọi lĩnh vực, sản
phẩm, dịch vụ. Ngân hàng nào có mức vốn tự có thấp sẽ dễ dàng gặp phải
khó khăn, đổ vỡ do phải cạnh tranh với những ngân hàng có mức vốn lớn,
quy mô hoạt động mạnh. Nhất là đối với các nước đang phát triển khi hội
nhập kinh tế quốc tế, thực hiện mở cửa hệ thống tài chính thì đây thực sự là
vấn đề đáng quan tâm cho các ngân hàng nhỏ với tỷ lệ vốn thấp. Do đó, các
ngân hàng phải có kế hoạch tăng cường vốn cho ngân hàng mình nhằm giúp
cho ngân hàng có được nền tảng vững chắc, chống được các rủi ro trong
hoạt động, tận dụng lợi thế cạnh tranh. Một nguồn vốn hùng mạnh sản xuất
giúp các ngân hàng tiến hành thực hiện các kế hoạch, các chiến lược dài hạn
như mở rộng quy mô hay đầu tư, đổi mới trang thiết bị công nghệ, dễ dàng
thực hiện các mục tiêu của mình cũng như là căn cứ để kiểm soát và giới hạn
hoạt động của mình giúp ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh và
đầu tư có hiệu quả.
b) Quy mô vốn huy động.
 Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội. Vốn huy động chiếm
9
tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn của NHTM, đóng vai trò rất quan trọng
đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, là vốn kinh doanh chính
và là đòn bẩy để nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng. Vốn huy
động luôn biến động nên ngân hàng không được phép sử dụng hết số
vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với 1 tỷ lệ hợp lý để đảm bảo
khả năng thanh toán. Ngân hàng huy động vốn dưới 2 hình thức:

Nhận tiền gửi của cá nhân hay tổ chức và phát hành các công cụ nợ.
 Quy mô vốn huy động thể hiện khả năng huy động của ngân hàng,
khối lượng vốn được ngân hàng sử dụng để kinh doanh, đầu tư. Một
ngân hàng có thể huy động được 1 khối lượng vốn lớn, dễ dàng, trong
1 thời gian ngằn hẳn ngân hàng đó phải có 1 tiềm lực tài chính đủ
mạnh, có uy tín và có khả năng ảnh hưởng lớn tới thị trường. Nhìn
vào quy mô vốn huy động, khách hàng phần nào thấy được quy mô
hoạt động của ngân hàng, đánh giá được phần nào uy tín và hình ảnh
về ngân hàng. Vốn huy động là vốn chính để ngân hàng tiến hành
kinh doanh, thực hiện cho vay và đầu tư trên thị trường tài chính để
kiếm lời. Chính vì thế, quy mô vốn huy động quyết định quy mô hoạt
động tín dụng, quy mô hoạt động đầu tư, tạo điều kiện gia tăng lợi
nhuận, bổ sung vốn tự có, góp phần củng cố và nâng cao năng lực tài
chính của ngân hàng.
c) Quy mô vốn đi vay.
 Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM và NHTƯ, hay giữa
các NHTM với nhau hay với các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM
sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi ngân hàng
đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ hoạt động. Nói cách
khác là ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng.
10
 Quy mô vốn vay thể hiện khả năng vay vốn của ngân hàng, nó cũng
phản ánh năng lực tài chính của ngân hàng bởi 1 ngân hàng mạnh có
thể chủ đọng vay được 1 khối lượng vốn cần thiết, dễ dàng hơn so với
các ngân hàng khác có năng lực tài chính yếu, từ đó có thể tận dụng
vốn đó để nắm bắt thời cơ kinh doanh hay đáp ứng nhu cầu vốn khả
dụng trong thanh toán, phòng ngừa rủi ro.
d) Quy mô vốn khác.
 Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được 1
khoản vốn trong thanh toán: Vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài

khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong tỏa
do ngân hàng chấp nhận hối phiếu thương mại. Các khoản tiền tạm
thời được trích từ tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng
nên được coi là tiền nhàn rỗi.
 Quy mô vốn khác thể hiện khả năng gia tăng vốn của ngân hàng trong
các hoạt động cung ứng dịch vụ, nó cũng phần nào nói lên chất lượng
sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung ứng.
e) Tỷ trọng từng loại vốn trong tổng nguồn vốn: Tỷ trọng của vốn tự có,
vốn huy động, vốn vay, vốn khác trong tổng nguồn vốn.
Cấu trúc vốn phân theo kỳ hạn là ngắn hạn, trung hay dài hạn, hoặc
phân theo chủ thể huy động vốn là cá nhân hay tổ chức, qua đó đánh giá cơ
cấu nguồn vốn hiên tại của ngân hàng đã đảm bảo phát huy tốt nhất năng lực
tài chính của ngân hàng hay chưa.
f) Tỷ lệ an toàn vốn.
Đánh giá khả năng và ý thức của 1 ngân hàng trong việc thực hiện đảm
bảo an toàn về vốn, cho thấy khả năng chống đỡ rủi ro trong hoạt động của
ngân hàng, lành mạnh hóa tài chính. Theo yêu cầu của ngân hàng thanh toán
quốc tế (BIS) và chuẩn mực an toàn hoạt động ngân hàng của Ủy ban Basel,
11
tỷ lệ an toàn vốn được đánh giá qua hệ số đủ vốn CAR. Một ngân hàng được
xem là đủ vốn khi tỷ lệ vốn cấp I chia cho tài sản có đã điều chỉnh rủi ro tối
thiểu bằng 4% và tổng vốn cấp I và II chia cho tài sản có đã điều chỉnh rủi ro
tối thiểu bằng 8%. Trong đó, vốn cấp I là vốn nòng cốt gồm vốn điều lệ, quỹ
dự trữ bổ sung vốn điều lệ , quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển
nghiệp vụ, và lợi nhuận không chia. Vốn cấp 2 là vốn bổ sung gồm 50% phần
giá trị tăng thêm của tài sản cố định được đánh giá lại theo quy định của pháp
luật, 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ
phiếu đầu tư, vốn góp) được định giá lại theo quy định của pháp luật, trái
phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành, các
công cụ và dự phòng chung. Tổng vốn cấp 2 không được quá 100% vốn cấp I.

Thông thường khi nhắc đến CAR, hệ số này được hiểu là CAR loại II. Tỷ lệ
này đã chỉ cho chúng ta thấy quy mô vốn chủ sở hữu của các ngân hàng càng
nhỏ thì càng hạn chế hoạt động các ngân hàng. Nếu các ngân hàng có quy mô
nguồn vốn nhỏ mà vẫn mở rộng hoạt động của mình đến mức làm cho hệ số
CAR bị thấp hơn mức tối thiểu thì rủi ro đối với hoạt động của ngân hàng sẽ
là rất lớn. Đây cũng chính là thực tế mà các NHTM Việt Nam đã phải đối mặt
trong suốt những năm qua. Việc tăng cường năng lực tài chính của các
NHTMNN Việt Nam để đáp ứng được yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn cũng như
để nâng cao năng lực cạnh tranh là 1 việc làm không hề đơn giản. Nó đòi hỏi
1 khối lượng vốn đầu tư khổng lồ so với tiềm lực tài chính còn rất hạn hẹp
của nền kinh tế Việt Nam.
g) Vòng quay của vốn:
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của các ngân
hàng là do năng lực quản trị tài chính hạn chế, đặc biệt trong việc hoạch định
nguồn tài trợ dài hạn và quản trị vốn ngắn hạn, thể hiện qua tình trạng thiếu
vốn, mất tính thanh khoản.
12
Vòng quay của vốn =
Vòng quay vốn càng cao thê hiện tốc độ luân chuyển vốn càng cao, hiệu
quả sử dụng vốn là tốt. Ngược lại, vòng quay vốn thấp chứng tỏ khả năng
luôn chuyển vốn chậm, ngân hàng sử dụng vốn không hiệu quả.
Khi được so sánh trong một khoảng thời gian, nó sẽ cho biết mức độ
ngân hàng có thể phát triển mà không cần phải đầu tư thêm vốn. Nhìn chung,
ngân hàng có biên lợi nhuận cao thì có vốn quay vòng thấp và ngược lại. Nó
còn được gọi là quay vòng vốn cổ đông (Equity Turnover).
1.2.2.2. Khả năng sinh lời.
Khả năng sinh lợi (profitability): là thước đo hiệu quả bằng tiền, là điều
kiện cần nhưng chưa đủ để duy trì cân bằng tài chính. Việc đánh giá khả năng
sinh lợi phải dựa trên một khoảng thời gian tham chiếu. Khái niệm khả năng
sinh lợi được áp dụng trong mọi hoạt động kinh tế sử dụng các phương tiện

