Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

LUẬN VĂN: vai trò quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.79 KB, 28 trang )

















LUẬN VĂN:

vai trò quan trọng của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường
























Lời Nói Đầu

Vai trò kinh tế của Nhà nước giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong nền kinh
tế của một quốc gia. Không một nền kinh tế nào chịu sự điều tiết của cơ quan thị
trường mà không có sự quản lý của "bàn tay Nhà nước". Bởi nước ta là nước đi theo
định hướng XHCN. Trước đây, ta đã duy trì nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp,
Nhà nước can thiệp quá sâu vào mọi lĩnh vực mà không chịu trách nhiệm gì cả, coi
thường các quy luật hàng hoá - tiền tệ, quy luật cung cầu làm cho nền kinh tế lâm
vào tình trạng khủng hoảng suy thoái.
Nhận thấy rõ sai lầm và để khắc phục hậu quả của việc áp dụng mô hình tập
trung đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII đã đề ra chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế đến năm 2000 dựa theo quy luật hoạt động của nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN. Nhưng khi chuyển sang cơ chế quản lý mới ta không phủ nhận vai
trò quản lý (can thiệp) của Nhà nước trong kinh tế. Bởi điều hành một nền kinh tế
không có cả Chính phủ lẫn thị trường cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay. Những
thành tựu mà nước ta đạt được trong những năm gần đây đã chứng tỏ một phần nào đó
“vai trò quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường” là một vấn đề vẫn
còn đang mới mẻ đối với nền kinh tế nước ta, bởi vậy là một sinh viên của trường

ĐHKTQD, việc nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này là một điều rất có ý nghĩa chính vì thế
mà em đã chọn đề tài này



A. Mở bài
Chúng ta đã từng xây dựng mô hình kinh tế của đất nước theo mô hình kinh tế
tập trung hoá. Xong những gì chúng ta đạt được đó là nền kinh tế luôn trong tình trạng
xuống dốc, lạm phát gia tăng, cuộc sống nhân dân ngày càng khổ cực Từ đó đặt ra
cho Đảng và Nhà nước ta cần phải đổi mới tư duy cũng như cần phải xây dựng một
mô hình kinh tế mới.
Trong vài năm trở lại đây chúng ta đã chuyển đổi từ mô hình kinh tế tập trung
sang mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhưng khi chuyển sang
nền kinh tế mới đã tạo ra nhiều câu hỏi. Chúng ta sử dụng kinh tế thị trường như một
công cụ để xây dựng CNXH hay không? Nếu sử dụng kinh tế thị trường là từ bỏ
CNXH.
Nhưng đại hội biểu toàn quốc lần thứ VII và lần thứ VIII đã khẳng định rõ.
Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường thực chất là xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN. Và sản xuất hàng
hoá không đối lập với CNXH mà là trình tự phát triển của nền văn minh nhân loại tồn
tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng XHCN và cả khi CNXH đã được
xây dựng và cũng theo quan điểm của Lênin, người nói “trong một đất nước tiểu nông,
trước hết các đồng chí bắc chiếc cầu nhỏ vứng chắc, để xuyên qua CNTB Nhà nước
tiến lên CNXH” (Toàn tập NXB tiến bộ Matxcơva 1978- tập 4. Tr 189). Đây cũng là
bước lùi chiến lược và trở lại con đường phát triển hợp với quy luật kinh tế của nền
kinh tế này, chúng ta gặp không ít những nhược điểm của nền kinh tế này cũng như
thất bại của thị trường. Vì khi ta xác định xây dựng đất nước theo cơ chế thị trường, thì
sẽ có sự tự do trao đổi buôn bán chuyển nhượng và cũng vì lợi nhuận tối đa mà các
nhà kinh doanh có thể bất chấp thủ đoạn ra sức bóc lột nhân dân, tước loại các tư liệu
sản xuất, chèn ép các doanh nghiệp nhỏ và đẩy họ trở thành những kẻ làm thuê và

chịu sức mạnh của các công ty, tập đoàn tạo ra sự độc quyền, làm mất tính cạnh
tranh cũng vì thặng dư mà các nhà kinh doanh khai thác tài nguyên thiên nhiên và sử
dụng hàng hoá công cộng một cách bừa bãi. Cũng như C.Mác viết “việc tạo ra giá trị
thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”. Chính vì những hoạt
động đó đã dẫn đến sự mất cân bằng trong xã hội: nền kinh tế khũng hoảng, lạm phát,
thất nghiệp gia tăng, khoảng cách giữa người giào và người nghèo cũng cách biệt, các



công trình phúc lợi không được chú trọng đến mà các doanh nghiệp chỉ chú trọng đến
các ngành nhanh đem lại lợi nhuận và sự thu hồi vốn nhanh. Những điều đó đòi hỏi
Nhà nước ta phải có những sự nỗ lực toàn diện, nhằm xây dựng đất nước tiến nhanh
hơn trong thời kỳ chuyển biến này.
Trong quá trình hiành thành nền kinh tế thị trường đến nay đã có rất nhiều quan
điểm về vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Theo nhà kinh tế học cổ điển Adam smith (1723-1790) đã đưa ra thuyết “bàn
tay vô hình” và nguyên lý “Nhà nước không can thiệp” vào hoạt động của nền kinh tế.
Ông cho rằng việc tổ chức nền kinh tế hàng hoá cần theo nguyên tắc tự do, và hoạt
động của nền kinh tế là do quy luật khách quan tự phát chi phối và sự vận động của thị
trường là do quy luật cung cầu. Xong thuyết “bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà
nước không can thiệp” đã không đảm bảo những điều kiện để ổn định nền kinh tế (Đầu
những năm 30 thế kỷ XX liên tiếp có những cuộc khủng hoảng lớn về kinh tế ).
Trái ngược với trường phái của Adam smith thì John Meynard keyes (1884-
1946) lại cho rằng: Nhà nước cần phải can thiệp vào kinh tế cả ở tầm vĩ mô và vi mô.
ở tầm vĩ mô Nhà nước sử dụng các công cụ lãi xuất, chính sách tín dụng, thuế ở tầm
vi mô Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ
công cộng. Ông cho rằng sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế sẽ khắc phục
được khủng hoảng, thất nghiệp tạo ra được sự ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội.
Xong sự can thiệp quá sâu đó càng làm cho tình trạng lạm phát thất nghiệp ngày càng
tăng và trầm trọng hơn.

Từ hai trường phái trên đã xuất hiện một trường phái “hỗn hợp” nổi bật quan
điểm “kinh tế hỗn hợp” của Paul Samuelson một nhà kinh tế người Mỹ. Ông cho rằng:
Điều hành một nền kinh tế không phải cả Chính phủ lẫn thị trường và cơ chế thị
trường xác định giá cả và sản lượng, trong khi đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng
các chương trình thuế, chỉ tiêu và luật lệ, và ông cho rằng cả hai đều có tính thiết yếu.
Đó là những quan điểm vai trò Nhà nước nhằm xây dựng một nền kinh tế thị
trường đạt hiệu quả cao nhất. Đối với nước ta thì sao? Nhà nước cần phải làm gì?.
Nhằm xây dựng một nền kinh tế hàng hoá có sự quản lý của Nhà nước đạt hiệu quả
cao nhất? Và thực hiện biện pháp gì? Thông qua công cụ gì? Đó là hàng loạt các câu
hỏi đặt ra cho Nhà nước ta trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế hiện nay.



