Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

thực trạng cung - cầu lao động khu vực fdi tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.43 KB, 61 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thế kỷ 21 đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho toàn cầu, một thế giới
đầy sôi động của quá trình toàn cầu hoá. Điều đó đã thúc đẩy các nước tích cực gia
nhập vào các tổ chức quốc tế như: WTO (tổ chức thương mại quốc tế), OECD (tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế), APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á thái
bình dương) một loạt các hợp tác, đối tác được ký kết giữa các quốc gia tạo điều
kiện cho việc phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu buôn bán giữa các nước trong thời
kỳ mở cửa. Đây là yếu tố hình thành vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), một
nguồn vốn có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
của các nước đang phát triển, giải quyết một phần công ăn việt làm cho người lao
động.
Đối với Việt Nam, một nước đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, điều
kiện kinh tế còn nghèo nàn, cơ sở vật chất- kỹ thuật còn thiếu thốn, vậy mà mới chỉ
đổi mới thật sự sau năm 1986. Do đó, vấn đề đặt ra là: bằng mọi cách phải đưa
nước ta theo kịp với trình độ phát triển của thế giới, biến nước ta trở thành một
nước có nền công nghiệp vững vàng về mọi mặt nhưng cũng chỉ duy trì một tỷ lệ
thất nghiệp cho phép. Bởi vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở nước ta trong
tiến trình toàn cầu hoá đặt ra nhiều khó khăn và thách thức lớn. Để giải quyết vấn
đề này không chỉ là yêu cầu trước mắt mà đó là cả vấn đề lâu dài cần phải có nhiều
giải pháp. Một trong các cách để giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp đó
là: Xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi để từ đó có thể thu hút được các nguốn
vốn đầu tư của nước ngoài đặt biệt là FDI.
Bởi vậy trong khuôn khổ của đề án này sẽ tập trung nghiên cứu “ Thực
trạng cung - cầu lao động khu vực FDI tại Việt Nam”.
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh vừa gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, kinh tế
nước ta đang hứa hẹn sẽ có những bước phát triển nhanh cả về quy mô nền kinh tế
lẫn chuyển đổi cơ cấu các ngành nghề theo hướng tích cực. Trong những nhân tố
đóng góp cho sự phát triển đó, có thể kể đến vai trò ngày càng lớn của nguồn vốn


đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đăng ký đang có xu hướng tăng
nhanh qua các năm, nhiều dự án đã và đang được triển khai có vốn đầu tư lên tới
hang tỉ đô la chắc chắn sẽ mang lại một giá trị không nhỏ cho ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, với đa số các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, thành phần kinh tế
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần quan trọng giải quyết một vấn đề
kinh tế - xã hội đang đặt ra ngày càng cấp thiết đối với nước ta, đó là vấn đề giải
quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Vì vậy, em chọn đề tài
nghiên cứu “ Cung - cầu lao động và vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt
Nam ở khu vực FDI trong tiến trình toàn cầu hoá” với mong muốn tổng kết tình
hình thực tế, từ đó đưa ra những giải pháp tận dụng những yếu tố có lợi và khắc
phục những mặt còn hạn chế để nâng cao hiệu quả của thành phần kinh tế này trong
việc tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho người lao động nước ta.
2. Mục tiêu nghiên cứu chủ đề
Mục đích nghiên cứu được đặt ra là: thứ nhất, thống nhất cơ sở lý luận và
thực tiễn về mối liên hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với tạo việc làm, làm cơ
sở cho việc nghiên cứu tình hình cụ thể ở Việt Nam; thứ hai, đi vào phân tích thực
trạng tạo việc làm trong khu vực FDI để cuối cùng đề suất những giải pháp có hiệu
quả để giải quyết các vấn đề còn tồn tại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu chủ đề
Đối tượng nghiên cứu của đề tài sẽ bao gồm: cung - cầu lao động, đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), tạo việc làm, mối quan hệ giữa FDI với tạo việc làm và
tiến trình toàn cầu hoá.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu bao gồm phương pháp thống kê, quan sát thực
tiễn, qua đó so sánh, tổng hợp và phân tích để đưa ra kết luận và các giải pháp.
5. Nguồn số liệu
Đề án sẽ sử dụng các số liệu nghiên cứu từ các website Tổng cục thống kê,
Bộ lao động - thương binh và xã hội,báo Tuổi trẻ, báo Dân trí
6. Kết cấu
Kết cấu đề tài bao gồm 3 chương:

SVTH: Trang
2
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về cung cầu lao động và đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI)
Chương 2: Thực trạng về cung cầu lao động và đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa
Chương 3: Những giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với
vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa
SVTH: Trang
3
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CUNG CẦU
LAO ĐỘNG VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Cung - cầu lao động
Thị trường lao động được cấu thành bởi ba yếu tố là cung sức lao động, cầu
sức lao động và giá cả sức lao động. Hoạt động của thị trường lao động cũng chịu
sự chi phối của các quy luật cung - cầu và quy luật giá trị giống như các thị trường
hàng hóa thông thường khác. Trạng thái hoạt động của các yếu tố cấu thành quyết
định cơ cấu và đặc điểm của thị trường lao động. Trong đó, các bên cung và cầu là
hai chủ thể của thị trường lao động, có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau
để tồn tại.
1.1. Cung sức lao động
Cung sức lao động là tổng thể nguồn sức lao động do người lao động tự
nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội, tức là tổng số nhân khẩu
trong độ tuổi lao động, có năng lực lao động và cả số nhân khẩu không nằm trong
độ tuổi lao động nhưng có tham gia thực tế vào quá trình tái sản xuất xã hội.

Khi nói đến cung trên thị trường lao động người ta thường phân biệt rõ
thành hai phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng.
- Cung thực tế về lao động bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên,
có khả năng lao động và có nhu cầu muốn được lao động.
- Cung tiềm năng về lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động
đang làm việc, những người thất nghiệp không tự nguyện, những người trong độ
tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ,
hoặc không có nhu cầu làm việc (thất nghiệp tự nguyện).
Cung lao động chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố như: quy mô và tốc độ tăng
dân số; định chế pháp lý về lao động; tình trạng thể chất của người lao động; vấn đề
đào tạo nghề nghiệp; và tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động vào thị trường lao
động.
1.2. Cầu về sức lao động
Cầu về sức lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa
phương, một ngành trong một thời gian nhất định. Nhu cầu này thể hiện qua khả
năng thuê mướn lao động trên thị trường. Cầu sức lao động phụ thuộc chủ yếu vào
tốc độ tăng trưởng kinh tế và năng lực sản xuất. Tương tự cung lao động, cầu về
sức lao động cũng được phân thành hai loại cầu: cầu thực tế và cầu tiềm năng.
SVTH: Trang
4
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
- Cầu thực tế về lao động là nhu cầu thực tế về lao động cần sử dụng tại một
thời điểm nhất định, thể hiện qua số lượng số việc làm còn trống và số chổ làm việc
mới.
- Cầu tiềm năng về lao động là nhu cầu về lao động trong tổng số chổ làm
việc có thể có được sau khi đã tính đến những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo
việc làm trong tương lai như vốn, công nghệ,…
Cầu về lao động bao gồm hai mặt, đó là: cầu về số lượng và cầu về chất
lượng.
- Xét từ góc độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì

cầu về lao động tỷ lệ thuận với quy mô sản xuất. Trái lại, trong trường hợp quy mô
sản xuất không đổi thì cầu về lao động tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
- Xét từ giác độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, hiện đại hoá
công nghệ sản xuất, mở rộng quy mô theo chiều ngang lẫn chiều sâu,… của doanh
nghiệp luôn gắn liền với việc nâng cao chất lượng lao động.
1.3. Giá cả sức lao động
Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động dưới dạng
tiền lương hay tiền công. Giá cả hàng hoá sức lao động cũng chịu ảnh hưởng bởi
các quy luật chung của thị trường. Khi cung sức lao động vượt quá cầu, giá cả sức
lao động sẽ thấp hơn giá trị sức lao động. Ngược lại, khi cung sức lao động không
đáp ứng đủ cầu, giá cả sức lao động sẽ tăng lên.
2. Thị trường lao động
Thị trường lao động là nơi mà người có nhu cầu tìm việc làm và người có
nhu cầu sử dũng lao động trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ lao động thông qua
các hình thức xác định giá cả (tiền lương, tiền công) và các điều kiện thỏa thuận
khác (thơi gian làm việc, điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội ) trên cơ sở một hợp
đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng
hay thỏa thuận khác.
3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI )
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI ( Foreign Direct Investment ). Đây là một
loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc trưng bởi sự di chuyển nguồn
lực đầu tư (tư bản - tiền) trên phạm vi quốc tế với mục đích kinh doanh thu lợi
nhuận .
Theo Luật đầu tư 2005 thì Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài
đưa vào Việt Nam vốn và tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư. Còn
nhà đầu tư nước ngoài là ai? Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài
bỏ vốn để thực hiện đầu tư tại Việt Nam. Như vậy, không thể dựa dấu hiệu nhà đầu
tư là cá nhân hay tổ chức để kết luận về hình thức đầu tư được.
Ranh giới phân định đầu tư trực tiếp hay gián tiếp phải căn cứ vào tính chất

quản lí của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư
SVTH: Trang
5
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp quản lí,
điều hành quá trình sử dụng vốn. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua
mua cổ phần, cổ phiếu,trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán
và thông qua các chế định tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lí hoạt động đầu tư.
Khi nói đến FDI nghĩa là nói đến hình thức đầu tư trực tiếp của nhà đầu tư
nước ngoài.Cụ thể dưới các hình thức đầu tư sau:
* Thành lập tổ chức kinh tế (100% vốn hoặc liên doanh)
* Đầu tư theo hình thức hợp đồng ( BCC,BOT,BTO,BT)
* Đầu tư phát triển kinh doanh
* Mua cổ phần ,góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư
* Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp
Các hình thức đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài như đã nói ở trên
không được coi là FDI. Việc nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân bỏ vốn đầu tư nếu
theo hình thức đầu tư trực tiếp như trên thì vẫn được coi là FDI .
3.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển của thị
trường lao động
3.2.1. Vai trò của FDI đối với việc giải quyết việc làm cho người lao động
Thông qua hoạt động đầu tư các doanh nghiệp FDI góp phần giải quyết việc
làm cho người lao động. Các doanh nghiệp FDI trực tiếp tạo việc làm thông qua
việc tuyển dụng lao động ở nước sở tại. Song song đó, doanh nghiệp FDI còn gián
tiếp tạo việc làm thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát
triển của các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khu vực kinh tế
này.
Mức độ tác động của FDI trong việc giải quyết việc làm phụ thuộc trực tiếp
vào các nhân tố như: quy mô đầu tư, lĩnh vực sản xuất, trình độ công nghệ, chính

sách công nghiệp và chính sách thương mại của nước tiếp nhận đầu tư. Bên cạnh
đó, tác động của FDI đến thị trường lao động cũng phụ thuộc vào cơ cấu nền kinh
tế, định hướng phát triển cũng như chất lượng lao động và chính sách lao động của
nước tiếp nhận đầu tư.
3.2.2. Vai trò của FDI đối với sự phát triển của hàng hoá sức lao động
Ngoài tác động tạo việc làm cho người lao động FDI còn đóng góp tích cực
vào việc nâng cao chất lượng lao động và phát triển nhân lực ở nước tiếp nhận đầu
tư. FDI làm thay đổi cơ bản năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp
thông qua hoạt động đào tạo và quá trình làm việc của lao động. Làm việc trong
các doanh nghiệp FDI đòi hỏi người lao động phải có kiến thức và khả năng đáp
ứng yêu cầu cao về cường độ và hiệu quả công việc. Cụ thể:
- Người lao động phải có sức khỏe tốt để có thể làm việc với cường độ cao.
- Có trình độ văn hoá cao để đáp ứng những đòi hỏi của trang thiết bị và kỹ
thuật công nghệ hiện đại.
SVTH: Trang
6
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
- Có kỷ cương, tác phong công nghiệp nhằm đảm bảo hiệu quả lao động của
cá nhân và tập thể.
Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI luôn đòi hỏi người lao động nỗ lực không
ngừng để hoàn thiện mình thông qua những yêu cầu ngày càng cao đối với công
việc, cơ hội phát triển, cơ hội thăng tiến…. Do vậy, trong các doanh nghiệp FDI
trình độ học vấn và trình độ nghiệp vụ của người lao động tương đối cao so với mặt
bằng chung.
Những yêu cầu trên đòi hỏi phải không ngừng phát triển bản thân cả về thể
lực và trí lực. Bên cạnh đó, để người lao động đáp ứng được các yêu cầu của công
việc các doanh nghiệp FDI thường tiến hành tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng
nghiệp vụ khá chặt chẽ, nhất là các ngành nghề đòi hỏi chất lượng lao động cao. Do
đó, FDI vừa gián tiếp khuyến khích người lao động tăng đầu tư cho phát triển
nguồn nhân lực vừa trực tiếp đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực.