vật chất, con người và tài chính, thể hiện bằng kết quả trên phương tiện. Khả
năng sinh lợi có thể áp dụng cho một hoặc một tập hợp tài sản.
Ở cấp độ doanh nghiệp, khả năng sinh lợi là kết quả của việc sử dụng tập
hợp các tài sản vật chất và tài sản tài chính, tức là vốn kinh tế mà doanh
nghiệp nắm giữ. Nhìn chung, khả năng sinh lợi cần ít nhất đủ để đáp ứng
được hai đòi hỏi cấp bách:
 Đảm bảo duy trì vốn cho doanh nghiệp (đầu tư).
 Trả được các khoản lãi vay và đảm bảo hoàn trả khoản vay.
Lãi thu được từ các hoạt động sinh lợi trong năm tài khoá có thể được
trích chia cho cổ đông hoặc vẫn duy trì dưới dạng vốn dự trữ (reserve). Nếu
không tính tới thuế và lãi, khả năng sinh lợi của tài sản phải cho phép tích luỹ
đủ tiền để đảm bảo vốn sản xuất kinh doanh, đảm bảo hoàn trả nợ, đóng góp
vào việc tăng vốn và trả lợi nhuận đầu tư vốn cho các cổ đông.
Mọi quyết định và thay đổi về việc nắm giữ tài sản không chỉ làm nảy
13
sinh vấn đề tài chính mà còn làm nảy sinh cả vấn đề sinh lợi. Nếu khả năng
sinh lợi không đủ lớn, doanh nghiệp sẽ không đủ phương tiện để đáp ứng nhu
cầu của nhiều yếu tố sản xuất kinh doanh khác nhau. Thặng dư khi đó sẽ
không đủ để duy trì cân bằng tài chính.
Cần chú ý là khả năng sinh lợi của tài sản chỉ là một phần vấn đề nảy
sinh từ khả năng sinh của các nguồn vốn thực hiện. Trên thực tế, rủi ro trong
hoạt động của doanh nghiệp do các cổ đông gánh chịu. Lợi nhuận mà họ thu
được không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh lợi của tài sản mà còn phụ thuộc
vào chi phí đi vay. Yêu cầu về tỷ lệ sinh lợi tối thiểu phù hợp với khả năng
bảo toàn vốn cho doanh nghiệp và trả lợi nhuận đầu tư vốn sẽ kết nối trước
hết chức năng tài chính với mọi quyết định sử dụng tiền (tức là việc tạo hoặc
thay đổi cấu trúc tài sản). Các kỹ thuật ước lượng và tính toán khả năng thanh
toán và khả năng sinh lợi sẽ được đề cập trong các bài viết sắp tới.
Khả năng sinh lời của 1 ngân hàng được đo bằng các chỉ tiêu: Doanh số
cho vay, lợi nhuận, các tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), lợi nhuận trên

vốn chủ sở hữu (ROE)…
Doanh số, cơ cấu cho vay và đầu tư: Đây là những chỉ tiếu phản ánh
tình hình, quy mô, khả năng cung ứng tín dụng đối với nền kinh tế, hiệu
quả sử dụng vốn của ngân hàng, từ đó quyết định kết quả kinh doanh, lợi
nhuận của ngân hàng. Một cơ cấu danh mục đầu tư và cho vay hợp lý và
bảo đảm an toàn giúp ngân hàng sử dụng có hiệu quả tối đa khối lượng vốn
khả dụng của mình.
Một ngân hàng có các chỉ tiêu thu nhập, lợi nhuận cao là cơ sở tốt để
ngân hàng nâng cao năng lực tài chính của mình, đảm bảo nền tảng vững chắc
và những điều kiện tốt nhất để ngân hàng phát triển và mở rộng quy mô trong
tương lai. Nếu ROA là thông số đo lường tính hiệu quả của quản lý, nó chỉ ra
khả năng của hội đồng quản trị ngân hàng là tốt hay yếu kém trong quá trình
chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng thì ROE lại chỉ ra hiệu quả
14
sử dụng của 1 đồng vốn tự có có khả năng mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận
cho ngân hàng, biểu thị tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông là cao hay thấp, có đủ
hấp dẫn các nhà đầu tư hay không?
1.2.2.3. Khả năng xử lý nợ đọng, nợ xấu ( nợ quá hạn, nợ khó đòi)
 Khái niệm nợ xấu:
 Định nghĩa nợ xấu của Việt Nam tại Quyết định 493/2005/QĐ-Ngân
hàng Nhà nước ngày 22/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước như sau:
“Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn),
nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn).”
Cụ thể nhóm 3 trở xuống gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc
trên 90 ngày, đồng thời tại Điều 7 của Quyết định nói trên cũng quy định các
ngân hàng thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch
toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Như vậy nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố: đã quá hạn trên 90 ngày và
khả năng trả nợ đáng lo ngại. Đây được coi là định nghĩa của VAS.
 Còn theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê - Liên hợp quốc,