Từ đó ta cũng thất tính bức xúc của vai trò Nhà nước. Và sau đây em xin được
trình bày và làm rõ một vấn đề cơ bản về “Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường địng hướng XHCN ở nước ta hiện nay”.
B. Nội dung.
I. Cơ sở lý luận của việc hình thành vai trò kinh tế Nhà nước.
1. Cơ sở lý luận.
Nhà nước bằng những hình thức nhất định của mình có một vị trí đặc biệt quan
trọng đối với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng chính là
công cụ của giai cấp thống trị về mặt chính trị và tư tưởng đối với giai cấp bị trị. Kiến
trúc thượng tầng cũ, xây dựng và bảo vệ, củng cố phát triển cơ sở hạ tầng mới. Vì khi
một điều lệ ra đời nó tác động đến các mối quan hệ sản xuất và ngược lại khi quan hệ
sản xuất phát triển cao thì Nhà nước cần ban hành các (xác lệnh) chính sách các điều
lệ phù hợp với sự phát triển của quan hệ sản xuất.
Từ cơ sở lý luận đó nó sẽ được chứng minh trong quá trình lịch sử. Khẳng định
rằng sự ra đời của vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế là tất yếu. Bất cứ một Nhà
nước nào cũng có vai trò và chức năng kinh tế. C.Mac coi quyền lực của Nhà nước
như “vai trò bà đỡ cho xã hội cũ thai nghén xã hội mới”. ở các thời kỳ khác nhau ở các

chế độ xã hội khác nhau, do tính chất Nhà nước khác nhau nên vai trò và chức năng
kinh tế của Nhà nước có hiệu quả khác nhau.
2. Sự hình thành và phát triển kinh tế của các Nhà nước được biểu hiện qua
các thời kỳ lịch sử.
Lịch sử đã chứng minh vai trò kinh tế của Nhà nước được hình thành ngay từ
buổi ban đầu. Khi một Nhà nước mới được hình thành thì ngay lập tức vai trò kinh tế
của Nhà nước cúng được khẳng định luôn.
+ Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nhà nước chủ nô là một kiểu Nhà nước đầu
tiên trong lịch sử. Nó dùng các quyền lực của mình để chiếm đoạt ruộng đất và của cải
vật chất do nô lệ làm ra và coi giai cấp này như một công cụ.
Trong từng thời kỳ Nhà nước chỉ can thiệp vào việc phân phối các của cải mà
còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông



nghiệp và luôn đề ra những chính sách ruộng đất thích hợp cho từng giai đoạn, từng
thời kỳ. Nhưng nói chung các hoạt động này diễn ra một cách tự phát.
+ Thực tế trong Nhà nước phong kiến đã can thiệp và đã thu được những thành
công và cũng có những thất bại. Trong đó sự can thiệp sớm nhất xuất hiện vào triều
đạI Lý thế kỷ X trước công nguyên. Nhà lý hình thành các thái ấp và chịu kiểm soát
của triều đình. Tuy nhiên mặc dù Nhà nước phong kiến đã có ý kiểm soát hoạt động
của các thái ấp nhưng vẫn không kiểm soát nổi tình trạng bóc lột, hà khắc với nhân
dân. Chính vì vậy trong nhiều thập kỷ của Nhà nước phong kiến Việt Nam tiếp tục ban
hành các chính sách nhằm kiểm soát, duy trì và củng cố quyền lực của Nhà nước trung
ương.
- Năm 1397 Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn điều & hạn nô
- Năm 1429 sau cuộc chiến tranh dành độc lập thắng lợi Nhà Lê đã ban hành
chế độ quan điều.
ở các nước khác trong giai đoạn này cũng tương tự, song các nước phương
Đông sớm nhận thức về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế hơn các nước phương

Tây.
ở Trung Quốc từ học thuyết “bình dân kinh tế chủ nghĩa” Mạnh Tử cho rằng
chính sách kinh tế của Nhà nước phải làm cho dân giàu và chỉ có dân giàu thì nước
mới mạnh.
Song dù có tiến bộ và cải cách hơn chế độ chủ nô, với sự phát triển của chế độ
xã hội nên chế độ phong kiến (Nhà nước phong kiến) vẫn phải sụp đổ để thay vào đó
một Nhà nước tiến bộ hơn. Đó là Nhà nước TBCN.
ở Nhà nước TBCN. Nền kinh tế mới ra đời các quan hệ sản xuất cũng được đổi
mới. Nhằm nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế phát triển. Nhà nước tư bản nhanh
chóng có nhứng chính sách giúp đỡ các nhà kinh doanh, tạo ra sự tích luỹ tư bản.
Trong giai đoạn đầu của CNTB. Nhà nước đã ban hành và xây dựng các bộ luật
nhằm tạo ra sự tích luỹ cao nhất và giúp các doanh nghiệp trong nước khỏi sự chèn ép
của các tập đoàn doanh nghiệp nước ngoài. Nhưng khi kinh tế TBCN phát triển Nhà
nước chỉ đóng vai trò là người giám sát và tạo ra các cơ sở tiền đề cho sự phát triển
kinh tế.



Qua các thời kỳ lịch sử cho thất rõ hơn khi mà lực lượng sản xuất trong chế độ
đó phát triển ở một mức độ nào đó, nó sẽ kéo theo mối quan hệ sản xuất đó cũng dần
thay đổi để phù hợp và khi quan hệ sản xuất ngày càng được nâng cao và mở rộng thì
nó đòi hỏi phải có một thể chế mới nhằm đáp ứng nhu cầu cho các mối quan hệ sản
xuất phát triển. Cho nên ròng lịch sử đã chứng minh cho chúng ta rất rõ. Trong chế độ
chiếm hữu nô lệ, khi mức quan hệ sản xuất phát triển tức họ đã đòi các quyền về sự
phân phối sản phẩm cần phải có quan hệ tổ chức về quản lý và quyền sở hữu đối với tư
liệu sản xuất. Song thể chế lúc bấy giờ chỉ coi tầng lớp lao động (nô lệ) chỉ là những
công cụ sản xuất. Và quan hệ cũng như các chính sách của Nhà nước không đáp ứng
được nhu cầu sản xuất. Cho nên như một tất yếu khách quan các quan hệ sản xuất đã
đấu tranh và thay đổi một kiểu Nhà nước mới. Sang thơi kỳ phong kiến. Thời kỳ này
cũng tương tự như vậy, tuy đã được cải cách nhiều song còn lạc hậu với các quan hệ

sản xuất ngày cành phát triển và cũng như quá trình chuyển biến từ nền kinh tế chiếm
hữu nô lệ sang nền kinh tế TBCN. Với khoa học công nghệ phát triển, nó đã cải tiến
được nhiều quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất Nhưng quan hệ phân phối sản phẩm
vẫn chưa được giải quyết một cách đúng đắn. Trong thời kỳ kinh tế TBCN phát triển,
Nhà nước tư bản đã khôn khéo che đậy mối quan hệ này bằng cách tạo ra các chính
sách như trợ cấp nhằm che dấu bản chất của mối quan hệ sản xuất. Nhà nước CNTB
đã đặt ra chế độ thuế khoá- một chế độ đóng góp có tính cưỡng bức để nuôi sống bộ
máy cai trị, thực hiện chức năng đối nội, điều hoà giai cấp điều hoà sự sung đột và
“giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự” nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp
thống trị, lợi ích phần lớn tập trung vào tay một số ít người (Giai cấp thống trị) trong
xã hội. Nền kinh tế đó sớm muộn cũng bị thay đổi, nhằm giải quyết triệt để vấn đề cơ
sở hạ tầng. Và để giải quyết vấn đề về mối quan hệ Nhà nước và kinh tế đó một Nhà
nước mới ra đời. Nhà nước XHCN.
+ Nhà nước XHCN.
Bên cạnh những mặt tiêu cực của Nhà nước TBCN, Nhà nước XHCN đã biết kế
thừa những mặt tích cực cũng như những thành tựu của Nhà nước TBCN nhằm giải
quyết tốt hơn vai trò của Nhà nước về kinh tế. Một trong những Nhà nước đó là Nhà
nước ta đã đang vận dụng nhằm xây dựng con đường mình đã chọn.
II. Vận dụng nền kinh tế thị trường và những cơ sở lý luận vào nước ta.



1. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý
của Nhà nước ta.
Trước đây chúng ta muốn tiến lên XHCN nên đã đưa nền kinh tế tập trung vào
nước ta. Trong quá trình xây dựng đất nước chúng ta gặp không ít những khó khăn.
Trong các cuộc chiến tranh chúng ta đã xây dựng nền kinh tế tập trung đã giải quyết
được một số vấn đề về kinh tế xã hội quan trọng nhất là việc huy động được nhân tài
vật lực phục vụ cho chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước. Chính vì điều đó mà chúng ta đã ngộ nhận rằng: Nền kinh tế kế hoạch đó sẽ

đưa nước ta tiến nhanh lên CNXH.
Cho nên sau khi hoà bình chúng ta vẫn áp dụng nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung để xây dựng đất nước. Nhưng trong quá trình xây dựng mô hình này thì nó đã
dần bộc lộ những nhược điểm cơ bản là nó thiếu động lực cho sự phát triển. Điều này
nó thể hiện những mặt hạn chế sau:
nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung không gắn chặt giữa người lao
động và tư liệu sản xuất và sản phẩm của họ làm ra. Việc sản xuất tốt hay xấu không
liên quan gì đến quyền lợi của người lao động, chính vì thế mà người lao động không
quan tâm đến sản xuất, xã hội trở nên thiếu động lực.
Vì sản xuất và tiêu thụ theo mệnh lệnh nên người lao động và các cơ sở sản
xuất kinh doanh không cần thiết phải nghiên cứu ứng dụng các thành tựu mới. Bởi vật
cơ sở vật chất kỹ thuật của nên kinh tế vốn đã lạc hậu lại càng lạc hậu hơn.
Cũng vì làm theo kế hoạch và mệnh lệnh nên người lao động và cơ sở kinh
doanh trở nên thụ động, tính sáng tạo của họ ngày càng bị thui chột. Sở dĩ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung có nhiều tiêu cực là do chính cơ chế quản lý của nó.
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành
chính là chủ yếu điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá quá đáng. Các cơ quan hành chính
kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ
sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về các quyết định của mình. Cơ chế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu coi thường quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả quản lý kinh
tế.



Những hậu quả của nền kinh tế này mang lại là: kinh tế đất nước luôn trong tình
trạng suống dốc, lạm phát gia tăng, làm nảy sinh sự trì trệ cuộc sống nhân dân ngày
càng khổ cực.
Nhưng sau sự đổ vỡ của Liên Xô, chúng ta không thể cứ tiếp tục xây dựng nền
kinh tế của nước ta theo mô hình này. Vấn đề được đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ
chế quản lý cũ (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp). Theo hướng căn bản của sự đổi

mới cơ chế quản lý đã được Đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội
VII của Đảng khẳng định “tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình
thành động lực và vận hành có hiệu quả của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước”.
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế có nhiều ưu điểm. Đó là một nền kinh
tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định. Cơ chế của nó
hết sức linh hoạt, nó tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác động khách quan
của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó quyết định những vấn đề cơ bản của
nền kinh tế. Thật khoa học có thể đánh giá đầy đủ được ưu và nhựơc điểm vủa cơ chế
thị trường. Tuy nhiên có thể nêu một số ưu điểm cơ bản của cơ chế đó:
- Cơ chế thị trường có thể kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều
kiện cho hoạt động tự do của họ. Nhờ đó mà động viên được các lực lượng xã hội và
sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất phát
triển nền kinh tế hàng hoá.
- Nhờ thị trường có thể thoả mãn nhu cầu về hàng ngàn vạn loại sản phẩm khác
nhau cho tiêu dùng cá nhân và cho sản xuất.
- Thị trường linh hoạt hơn, có kế hoạch hoá tập trungả năng thích nghi cao hơn
khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời khối lượng và cơ cấu của
sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu.
Nhờ vậy cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức
kinh tế xã hội. Cơ chế thị trường có khả năng tự điều tiết nền sản xuất xã hội tức là khả
năng phân bổ của các ngành kinh tế mà không cần điều khiển của trung tâm nào.



Cơ chế thị trường tự động điều chỉnh và kích thích sự phát triển sản xuất, tăng
trưởng kinh tế tạo ra ở cả chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyên môn hoá sản
xuất.
Qua đó chúng ta thấy tính năng hoạt động cũng như hiệu quả của nền kinh tế thị
trường so với kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Chúng ta xây dựng XHCN nên việc tạo

ra cơ sở vật chất kỹ thuật là một yếu tố quan trọng. Cho nên một số năm trở lại đây
chúng ta đang xây dựng một mô hình kinh tế mới đó là nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng XHCN.
Thực tế nhằm đưa nước ta thoát khỏi khủng khoảng & trì trệ suốt những năm
bao cấp và cải thiện, nâng cao dần đời sống nhân dân. Và cũng để ứng dụng tốt công
nghệ khoa học tạo ra cơ sở vật chất cho công cuộc đổi mới ở nước ta.
Và thực chất của công cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là so mối quan hệ trong xã hội
đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách cải thiện đặc biệt là trong kinh tế. Đứng
trước thực trạng đó Nhà nước không thẻ giữ mãi các mối quan hệ sản xuất cũ mà cần
phải có những chính sách mới phù hợp với những quan hệ sản xuất đang phát triển. Và
nhằm phù hợp với thực trạng của đất nước và sự phát triển của thế giới.
Chính vì vậy nước ta đã chọn con đường mới. Chuyển toàn bộ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
2. Vai trò của Nhà nước trong quá trình xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta hiện nay.
2.1. Sự cần thiết tất yếu phải có vài trò của Nhà nước.
Trong điều kiện hiện nay của đất nước, khi mà đất nước đang xoá bỏ dần nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung để xây dựng nền kinh tế mới, nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. Thì vai trò của Nhà nước ngày càng lớn lao hơn.
Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường. Mà chúng ta đã biết đây là một
nền kinh tế CNTB mà bản chất của phương thức sản xuất này là giá trị thặng dư, vì
mục đích lợi nhuận tối đa con người có thể làm mọi thứ. “Mục đích của sản xuất
TBCN làm giàu, là nhân giá trị lên, là làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia
và tạo ra giá trị thặng dư” (C.Mac: các học thuyết giá trị thặng dư). sản xuất ra giá trị



thặng dư (lợi nhuận) là một động lực thúc đẩy con người sản xuất bằng mọi cách nhằm
tạo ra lợi nhuận lớn nhất. Mà chúng ta đang xây dựng đất nước tiến lên CNXH, nhưng