Thêm vào đó, do chi phí thuê lao động nước ngoài cao hơn lao động địa
phương, các doanh nghiệp trong khu vực FDI phải tuyển dụng lao động địa
phương. Để người lao động có thể sử dụng máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại
các doanh nghiệp FDI phải có kế hoạch đào tạo. Thế nên, trong chiến lược phát
triển của các tập đoàn lớn hay các công ty đa quốc gia luôn có kế hoạch đào tạo lao
động địa phương nhằm từng bước thay thế lao động người nước ngoài.
3.2.3. Vai trò của FDI đối với sự phát triển của thị trường lao động
Bên cạnh những tác động tích cực trong việc giải quyết việc làm cho người
lao động cũng như sự phát triển nguồn nhân lực, thông qua các hoạt động của
mình, đầu tư FDI còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động.
Cùng với sự gia tăng về chất lượng và trình độ của lao động, người lao động
có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn nơi làm việc. Bên cạnh đó, lao động có
trình độ cao có khuynh hướng tìm việc thông qua các kênh lao động chính thức cao
hơn lao động trình độ thấp. Đây là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của các dịch
vụ tư vấn – giới thiệu việc làm và thị trường lao động.
Bên cạnh đó, khi nhận thức của người lao động được nâng lên, họ sẽ quan
tâm nhiều hơn đến điều kiện lao động, những điều khoản quy định cũng như quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Đây là nhân tố quan trọng góp phần hạn
chế những tác động tiêu cực của thị trường lao động.
Chất lượng lao động có mối quan hệ tỷ lệ thuận với hiệu suất lao động và
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Và do đó, khuyến khích doanh nghiệp tăng
đầu tư cho phát triển. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, vốn đầu tư tăng
sẽ làm tăng cầu về lao động. Cạnh tranh thu hút lao động cũng là một nhân tố kích
thích sự phát triển của thị trường lao động.
Với tư cách là một thành phần kinh tế, sự tham gia của khu vực FDI sẽ góp
phần làm tăng tính cạnh tranh của thị trường lao động. Với những ưu điểm về tiền
lương, điều kiện làm việc, cơ hội phát triển…thành phần kinh tế này có sức hấp
dẫn rất lớn đối với người lao động. Do vậy, để cạnh tranh thu hút lao động các
thành phần kinh tế khác phải cải thiện môi trường làm việc, tạo thêm thu nhập cho
người lao động. Đồng thời, sự đa dạng của các thành phần kinh tế sẽ góp phần làm