“về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi
và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở
lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận;
hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý
do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán
đầy đủ”.
Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên 2 yếu tố: quá
hạn trên 90 ngày và khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của
IAS đang được áp dụng phổ biến hiện hành trên thế giới.
 Một định nghĩa mới về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc
tế (IFRS) và IAS 39 vừa được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế
15
cho ra đời và được khuyến cáo áp dụng ở một số nước phát triển vào
đầu năm 2005. Về cơ bản IAS 39 chỉ chú trọng đến khả năng hoàn trả
của khoản vay bất luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa
quá hạn.
 Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là
phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay
(khách hàng). Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết,
nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, nó đang
được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế chỉnh sửa lại.
Đây là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động sử dụng vốn của ngân
hàng khi tiến hành cung ứng trình độ cho nền kinh tế. Doanh số cho vay cao
chưa thể khẳng định là ngân hàng sử dụng vốn có hiệu quả. Trái lại, nếu số
tiền ngân hàng đã cho vay khó thu hồi hay không thể thu hồi, thể hiện ở chỉ
tiêu nợ quá hạn, nợ xấu/ tổng dư nợ là cao thì đây là dấu hiệu cho thấy ngân
hàng đã sử dụng vốn không có hiệu quả, không đảm bảo sinh lời, rủi ro cao và
làm xấu đi tình hình tài chính của ngân hàng.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của NHTM.
Nhân tố khách quan: Bao gồm các yếu tố chính trị - xã hội, kinh tế,

pháp luật, khoa học công nghệ… Đây được coi là nhân tố vĩ mô tác động gián
tiếp và có ảnh hưởng lớn đối với không chỉ riêng hoạt động của ngân hàng mà
tới toàn bộ mọi hoạt động của đời sống xã hội. Bất kỳ một sự thay đổi nào dù
là nhỏ nhất của môi trường này đều ít nhiều làm thay đổi hoạt động sản xuất
kinh doanh của nền kinh tế nói chung và đặc biệt là hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng nói riêng. Nó có thể mở ra những cơ hội đàu tư, kinh doanh,
tìm kiếm và gia tăng lợi nhuận, từ đó tạo cơ hội, điều kiện củng cố năng lực
tài chính, nâng cao vị thế cạnh tranh. Nhưng ngược lại môi trường khách quan
cũng hàm chứa rất nhiều rủi ro có thể làm tổn hại đến ngân hàng, thậm chí có
16
thể dẫn tới mất khả năng tài chính và buộc phải phá sản. Với ảnh hưởng quan
trọng như vậy đòi hỏi đặt ra với các ngân hàng là luôn luôn phải cập nhật,
nắm bắt kịp thời những thay đổi của các nhân tố khách quan để có thể chủ
động nắm bắt cơ hội hay đương đầu với rủi ro bằng chính khả năng của mình.
Nhân tố chủ quan: Đó chính là những yếu tố thuộc về bản thân ngân
hàng như trình độ tổ chức quản lý của đội ngũ nhà quản trị, chính sách, chiến
lược, cơ sở vật chất công nghệ, chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng, trình
độ và năng lực của đội ngũ nhân viên… của mỗi ngân hàng. Đây là những
nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp nhất, đóng vai trò quyết định đến kết quả hoạt
động kinh doanh, năng lực tài chính của ngân hàng. Bởi để kinh doanh tiền tệ
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay ngoài các yếu tố “thiên thời
địa lợi” các ngân hàng còn cần phải có cho mình các yếu tố nhân lực, tài lực
và vật lực làm cơ sở tiền đề cũng như là đòn bẩy, lợi thế cạnh tranh để có thể
tồn tại, phát triển ổn định và bền vững. Vì thế để có một năng lực tài chính đủ
mạnh và không ngừng phát triển thì nhiệm vụ của mỗi một ngân hàng là phát
huy hết khả năng, sức mạnh về tài chính, công nghệ, và đặc biệt là nhân tố
con người về ý thức, vai trò của sự cần thiết phải củng cố và nâng cao hơn
nữa năng lực tài chính của ngân hàng.
1.2.4. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực tài chính.
NHTM là một loại hình tổ chức kinh doanh, một trung gian tài chính có