muốn vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường để tạo ra cơ sở vật chất tiền đề vững
chắc về vật chất, cho nên cần phải co vai trò Nhà nước nhằm định hướng tốt tránh sự
lệch lạc trên con đường tiến lên CNXH.
Mặt khác, trong quá trình xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trường chúng ta
sẽ gặp nhiều hạn chế trong cơ chế này. Cơ chế thị trường có thể gây ra nhiều những
mất ổn định và thường xuyên phá vỡ thế cân bằng trong nền sản xuất xã hội. Cơ chế
thị trường thường sinh ra các vấn đề nan giải: lạm phát, thất nghiệp, phân phối sản
phẩm cơ chế này hoạt động không có hiệu quả bởi các tổ chức độc quyền và luôn
gây ra sự mất công bằng, nhiều tệ nạn xã hội cơ chế phân phối sản phẩm đã phân hoá
xã hội thành những người giàu, kẻ nghèo và ngày càng sâu sắc hơn.
Trong cơ chế này một số ngành có lợi nhuận thấp sức thu hồi vốn lâu, một số
nhà kinh doanh không sản xuất mặt hàng này. Nhưng mặt hàng này lại rất quan trọng
(trong đời sống) đối với xã hội và sự phát triển kinh tế.
Do vậy nhằm đI đúng con đường đã chọn Nhà nước và nhân dân ta đã chọn cần
phải có chính sách hợp lý nhằm hạn chế những nhược điểm của nền kinh tế mới. Vì
vậy cần phải có vai trò quản lý của Nhà nước trong quá trình xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta.
2.2. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta.
Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước ta hiện nay là đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng, ổn định kinh tế xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và
kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều
kiện cho đất nước phát triển nhanh chóng hơn vào đầu thế kỷ thứ XXI.
Cụ thể đảm bảo cho hiệu quả kinh tế xã hội, đảm bảo sự tăng trưởng nhanh của
nền kinh tế gắn liền với sự tiến bộ và công bằng xã hội, làm cho xã hội ngày càng văn
minh đI lên, tạo ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động, giảm nhanh tỷ
lệ thất nghiệp, tránh những thăng trầm, đột biến xấu đến khủng hoảng, lạm phát




Như vậy, để đạt được những mục tiêu đó Nhà nước ta phải có những chức năng
gì?
Các chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước: gồm 4 chức năng sau
a. Định ra khuôn khổ hoạt động cho các tổ chức hoạt động kinh doanh
chức năng này bao gồm vô số các luật lệ, quy tắc buộc các doanh nghiệp, người
tiêu dùng và bản thân Chính phủ phải theo. Chẳng hạn như xác định môi trường kinh
doanh, các quy tắc hợp đồng
Chức năng này nhằm phân bố tài nguyên, nhân lực sao cho vừa đảm bảo hiệu
quả kinh tế vĩ mô, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vi mô. Tránh tình trạng thiếu đày đủ
các bộ luật, chính sách dẫn đến những quan hệ sai trái, làm yếu đI các quy luật của thị
trường gây nên sự phồn vinh giả tạo trong đời sống kinh tế xã hội.
Bởi vậy mà sự hình thành thị trường văn minh với các quan hệ thị trường lành
mạnh và sử dụng có hiệu quả của những hoạt động tự phát và phải là kết quả của toàn
bộ hoạt động kinh tế và luật pháp của Nhà nước.
Samuelson Nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng “một thất bại của thị trường dẫn
đến sản xuất không hiệu quả và ở đây Chính phủ có thể đóng vài trò chữa lệnh”.
b. Chức năng hiệu quả kinh tế.
Chức năng này thực sự là sự sửa chữa thất bại, những thất bại của thị trường
dẫn đến sản xuất không hiệu quả hay tiêu dùng lãng phí. Về thất bại của thị trường sảy
ra trong các trường hợp sau:
cạnh tranh không hoàn hảo tồn tại nếu như trên thị trường chưa có đủ số lượng
doanh nghiệp hoặc chưa đạt đến mức độ cạnh tranh để không một doanh nghiệp nào
gây được ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá. Do vậy để dành lợi thế trong kinh doanh
doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật mới nhất và tìm cách độc chiếm kỹ thuật, tình trạng
này làm cho giá cả cao hơn mức hiệu quả và làm biến dạng về cầu sản xuất, xuất hiện
siêu lợi nhuận có thể dẫn đến độc quyền, có thể dẫn đến mức khủng hoảng suy thoái,
chính vì thế mà Nhà nước cần phải đưa ra các biện pháp chống độc quyền nhằm đạt
hiệu quả kinh tế cao hơn.
Thất bại thứ 2 là do tác động bên ngoài của thị trường làm hoạt động kinh tế
không hiệu quả.




Thất bại thứ 3 là do thuế. Nhà nước ta có thể đề ra luật thuế những trên thực tế,
các luật này chưa được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Chính vì vậy hàng năm Nhà
nước làm thất thoát một khoản thuế lớn.
Do thất bại trên của thị trường đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp và phân phối
một cách hợp lý các tài nguyên, nhân lực tiền và của để nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.
c. Chức năng đảm bảo công bằng xã hội.
Chức năng duy trì công bằng là không thể thiếu đối với Nhà nước quản lý nền
kinh tế thị trường. Dù sự can thiệp của Nhà nước đã làm cho nền kinh tế hoạt động
hoàn hảo có hiệu quả thì cũng chưa có nghĩa là nền kinh tế hoàn toàn lý tưởng. Vấn đề
hàng hoá được sản xuất cho ai, câu trả lời “cho những người có tiền”. (Là người có thu
nhập từ lao động hoặc từ lãi suất cổ phần hay tiền tiết kiệm ). Vì vậy thu nhập thường
chênh lệch giữa các thành viên trong xã hội. Tại điểm cân bằng của thị trường không
có nghĩa là mọi của cải xã hội phục vụ các thành viên xã hội hoàn toàn. Khâủ phần ăn
của một vật nuôi làm cảnh ở nhà giàu có thể khá hơn của đứa trẻ lang thang. Như vậy,
hệ thống thị trường có hiệu quả có thể gây bất bình đẳng, Nhà nước cần phải can thiệp
vào khâu phân phối thị trường thông qua việc sử dụng thuế thu nhập. Tuy nhiên sự
công bằng ở mức độ nào để bảo vệ những người không may mắn mà vẫn thúc đẩy con
người làm việc, tiết kiệm tiêu dùng còn tuỳ thuộc vào truyền thống dân tộc, hoàn
cảnh kinh tế ở mỗi nước.
d. Chức năng ổn định kinh tế xã hội.
Ngoài chức năng thúc đẩy trạng thái hiệu quả và duy trì công bằng trong nền
kinh tế hỗn hợp, Nhà nước còn phải đảm nhận chức năng ổn định kinh tế - xã hội.
Trước khi đạt đến trình độ phát triển cao nền sản xuất bất kỳ nước nào cũng phải trải
qua chu kỳ phát triển - thịnh vượng - suy thoái. Gắn liền đó là thời kỳ lạm phát, thất
nghiệp, khủng hoảng kinh tế.
Tuy nhiên, kinh nghiệm nhiều nước cho thấy khả năng của Nhà nước không
phải dễ dàng. Khi chống lạm phát thường dẫn đến thất nghiệp kích thích nhập khẩu và

làm suy thoái sản xuất. Ngược lại, kích thích đầu tư, xuất khẩu phát triển sản xuất phải
chấp nhận lạm phát ở một mức độ nào đó. Tóm lại, thực hiện chức năng này, Nhà
nước chỉ có khả năng hạn chế ở mức độ của các thăng trầm kinh tế bằng cách sử dụng
chính sách tài chính, chính sách tiền tệ tác động có lợi đến sản lượng, việc làm, thu