SVTH: Trang
7
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
đa dạng hoá các nguồn cung cầu lao động trên thị trường, yếu tố thuận lợi sự hình
thành và phát triển của thị trường lao động.
Như vậy, trong quá trình hoạt động FDI – trực tiếp hay gián tiếp - tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho sự vận hành và phát triển của thị trường lao động. Sự
phát triển của thành phần kinh tế này không chỉ tạo ra những ngoại tác tích cực cho
sự phát triển thị trường lao động mà còn khuyến khích các thành phần kinh tế khác
tham gia vào thị trường lao động.
4. Việc làm và thất nghiệp
4.1. Khái niệm việc làm
Lao động được mua bán trên thị trường lao động không phài là lao động
trừu tượng, mà là lao động cụ thể, lao động biểu hiện bằng việc làm.
Theo Bộ luật lao động (điều 13): ”Mọi hoạt động lao động tao ra nguồn thu nhập
không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Như vậy, việc làm
là hoạt động lao dộng của con người,không bị pháp luật ngăn cấm và hoạt động
nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
Những hoạt động việc làm biểu hiện dưới các hình thức:
- Làm những công việc được trả công lao động dưới dang bằng tiền hoặc
hiện vật hoặc đổi công.
- Các công cụ tự làm (tự sản xuất, kinh doanh) để thu lợi nhuận.
- Làm các công việc sản xuất, kinh doanh cho gia đình mình không nhận
tiền công hay lợi nhuận.
4.2. Khái niệm thất nghiệp
Khi cung lao động cao hơn cầu lao động thì sẽ dư thùa lao động hoặc sức
lao động được bán thấp hơn gí trị của nóhoặc không bán được thì sẽ xảy ra thất
nghiệp. Sự không hòn hảo của thị trường lao động thể hiện trước tiên ở sự mất cân
bằng cung cầu lao động và sự mất cân bằng này được đo lường thông qua chỉ số
thất nghiệp.

Theo ILO (Tồ chức Lao động quốc tế)thì: ”Thất nghiệp là tình trạng tồn tại
khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm
được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành”.
Như vậy, người thất nghiệp có 3 đặc trưng cơ bản: có khả năng lao động, không có
việc làm và đang tìm việc làm.
5. Toàn cầu hóa
5.1. Khái niệm toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy
mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để
chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do
thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư
SVTH: Trang
8
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ,
thông tin, văn hoá.
5.2. Tác động của toàn cầu hoá
5.2.1. Khía cạnh kinh tế
Các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực (xem ảnh hưởng về khía cạnh
chính trị phía dưới), quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa phương như
WTO. Các tổ chức này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và
thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc nâng cao hàng rào thuế quan để
điều chỉnh thương mại quốc tế.
Toàn cầu hóa cũng làm cho hiện tượng "chảy máu chất xám" diễn ra nhiều
và dễ dàng hơn, kéo theo biến tướng là nạn "săn đầu người". Hai hiện tượng này đã
góp phần gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia phát triển và đang
phát triển, giữa từng khu vực riêng biệt trong một đất nước.
5.2.2. Khía cạnh văn hoá, xã hội và ngôn ngữ

Toàn cầu hoá sẽ tạo ra những hiệu quả trái ngược ở mức độ cá nhân hay dân
tộc, mà kết cục thế nào đến nay cũng vẫn chưa ngã ngũ. Toàn cầu
hoá sẽ tạo ra:
- Một sự đa dạng cho các cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hoá
và văn minh khác nhau. Toàn cầu hoá giúp con người hiểu hơn về thế giới và
những thách thức ở quy mô toàn cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ
thông hoá hoạt động du lịch, việc tiếp cận dễ dàng hơn với giáo dục và văn hoá;
- Một sự đồng nhất đối với các dân tộc qua ảnh hưởng của các dòng chảy
thương mại và văn hoá mạnh. Trên thực tế, thông tin tạo ra chính kiến và vì thế một
vài tập đoàn truyền thông lớn, chủ yếu là phương Tây có thể tạo ra (và làm giả)
thông tin đưa đến dân chúng. Sự độc quyền trong lĩnh vực văn hoá và thông tin này
được xem như một sự " Mỹ hoá " thế giới.
Mỗi người nhìn toàn cầu hoá theo một kiểu khác nhau. Có hai xu hướng
chính:
- Nỗ lực che dấu những khác biệt về bản sắc, thay vì để lộ ra.
- Cảm giác toàn cầu hoá sẽ mang lại sự tự do cá nhân, ngay cả khi điều đó đi
cùng với một sự đồng nhất hoá toàn cầu một cách tương đối.
Ở góc độ ngôn ngữ, chúng ta thấy khuynh hướng rõ ràng hướng tới đồng
nhất hoá việc dùng "tiếng Anh toàn cầu" ("globish", viết tắt của global English),
một thứ tiếng Anh nghèo nàn do những người không phải là người Anglo-Saxon
dùng khi họ ở nước ngoài. (Lưu ý là "tiếng Anh toàn cầu" không phải là tiếng Anh
cơ bản như trong phiên bản Wikipedia bằng tiếng Anh đơn giản).
Sự phổ cập của tiếng Anh toàn cầu gắn với việc mất đi quyền lực chính trị ở
cấp độ thế giới: thay vì một chính sách văn hoá quốc tế có sự phối hợp để có thể
dẫn đến việc chọn một thứ tiếng có quy luật rõ ràng và ngữ âm học rõ ràng, phần
SVTH: Trang
9
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
lớn các nước đều chọn dạy tiếng Anh cho giới trẻ dựa trên lựa chọn của các nước
khác! Do sự bắt chước một cách máy móc và sự trơ ì chính trị, tiếng Anh đã trở