liên quan mật thiết đến hầu hết các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội,
cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể khác trong nền kinh
tế. Hoạt động ngân hàng hiện nay đã và đang chi phối hầu hết các thị trường
trong nước và không ngừng mở rộng quy mô vươn ra thị trường quốc tế. Áp
lực cạnh tranh và hợp tác quốc tế đặt ra đối với các NHTM nội địa cho thấy
vai trò cấp thiết của việc cải tổ ngân hàng, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt
động kinh doanh đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi một ngân hàng.
17
Kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng, người ta đang đua nhau
thành lập ngân hàng cho thấy đây là một lĩnh vực hấp dẫn các nhà đầu tư,
song qua đó cũng thấy động cơ nhiều khi chưa được tính toán thật nghiêm
túc. Hiện tại, ở Việt Nam có nhiều ngân hàng đang hoạt động, với tốc độ phát
triển của ngân hàng như hiện nay đòi hỏi các cấp quản lý phải xem xét lại
việc cấp phép thành lập ngân hàng mới – một việc đang có xu hướng trở
thành “ phong trào” tại Việt Nam, đòi hỏi NHNN Việt Nam cần phải ban
hành những điều khoản chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo cho ra đời những ngân
hàng đủ mạnh về tài chính, năng lực hoạt động ổn định và hiệu quả, đảm bảo
an toàn và bền vững cho cả hệ thống.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, các quốc gia muốn xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của mình cần phải đồng thời chăm lo phát
triển quan hệ kinh tế quốc tế. Phát triển quan hệ kinh tế quốc tế là nhiệm vụ
quan trọng không thể thiếu nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Quá
trình phát triển quan hệ kinh tế quốc tế trải qua nhiều giai đoạn với những
trình độ và mức độ phát triển khác nhau.
• Cơ hội và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra:
 Cơ hội:
Tiến trình hội nhập là chúng ta tạo ra môi trường hòa bình và hợp tác,
tạo ra điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh
tế nước ta. Sau khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta triển khai
nhiệm vụ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, lấy phát triển kinh tế làm nhiệm

vụ trung tâm. Vì vậy môi trường hòa bình, hợp tác khu vực và quốc tế là vô
cùng quan trọng để thực hiện nhiệm vụ công nhiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước. Môi trường đó tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo thế và lực cho nền kinh tế nước ta trên
18
thị trường quốc tế. Gia nhập tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế tạo vị thế
bình đẳng của nước ta với các nước trong tổ chức, từ đóng góp tiếng nói xây
dựng luật chơi chung đến việc hưởng quyền lợi của 1 thành viên và tham gia
giải quyết các tranh chấp thương mại theo nguyên tắc chung không phân biệt
đối xử.
Thúc đẩy đất nước đẩy mạnh đổi mới, hình thành đầy đủ, đồng bộ và
nhanh chóng hệ thống thể chế và luật pháp minh bạch, công khai, để dự đoán
về kinh tế thị trường.
Cơ hội phát triển kinh tế, nhất là mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút
đầu tư nước ngoài. Hội nhập, mở cửa thị trường, giảm thuế, dỡ bỏ hàng rào
phi thuế quan, tăng cường tiếp cân thị trường quốc tế là cơ hội để đẩy mạnh
xuất nhập khẩu.
Tiếp thu khoa học – công nghệ, kỹ năng quản lý và kinh doanh, góp
phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động,
sáng tạo.
Hội nhập cũng tạo ra cơ hội để chúng ta cải cách hệ thống giáo dục,
chiến lược đào tạo nhân lực cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đào tạo nhân
lực cho nền kinh tế mới. Hội nhập với nền kinh tế thị trường cũng tạo điều
kiện cho đào tạo và sử dụng nhân tài, có môi trường cho nhân tài phát triển.
Mọi nền kinh tế suy cho cùng sự hưng thịnh đều phụ thuộc chủ yếu vào nhân
tố con người. Vì vậy việc đào tạo và sử dụng nhân lực nhân tài có ý nghĩa
quyết định trong phát triển kinh tế của đất nước.
 Thách thức.
Hội nhập tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức lớn

đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực vượt qua mới có thể tân dụng các cơ hội phát
triển. Nền kinh tế nước ta vừa yếu kém lại hậu lại đang trong quá trình chuyển
đổi mô hình cũ sang nền kinh tế thị trường nên các rào cản và thách thức
19

×