nhập và giá cả của nền kinh tế tạo nên sự phát triển nhịp nhàng năng động, cân đối và
đạt hiệu quả cao.
2.3. Đánh giá thực hiện vai trò của Nhà nước trong quá trình xây dựng kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Đại hội VII đã đề ra mục tiêu tổng quát cho những năm tới là “vượt qua khó
khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy
lùi tiêu cực và bất công xã hội đưa nước ta cơ bản thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng
hiện nay”.
Để đạt được mục tiêu trên , về cơ chế kinh tế, Đại hội đã khẳng định: tiếp tục
xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế cơ chế vận
hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công
cụ khác.
Từ thực tiễn vận động của nền kinh tế quá trình đổi mới và và hình thành cơ
chế quản lý ở nước ta có thể thấy rằng phải hướng vào các lĩnh vực ưu tiên: quản lý
kinh tế vĩ mô, cơ sở pháp lý tổ chức cho một nền kinh tế thị trường. Đổi mới quản lý
hành chính của Chính phủ, cải cách quản lý xí nghiệp và phát triển kinh tế đối ngoại,
sử dụng có hiệu quả vay nợ của nước ngoài và viện trợ. Đó là một quá trình tìm kiếm
& thử nghiệm đầy khó khăn phức tạp, song chúng ta đã đạt được những thành tựu
quan trọng bước đầu và ngày càng được bổ xung, hoàn chỉnh hơn về nội dung và cũng
như biện pháp thực hiện, nhằm làm cho cơ chế phù hợp với điều kiện cụ thể của nước
ta về kinh tế, chính trị xã hội cũng như với tình hình quốc tế hiện nay. Nhằm giải
phóng năng lực sản xuất, tạo ra công ăn việc làm, tạo ra các động lực thúc đẩy các đơn

vị kinh tế và quần chúng lao động hăng hái phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng đi
lên CNXH. Mở rộng kinh tế với nước ngoài và thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi
hoạt động kinh tế, thực hiện các chương trình kinh tế lớn, tăng nhanh sản phẩm xã hội,
từng bước ổn định tình hình kinh tế xã hội, đưa đất nước tiến lên.
Đi lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông kém phát triển sản xuất nhỏ và phổ
biến mà mang nặng tính tự cung tự cấp, chúng ta phải dồn sức để khắc phục khó khăn
bởi hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài; vừa phải khôi phục & phát triển nền kinh tế -
xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất kỹ thuật; đồng thời phải xây dựng và đổi



mới cơ chế quản lý kinh tế cho thích hợp với trình độ và điều kiện khách quan của sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Quá trình đó đã diễn ra trong nhiều giai đoạn khác nhau. Sôi động nhất từ năm
1980 đến nay và mang những đặc điểm sau đây:
Một là: trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài, đất nước đứng trươc nhiều khó
khăn và mất cân đối nghiêm trọng về các mặt: cơ cấu sản xuất, dân số thu nhập và
phúc lợi, ngoại thương và nợ nước ngoài, khoảng cách giữa tiềm năng và hiện thực;
trình độ phát triển kinh tế và năng lực quản lý ngày càng lớn. Chỉ từ năm 1979 sau
khi kết thúc cuộc chiến tranh hai đầu biên giới phía bắc và tây nam, chúng ta mới có
điều kiện từng bước xây dựng và quản lý nền kinh tế chủ yếu theo quy luật kinh tế.
Nghị quyết ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá IV) đã kịp thời đề
ra chủ trương, chính sách về cơ cấu kinh tế và quản lý kinh tế.
Về cơ câú kinh tế, Nghị quyết đặc biệt chú trọng mặt trận nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, uốn nắn xu
hướng nóng vội trong phong trào hợp tác hoá; chủ trương sử dụng kinh tế tư nhân và
cá thể trong các lĩnh vực cần thiết, khuyến khích mạng mẽ kinh tế gia đình, chủ trương
mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Về cơ chế quản lý. Nghị quyết nghiêm khắc phê phán tình trạng tập trung, quan
liêu bao cấp trì trệ, bảo thủ trong kế hoạch hoá và xây dựng các chính sách phân phối,

lưu thông và tăng năng xuất lao động, phát triển sản xuất nâng cao đời sống nhân dân,
xác định chính sách kết hợp lợi ích xã hội với lợi ích của tập thể và cá nhân. Khuyến
khích người lao động hăng hái sản xuất
Những chủ trương đó được đông đảo quần chúng nhân dân, các ngành, các cấp
hưởng ứng mạnh mẽ làm cho đời sống kinh tế phát triển mạnh sôi động hẳn lên, ngay
trước đại hội V của Đảng, chấm dứt thời kỳ sản xuất lưu thông giảm sút trong các năm
trước đó.
Hai là: Đại hội V của Đảng (1982) đánh giá cao và khẳng định nghị quyết hội
nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa IV) và đòi hỏi: xác lập chế độ
quản lý kế hoạch hoá đúng đắn,đổi mới cơ chế quản lý & kế hoạch hoá hiện hành, xoá



bỏ cơ chế quan lý hành chính, quan liêu bao cấp; kế hoạch hoá phải thấu suốt nguyên
tắc hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN.
Thực hiện tinh thần nghị quyết trên những năm từ 1981 và sau đạI hội lần thứ V
của Đảng, phong trào quần chúng làm kinh tế xuất hiện và bước đầu lớn mạnh với chỉ
thị 100 của ban Bí Thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp;
quyết định 25 Chính phủ về quyền tự chủ của xí nghiệp, chủ trương đổi mới kế hoạch
hoá với 3 cấp làm chủ, 4 nguồn cân đối; chính sách khuyến khích xuất nhập khẩu,
theo hướng mở rộng quyề chủ động, sáng tạo của cơ sở và địa phương dưới sự quản lý
tập trung thống nhất của Trung ương về những mặt cơ bản, khuyến khích mạnh mẽ
người lao động hăng hái sản xuất.
Ba là: Đại hội VI (1986) của đảng đã khẳng định quyết tâm chiến lược đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật. ĐạI hội VI
đã phân tích sâu sắc, chỉ rõ những điều kiện cơ bản cùng những hậu quả tiêu cực của
cơ chế cũ: khẳng định quyết tâm xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch
toán kinh doanh XHCN và nguyên tắc tập trung dân chủ; giao quyền sử dụng lâu dài
về ruộng đất, tạo môi trường pháp lý hành chính thích hợp cho các khu vực kinh tế, kể
cả tư nhân, hoạt động có hiệu quả.

Bốn là: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII là tổng kết, đánh giá toàn bộ những
thiếu sót, tồn tại trong quá trình thực hiện đổi mới theo đường lối chủ trương của Đại
hội VI. Trên cơ sở đó hoàn chỉnh bổ xung cụ thể hoá các chủ trương, chính sách kinh
tế xã hội mà đại hội VI đã đề ra, nhằm đáp ứng yêu cầu mới ở trong nước cũng như ở
các nước trong giai đoạn hiện nay.
Đại hội VII đã chỉ ra rằng, sau hơn 4 năm thực hiện nghị quyết ĐạI hội VI,
công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng.
Nền kinh tế có những bước chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước
Tóm lại: qua những năm chuyển đổi cơ cấu, từ một nền kinh tế tập trung bao
cấp sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà
nước. Ta đã đạt được một số thành tựu sau:



+ Bước đầu đã phát huy được năng lực nội tại của nền kinh tế, làm cho nền kinh
tế nước ta đang thoát khỏi sự khủng hoảng. Và nó phát huy động lực phát triển kinh tế,
tạo ra tính chủ động sáng tạo và cần cù của người lao động. Kết quả là:
- Kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát. Lạm phát trong năm 1992 đã xuống dưới
mức 2 con số đặc biệt trong những năm 1993 và 1996 chỉ còn 1 con số.
- Đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài tăng nhanh: “ đầu tư nước
ngoài trong vòng từ năm 1991-1993 là 1,26 tỷ USD nhưng riêng năm 1993 là 0,6 tỷ
USD”, trong đó có đẩu tư của nông dân, kinh tế tư nhân, cá thể chiếm vị trí quan trọng,
sản xuất trong nước phát triển đặc biệt là khu tư nhân. Việt Nam từ một nước phải
thường xuyên nhập lương thực nhưng nay đã trở thành nước xk gạo lớn thứ tư trên thế
giới sau Thái Lan, ấn Độ và Mỹ.
- Xuất nhập khẩu về cơ bản đã đảm bảo đựơc các nhu cẩu cần thiết của nền
kinh tế xã hội. Kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng đều. Cụ thể kim ngạch xuất nhập
khẩu 2,4 tăng lên 4,3 tỷ USD trong vòng từ năm 1992-1995.