thành một ngôn ngữ của thế giới và được gọi là "tiếng Anh toàn cầu" ("globish") vì
các yếu tố cơ bản của tiếng Anh Oxford đã bị biến dạng về phát âm, ngữ pháp, từ
vựng, v.v.). Đối với một số những người nói tiếng Anh, "tiếng Anh toàn cầu" là kết
quả của chủ nghĩa đế quốc về ngôn ngữ của nước họ. Vấn đề là liệu có thể dễ dàng
cho rằng các nỗ lực hướng đến việc dạy tiếng Anh thay vì giảng dạy các thứ tiếng
khác sẽ làm giảm chất lượng của các ngôn ngữ khác hay không (như tiếng Pháp lai
Anh - franglais).
5.2.3. Khía cạnh chính trị
Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân
trên thế giới và cũng như các cơ hội cho từng người. Tuy nhiên nó đặt ra vấn đề là
phải tìm ra một giải pháp thay thế cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện tại dựa
trên khái niệm nhà nước-quốc gia. Các thực thể này đã từng gây ra những tác động
tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo của nó. Ảnh hưởng của
chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức
mang tính toàn cầu ngày nay. Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu
hoá dân chủ thể chế nào đó. Kiểu toàn cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân
thế giới", bằng cách kêu gọi mọi người sống trên hành tinh này tham gia vào quá
trình quyết định những việc liên quan đến họ, mà không thông qua một bức màn
"quốc tế".
Các tổ chức tổ chức phi chính phủ muốn thay vào khoảng trống này, tuy
nhiên họ thiếu tính hợp pháp và thường thể hiện các tư tưởng đảng phái quá nhiều
để có thể đại diện tất cả công dân trên thế giới.
II. ĐÔI NÉT VỀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đại hội VI Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản VN năm 1986, nhiều chính sách kinh tế được thay đổi. Việc
hình thành các văn bản pháp lý đã thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng. Luật
đầu tư nước ngoài tại VN được ban hành vào năm 1987 là một trong những đạo
luật khởi đầu cho thời kỳ đổi mới đã tạo môi trường pháp lý thu hút vốn đầu tư
nước ngoài vào VN. Kể từ khi ban hành năm 1987 đến nay, Luật đầu tư nước ngoài