- Ngân sách Nhà nước có thể đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên.
- hiệu quả chung của nền kinh tế được nâng cao hơn trước rất nhiều.
- Đã tạo được hành lang cho qua trình kinh doanh và cạnh tranh theo pháp luật.
Cac doanh nghiệp Nhà nước được thành lập và đã trở thành một hệ thống kinh tế do
Nhà nước quản lý từ Tung ương đến tỉnh, huyện, đang từng bước hoà nhịp với cộng
đồng quốc tế. Các doanh nghiệp Nhà nước có mặt hầu khắp trong tất cả các lĩnh vực
và các ngành chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, một nguồn quan trọng trong việc tạo
ra công ăn việc làm và tạo ra sản phẩm. Cả nước hiện có trên 12.084 xí nghiệp quốc
doanh trong đó có khoảng 1.695 xí nghiệp trực thuộc Bộ. Trong lĩnh vực sản xuất
công nghiệp có 3.020 xí nghiệp quốc doanh, thì có khoảng 660 xí nghiệp với quy mô
lớn hơn. Đồng thời kỹ thuật nhanh chóng được đổi mới kéo theo chất lượng sản phẩm
được nâng cao phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và người sản xuất có quyền lựa
chọn mặt hang dịch vụ phù hợp với tiêu dùng, tránh cho xã hội những tổn thất về
việc sản xuất không phù hợp với người tiêu dùng.



- Đời sống phần lớn lao động được cải thiện đáng kể trên nhiều chỉ tiêu tiêu
dùng cá nhân. Thu nhập bình quân của người dân tăng nhanh đặc biệt đối với một số
thành phố lớn thu nhập bình quân từ 500 đến 1000 USD/năm.
Đó là những thành tựu mà 10 năm đổi mới qua chúng ta đã đạt được. Xong
không thể không kể đến những khó khăn phức tạp, những tồn tại và thiếu sót trong quá
trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường.
Tình hình chủ yếu là do chúng ta chưa xây dựng được một CNXH theo một mô
hình kinh tế mang nặng tính cơ chế quan lý tập trung quan liêu, bao cấp và cơ chế mới
hình thành chưa đồng bộ. Nó thể hiện trên các mặt chính: bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu
đâù tư, về phát triển công nghiệp nặng theo quy mô lớn, và xây dựng tràn lan; nóng
vội xoá bỏ các hình thức kinh tế dựa trên chế độ sỏ hữu về tư liệu sản xuất, phát triển
kinh tế quốc doanh và tập thể mang nặng về hình thức; hệ thống quản lý dựa trên cơ
chế kế hoạch hoá tập trung bằng mệnh lệnh và hành chính và quan hệ hiện vật; bộ máy

quan liêu kém hiệu quả đã kìm hãm lực lược sản xuất và các động lực khác phát triển.
Trong quản lý Nhà nước về kinh tế, bệnh giáo điều chủ quan, duy ý chí và tập
trung quan liêu bao cấp, đã hạn chế sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, biểu hiện chủ yếu qua các mặt sau:
- Coi nhẹ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường quan niệm giản
đơn, hình thức về CNXH; quản lý nặng về hành chính, mệng lệnh, không đảm bảo
quan hệ thoả đáng giữa 3 lợi ích: xã hội, tập thể và người lao động.
- Coi nhẹ và không vận dụng tốt các quy luật kinh tế trong tổng thể hệ thống
các quy luật khách quan.
Kế hoạch nặng về tập trung, không gắn với hệ thống thị trường các chính sách
và đòn bẩy, đã kìm hãm sản xuất và lưu thông.
- Chỉ đạo thực hiện cải tạo XHCN nặng về mệnh lệnh, cưỡng ép, tổ chức hình
thức, nhiều nơi không nắm vững và làm đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, coi nhẹ hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Không xác định rõ quyền tự chủ về kinh tế - tài chính, gắn nghĩa vụ với quyền
lợi, trách nhiêm với quyền hạn, lợi ích với kết quả cuối cùng. Can thiệp không đúng và



quá sâu vào các hoạt động tác nghiệp và quản lý sản xuất kinh doanh của cơ sở, không
phát huy được quyền chủ động, sáng tạo của cấp dưới, ngành địa phương và cơ sở.
- Các cấp các ngành, các đơn vị ỷ lại vào ngân sách Nhà nước, vào Trung ương,
cấp dưới ỷ lại cấp trên, vừa không khuyến khích, ràng buộc đơn vị, vừa lãng phí, hạn
chế tình năng động của cơ sở.
- Bộ máy quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế quá cồng kềnh, trùng lắp, quan
liêu, kém hiệu lực. Đội ngũ cán bộ Nhà nước còn thiếu hiểu biết về kinh tế, pháp luật
không sát cơ sở, kém năng động, một bộ phận kém phẩm chất, đẻ ra tệ nạn ăm bám,
nạn tham nhũng nặng nề.
Tình hình phân tán, vô tổ chức kỷ luật, cục bộ, địa phương chủ nghĩa trong
quản lý Nhà nước, biểu hiện phổ biến kéo dài, khá nghiêm trọng ở nhiều nơi.

- Xem nhẹ sản xuất, kể cả chất lượng sản phẩm, mở rộng kinh doanh, chưa coi
trọng việc tăng năng xuất lao động, hạ giá thành, mà tìm kiếm thu nhập qua thị trường
bán và tiêu dùng, kể cả trong bộ máy Nhà nước.
- Đặt lợi ích cá nhân, cục bộ lợi ích Nhà nước và của tập thể.
- Pháp luật, kỷ cương của Nhà nước không được chấp hành nghiêm chỉnh cấp
dưới không phục tùng cấp trên.
- Chuyên chính vô sản bị buông lỏng, không kiên quyết ngăn chặn các tiêu cực
xã hội, trừng trị bọn đầu cơ buôn lậu phá hoại.
Sự đổi mới cơ chế quản lý tiến hành chậm, sự chỉ đạo điều hành thiếu kỷ cương
và chưa đúng pháp luật, trì trệ bảo thủ trong công tác cán bộ đồng thời có nguồn gốc
sâu xa của nền sản xuất nhỏ, tình trạng yếu kém mất cân đối, thiếu ổn định.
Chính vì vậy mà Nhà nước cần phải tăng cường vai trò quản lý kinh tế của
mình hơn nữa bằng những công cụ chính sách cụ thể để cơ chế thị trường thực sự đem
lại sức sống cho nền kinh tế.
III. Các giải pháp
1. Các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Để thực hiện tốt những mục tiêu và chức năng đã nêu trên. Nhà nước ta cần sử
dụng một số công cụ sau:



a. Kế hoạch hoá nền kinh tế.
Kế hoạch hoá là một hoạt động có hướng đích của Chính phủ hay hộ gia đình,
doanh nghiệp.
Kế hoạch hoá theo nghĩa rộng thường là một phương thức hành động đựơc
chuẩn bị trước để đưa ra thực hiện, đồng thời nó cũng có ý nghĩa là phương án làm
việc, phương án quản lý có kế hoạch. Do vậy Nhà nước XHCN cần dùng công cụ ké
hoạch hoá để điều tiết nền kinh tế.
Nhà nước sử dụng công cụ kế hoạch hoá tập trong việc hoạch địng các trương
trình phát triển kinh tế xã hội. Mỗi trương trình là một cơ hội đầu tư mở rộng phát triển

sản xuất cho các doanh nghiệp. Đặc biệt nguồn kinh tế thị trường thì bằng hoạch địng
chiến lược phát triển kinh tế Nhà nước dẫn dắt các doanh nghiệp, chỉ đạo cho họ thấy
thế nào là có thể và cần thiết đầu tư vào nơi có lợi cho mình, đồng thời có lợi cho cả
dân tộc. Bằng việc hoạch địng các chiến lược phát triển kinh tế xã hội Nhà nước có thể
thực hiện được ý đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo vùng lãnh thổ khai
thác sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, đưa thị trường trong nước hoà nhập với thị
trường thế giới, làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng ổn định, bền vững công
bằng có hiệu quả.
Đồng thời với kế hoạch kinh tế trên, Nhà nước phải có kế hoạch về xây dựng
kết cấu hạ tầng, phúc lợi xã hội, xử lý đúng các vấn đề chính trị xã hội, quốc phòng an
ninh bởi chúng là các nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế tuy nhiên, khác với trước
kia Nhà nước dùng công tác kế hoạch hoá địng hướng không phải chỉ là giao chỉ tiêu
thực hiện mà còn điều tiết phối hợp thực hiện theo dự án, vì vậy phải có kế hoạch đồng
bộ với mục tiêu và biện pháp cụ thể phù hợp đạt với yêu cầu của nên kinh tế.

b. Các loại thuế (hay chính sách phân phối lại thu nhập)
Thuế là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh mà Nhà nước bắt buộc mọi người
dân hoặc các tổ chức kinh tế nộp vào ngân sách Nhà nước để đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu
của Nhà nước về hành chính, kinh tế, khoa học, y tế, giáo dục, đảm bảo yêu cầu xã hội
và quốc phòng và an ninh. Là công cụ điều tiết sản xuất và kinh doanh Nhà nước áp



dụng chế độ thuế hoặc mức thuế thấp đối với những ngành nghề cần khuyến khích,
đánh thuế cao đối với những ngành nghề cần hạn chế phát triển.
Thuế còn là công cụ phân phối lại thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội, thực
hiện tích luỹ tập trung (với mức độ phù hợp), bảo vệ và hỗ trợ những người thiếu sức
lao động và những vùng khó khăn. Nộp thuế là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người
dân, phải tạo cho được dư luận lên án những hành động chốn thuế và lậu thuế, xuất
nhập khẩu, thuế môn bài, kệ phí giao thông

Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay chưa đồng bộ và chưa hợp lý. Hoàn thiện hệ
thống thuế phù hợp với cơ chế quản lý mới là công việc rất phức tạp. Trên cơ sở tổng
kết kinh nghiệm những năm qua với vận dụng kinh nghiệm của các nước phù hợp với
điều kiện của nước ta để cải cách hệ thống theo hướng phân định rõ chức năng và qua
đó làm rõ nội dung kinh tế của từng loại thuế. Đây là căn cứ để điều chỉnh mức thuế và
miễn giảm thuế khi cần thiết.
Yêu cầu của cải cách hệ thống thuế là thúc đẩy và kích thích phát triển sản xuất
hàng hoá, mở rộng lưu thông hàng hoá, nhất là các sản phẩm thuộc trọng tâm của
chiến lược và kế hoạch và điều tiết các bất hợp lý trong sản xuất và tiêu dùng. Bảo
đảm nguồn thu hợp lý vào ngân sách Nhà nước; đảm bảo công bằng xã hội đối với các
tầng lớp nhân dân, giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích Nhà nước; đơn giản, thuận tiện
cho việc thực hiện để kiểm tra và chống thất thu. Thực trạng thu thuế ở nước ta hiện
nay vẫn còn bị thất thoát nhiều do chưa tự giác và luật pháp Nhà nước về thuế còn
lỏng lẻo.
c. Chính sách tài chính và tín dụng.
Hiện nay nền kinh tế nước ta gặp phải nhiều khó khăn. Việc ổn định nền kinh tế
đòi hỏi phải có chính sách vĩ mô và sự phối hợp giữa các chính sách như: chính sách
tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại.
Chính sách tài chính tín dụngthể hiện ở hai nội dung thu và chi của Chính phủ
từ đó tác động vào tổng cung, sản lượng, giá và việc làm.
Chính sách tài chính có hai loại: chính sách tài chính mở rộng và chính sách tài
chính thắt chặt.



Chính sách tài chính mở rộng để áp dụng để giảm hoặc thoát khỏi suy thoái
kinh tế thông qua con đường tăng chi tiêu của Chính phủ như đẩy mạnh sản xuất hàng
hoá công cộng, tăng đơn đặt hàng mua và các khoản chi khác. Như vậy làm tăng cầu
và kích thích tổng cung tăng lên. Vì vậy giải quyết được vấn đề suy thoái và thất
nghiệp.

Chính sách tài chính thắt chặt để áp dụng để giảm lạm phát bằng cách: giảm chi
tiêu của Chính phủ. Từ đó giảm cầu quá mức của xã hội, bình ổn vật giá, hạn chế lạm
phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế Như vậy thông qua các chỉ tiêu chính sách Nhà
nước có thể khuyến khích phát triển giáo giục công nghệ, thúc đẩy các doanh nghiệp
và công nhân sản xuất ra hàng hoá hay dịch vụ cần thiết cho xã hội và cho xuất khẩu.
Nhờ chính sách này, các công ty cạnh tranh nhau nên kích thích sản xuất phát triển.
Bên cạnh đó thông qua hệ thống ngân hàng và thương mại Chính phủ can thiệp
trực tiếp về tài chính và các lĩnh vực và các thành phần kinh tế. Giám sá chặt chẽ lãi
suất tiết kiệm và hối xuất. Tạo mọi điều kiện sao cho ngân hàng có thể: “làm tốt chức
năng là trung tâm tiền tệ tín dụng và thanh toán các thành phần kinh tế huy động mọi
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, thúc đẩy sản xuất phát triển có hiệu quả, góp phần làm
đẩy mạnh giá trị đồng tiền Việt Nam.
d. Chính sách trợ giá và dự trữ quốc gia.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, chính sách trợ giá nảy sinh một cách
khách quan do tính chu kỳ do những rủi ro mà nhà sản xuất mắc phaỉ. Vì vậy Chính
phủ muốn ưu tiên cho việc tập trung triển khai những sản phẩm có lợi cho nền kinh tế
quốc dân.
Dự trữ quốc gia là một công cụ quan trọng trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Lực lượng dự trữ quốc gia bao gồm: Hệ thống kho bạc, ngân sách Quốc gia các hệ
thống ngân sách có tác dụng điều hoà, ổn địng và đảm bảo cho xã hội phát triển không
ngừng. Ngoài ra lực lượng dự trữ quốc gia còn có nhiệm vụ cất trữ một lượng lớn các
mặt hàng có ý nghĩa chiến lược sẵn sàng ứng phó với thiên tai, khủng hoảng các nhu
cầu an ninh và quốc phòng. Sức sống của nền kinh tế thị trường được phản ảnh qua
mối quan hệ cung cầu, giữa các chu kỳ sản xuất kinh doanh luôn có biến động. Nên
không có chính sách trợ giá và dự trữ quốc gia được sử dụng để ổn định cân bằng



lượng cung cầu hàng hoá trên thị trường. Hai công cụ này hỗ trợ lẫn nhau và đều nhằm
tạo sự ổn định trong quan hệ cung cầu trên thị trường.