(ĐTNN) đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần với các mức độ khác nhau vào các năm
1990, 1992, 1996, 2000. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, VN ngày càng hội nhập sâu
hơn vào nền kinh tế thế giới, để tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa
các khu vực kinh tế, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật đầu tư (có hiệu lực từ
ngày 01/7/2006) thay thế Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư
trong nước.
Luật đầu tư ra đời nhằm cải thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh,
tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình
đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư. Luật đầu tư đã cải thiện môi
trường đầu tư bằng việc đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu
hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế. Luật đầu tư năm 2005 đã thể hiện việc phân cấp mạnh cho các địa phương
cụ thể là tăng quyền hạn cho Ủy ban Nhân dân (UBNN) tỉnh và Ban quản lý Khu
SVTH: Trang
10
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao về cấp giấy chứng nhận đầu tư
cũng như quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng
Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự
án quan trọng chưa có trong quy hoạch, hoặc chưa có quy hoạch, những dự án còn
lại sẽ do UBND cấp tỉnh và Ban quản lý tự quyết định và cấp giấy phép đầu tư.
Khuôn khổ pháp lý từng bước được hoàn thiện cùng với cải cách công tác
quản lý nhà nước là những yếu tố quan trọng mang lại các kết quả tích cực về thu
hút đầu tư nước ngoài cũng như hoạt động đầu tư nước ngoài có hiệu quả, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại VN. Để minh chứng cho nhận định này, dưới đây
sẽ trình bày tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vai trò của nó với
việc tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa.
SVTH: Trang
11
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG
VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI VẤN ĐỀ TẠO
VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRONG
TIẾN TRÌNH TOÀN CẦU HÓA
I. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Thị trường lao động là một trong những kênh chính mà quá trình hội nhập
sâu hơn vào nền kinh tế thế giới (cụ thể là WTO) ảnh hưởng trực tiếp ngay đến
nước ta. Sở dĩ như vậy vì 3 lý do: Thứ nhất, những thay đổi về việc làm là kết quả
của thay đổi cơ cấu kinh tế; Thư hai, môi trường kinh doanh (nơi tạo ra doanh
nghiệp mới và nuôi dưỡng sáng kiến) phụ thuộc chủ yếu vào khả năng tạo việc làm
và tăng năng suất của thị trường lao động; và cuối cùng, lao động gần như là tài sản
duy nhất mà người nghèo đang sở hữu.
1. Thực trạng thị trường lao động
Năm 2006, lực lượng lao động cả nước là 45.277 ngàn người, tăng gần 2%
so với năm 2005, phân bố không đồng đều giữa nông thôn và thành thị (nông thôn
chiếm 75,03%, thành thị là 24,97%), giữa các vùng tập trung chủ yếu là vùng Đồng
bằng sông Hồng (22,11%), Đồng bằng sông Cửu Long (21,37%), thấp nhất là vùng
Tây Bắc (3,15%).
Lực lượng trong độ tuổi lao động là 42.656 ngàn người, chiếm 94,2% tổng
lao động. Lao động Việt Nam trẻ: nhóm tuổi 15-34 là 20.582 ngàn người chiếm
45,46%; nhóm trung niên từ 35-54 tuổi là 20.991 ngàn người chiếm 46,36% và
nhóm cao tuổi trên 55 tuổi là 3.704 ngàn người chiếm 8,18%.
Dịch chuyển lao động đang tăng, nhưng tự do hóa lao động còn hạn chế
khiến tính linh hoạt của thị trường lao động chưa cao, đặc biệt là sự chuyển dịch
lao động trong nước và nước ngoài, giữa các khu vực, các ngành còn bị hạn chế,
còn nhiều rào cản do cung lớn hơn cầu, chất lượng, cơ cấu ngành nghề và tổ chức,
cung cấp thông tin, cung ứng lao động… chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
Theo ước tính sơ bộ từ cuộc điều tra thực trạng việc làm và thất nghiệp năm
2006, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo là 31,9% tăng 6,6% so với
năm 2005. Tỷ lệ này ở thành thị cao hơn ở nông thôn, tương ứng là 58,1% và