Tóm lại, khi và chỉ khi nào Nhà nước nắm lấy và sử dụng có hiệu quả các công
cụ kế hoạch hoá, thuế, chính sách tài chính tín dụng, chính sách trợ giá và dự trữ quốc
gia, thì mới có thể hi vọng thực hiện được mục tiêu xã hội chủ nghĩa của mình.
2. Các biện pháp đổi mới và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước.
Cho đến nay mọi người đều phải thừa nhận rằng: chuyển sang nền kinh tế thị
trường là con đường duy nhất để nâng cao hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên sự can thiệp
trực tiếp của Nhà nước vào quản lý kinh tế không sửa chữa được những khuyết tật của
thị trường mà lại làm cho nền kinh tế suy sụp nghiêm trọng. Bởi vậy với mục đích
khắc phục nhược điểm của thị trường khiến nó trở thành hoàn hảo thì Nhà nước phải
đưa ra các biện pháp cụ thể để có thể phát huy được ưu điểm của thị trường. Tất nhiên
các biện pháp này chỉ ở mức độ vĩ mô, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của bất
kỳ doanh nghiệp nào. Phát triển quan điểm kinh tế của Đại hội VI: “phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài của thời kỳ quá độc
tiến lên CNXH” ta đã đạt được một số thành tựu tuy nhiên vẫn còn ở mức hạn chế. Do
đó với tình hình hiện nay để nền kinh tế có thể phát triển mạnh mẽ hơn nữa và nâng
cao vai trò quản lý của Nhà nước, ta cần áp dụng các biện pháp sau:
Một là: Xác lập mối quan hệ giữa Nhà nước và chức năng quản lý hành chính,
kinh tế và các đơn vị kinh tế đóng vai trò là các chủ thể kinh tế có tư cách pháp nhân
trong hoạt động kinh tế và có chức năng quản lý sản xuất kinh doanh. Thực chất của
mối quan hệ này là ràng buộc và chi phối lẫn nhau về quyền và nghĩa vụ giữa Nhà
nước với cá nhân, những đơn vị làm kinh tế. Mối quan hệ này là lợi ích của người lao
động, của doanh nghiệp, của Nhà nước, của xã hội do đó Nhà nước cần phải xác lập cơ
chế thị trường. Cơ chế đó phải có khả năng phối hợp với một cách tự giác với mức độ
ngaỳ càng tăng giữa người tiêu dùng và người sản xuất kinh doanh và dịch vụ thông
qua hệ thống giá cả thị trường là chính. Hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chỉ nên ở mức độ
tối thiểu. Đồng thời phải giảm mạnh các tầng lớp trung gian để tránh gây sức ì, sự trì
trệ trong sản xuất, sự lãng phí lớn về kinh tế làm cho nền kinh tế bị quan liêu hoá- kế
hoạch hoá chỉ giữ ở mức cần thiết, phù hợp với tư tưởng chủ đạo về thừa nhận thị
trường và cạnh tranh trên thị trường là một yếu tố khách quan.




Hai là: Nhà nước phải nhanh chóng xây dựng hệ chuẩn pháp luật hình thành
hành lang pháp lý cho tư duy kinh doanh và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường. Đây là chỗ cần thiết để nâng cao vai trò lãnh đạo chính trị của
Đảng, đảm bảo cho mọi công dân, mọi doanh nghiệp “được phép làm những gì mà
pháp luật không cấm”.
Ba là: Nhà nước cần có trong tau một lực lượng hàng hoá, vật tư tiền tệ cần
thiết, đủ mạnh để chủ động can thiệp đúng lúc, đúng chỗ, có tác dụng và hiệu quả
trong tình huống phát sing của nền kinh tế thị trường nhằm giảm tối đa yếu tố đột biến
do tính tự phát của thị trường gây ra. Nhà nước chỉ nắm những khâu then chốt, đầu
não, huyết mạch và tổ chức rõ sức mạnh trí tuệ, pháp lý của cơ quan quản lý có quyền
lực. Cải cách mạnh mẽ hệ thống quản lý trong mối quan hệ làm ăn với nước ngoài,
tiến tới nguyên tắc chỉ qua một cửa duy nhất để đảm bảo độ nhanh nhạy. Kịp thời hiệu
quả trong hợp tác đầu tư. Chấm dứt tình trạng nhiều cơ quan không hiểu biết về kinh
doanh và luật pháp vẫn tham gia vào quyết định kinh tế.
Bốn là: cán bộ là khâu quyết định thắnglợi và hiệu quả của hoạt động. Đội ngũ
công chức viên Nhà nước trong quản lý Nhà nước về kinh tế phải đựơc trang bị kiến
thức, phương pháp kỹ thuật và trau rồi phong cách, bản lĩnh trong công việc thường
ngày của họ. Có hiểu biết về kinh tế pháp luật dám chịu trách nhiệm, có ý thức tôn
trọng công việc, con người Có như vậy. Nhà nước mới có đủ sức mạnh và đảm
đương được chức năng quản lý một nền kinh tế đang trên đà phát triển ở nước ta.
3. Những kiến nghị
chuyển nề kinh tế Kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một quyết định đúng đắn mà Đảng ta đã
lựa chọn. Vậy để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường hoạt động tốt và phát triển nhanh
tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, Nhà nước cần phải:
Một là: Đẩy mạnh hơn nữa việc xoá bỏ những ràng buộc làm hạn chế các điều
kiện cạnh tranh của các doanh nghiệp. Xong phải tạo ra môi trường cạnh tranh kinh
doanh mạnh nhằm hạn chế thiệt hại lãng phí lớn không đáng có cho doanh nghiệp và

nền kinh tế nói chung.



Hai là: Cần phải thúc đẩy quá trình hợp tác liên kết giữa các doanh nghiệp
trước hết là các doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khâủ. Hợp tác doanh nghiệp trong
nước tạo thành một khối thống nhất để khi hợp tác với nước ngoài tránh bị ép giá
Ba là: Xây dựng một khuôn khổ pháp luật đồng bộ và ổn định sẽ tạo hành lang
cho phép doanh nghiệp tiến hành cạnh tranh một cách làng mạnh tránh tình trạng buôn
lậu, chốn thuế, làm hàng giả, hàng quán bừa bãi bung ra gây ô nhiễm làm mất mỹ quan
và ách tắc giao thông. Có thể nói nguyên nhân chính của tình trạng cạnh tranh lộn xộn
trên thị trường do luật pháp chưa đẩy đủ và ổn định nên chưa đáp ứng được yêu cầu
của thị trường.
Bốn là: Để khắc phục tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn, Nhà nước nên
có chính sách tổ chức hệ thống ngân hàng mở rộng diện cho vay đến hộ gia đình, đặc
biệt là nông dân nghèo
Năm là: phát triển các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại : đài phát thanh,
vô tuyến truyền hình nên có kênh riêng về công tác thông tin, quảng cáo cho các
doanh nghiệp. Mặt khác để tạo điều kiện mở rộng cho việc giao lưu kinh tế điều hoà
lưu thông trên thị trường được tốt, giao thông vận tải phát triển. Vì thế Nhà nước cần
đầu tư xây dựng cầu cống, đường xá, thu hồi vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích
doanh nhân thâm nhập sâu vào vùng nông thôn, miền núi vùng biển Điều quan trọng
cuối cùng là để đạt được tất cả những điều trên phải có một nền tảng kiến thức, một xã
hội lành mạnh. Muốn như vậy, Nhà nước phải đầu tư vào giáo dục, vào y tế bằng cách
khuyến khích các sinh viên vào những ngành như kinh tế, sư phạm, y học giảm học
phí với những người nghèo.

×