23,2%, chủ yếu tăng số công nhân kỹ thuật. Tính riêng lực lượng lao động có
chứng chỉ nghề ngắn hạn trở lên là 14,4%.
Kỹ năng, tay nghề thấp do chất lượng đào tạo, cơ cấu ngành, nghề đào tạo
chưa đáp ứng yêu cầu thị trường lao động. Tỷ lệ dạy nghề ngắn hạn chiếm khoảng
80% nên thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật cao, lao động dịch vụ cao cấp (tài
SVTH: Trang
12
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng….), nhiều nghề và công việc phải thuê lao
động nước ngoài, xuất khẩu lao động đa phần là lao động trình độ chuyên môn kỹ
thuạt thấp hoặc chỉ qua giáo dục định hướng.
Thể lực của người lao động yếu, yêu cầu lao động hoạt động phải sử dụng
các máy móc, thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Kỷ luật lao động, tác phong làm việc
công nghiệp cơ bản chưa được hình thành. Do vậy, khả năng cạnh tranh yếu, nhất
là ở thị trường yêu cầu lao động có trình độ cao như các khu công nghiệp, khu chế
xuất và thị trường lao động nước ngoài.
Nhu cầu lao động trong nước có xu hướng tăng về cả số lượng và chất
lượng. Số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có xu hướng tăng những
năm gần đây. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp hàng năm của Tổng cục Thống
kê, ước tính tổng số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh đến cuối năm 2006 là 234
ngàn doanh nghiệp. Ngoài ra, với khoảng 2 ngàn làng nghề, 110 ngàn trang trại, 2
triệu hộ kinh doanh cá thể, tiểu thương, tiểu chủ đã thu hút khoảng 15 triệu lao
động vào làm việc, trong đó có hơn 5 triệu làm theo hợp đồng, đưa tổng số lao
động làm công ăn lương lên trên 13 triệu (trong đó có khoảng gần 2 triệu làm việc
trong khu vực hành chính sự nghiệp), chiếm khoảng 30% lao động xã hội. Số lao
động đang có việc làm tính đến tháng 7/2006 là 43.843 ngàn người, tăng 386 ngàn
người so với năm 2005, tốc độ tăng 0,9%/năm.
Trong những năm gần đây, công tác xuất khẩu lao động cũng phát triển
mạnh. Số lượng lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài có xu hướng tăng. Từ
15 nước tiếp nhận lao động Việt Nam vào năm 1995 với 10.050 người đến nay lao

động Việt Nam đã có mặt trên 40 nước và vùng lãnh thổ, tập trung chủ yếu ở các
nước trong khu vực Đông Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia và sẽ
tăng một số thị trường khác. Trong giai đoạn 2001 – 2005, Việt Nam đã đưa được
29 vạn lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó có 50% được đào tạo nghề và
90% được đào tạo định hướng. Năm 2006, 78 ngàn lao động đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài, đưa tổng số lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc có
thời hạn ở nước ngoài lên trên 400 ngàn người, hàng năm chuyển về gia đình
khoảng 1,6 tỷ USD góp phần nâng cao thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội.
Hệ thống giao dịch thị trường lao động đa dạng về hình thức, phong phú về
hoạt động đã làm tốt nhiệm vụ kết nối người lao động và người sử dụng lao động.
Hệ thống này bao gồm giao dịch gián tiếp (thông qua các tổ chức môi giới bao gồm
giao dịch chính thức và phi chính thức) và giao dịch trực tiếp.
Giao dịch gián tiếp chính thức (các tổ chức giới thiệu việc làm, hội chợ việc
làm và sàn giao dịch việc làm): Tính đến tháng 7/2006 đã có 170 trung tâm giới
thiệu việc làm được thành lập và hàng ngàn doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc
làm, cung ứng lao động. Từ 1990 – 2005, các trung tâm đã tư vấn cho trên 3 trieụe
lượt người, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động cho khoảng 2,5 triệu lao động,
dạy nghề ngắn hạn gắn với tạo việc làm cho khoảng 1,8 triệu lao động. Tuy nhiên,
hoạt động của trung tâm giới thiệu việc làm còn hạn chế về khả năng tư vấn, giới
thiệu việc làm và thu thập thông tin về cung – cầu trên thị trường, còn nặng về dạy
nghề và dịch vụ thu phí.
Hàng năm, cả nước tổ chức trên 40 hội chợ việc làm cấp tỉnh, và hàng trăm phiên
chợ, sàn giao dịch việc làm tại các trung tâm giới thiệu việc làm, trường học, doanh
SVTH: Trang
13
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
nghiệp… với hàng vạn lao động tham gia, số lao động được phỏng vấn tại chỗ
chiếm hơn 60%, khoảng 25-39% số lao động được tuyển dụng. Tuy vậy, do các hội
chợ mới tập trung ở đô thị lại chưa thường xuyên nên chưa sát với nơi có nhiều lao
động.

Giao dịch phi chính thức thông qua các doanh nghiệp, báo chí, đoàn thể
cũng có những tác động tích cực đến thị trường lao động. Hình thức này phổ biến ở
các tỉnh có cung lao động lớn, nhu cầu về việc làm nhiều như các thành phố lớn và
các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất.
Song, vẫn còn đang tồn tại những hoạt động dưới dạng môi giới tìm việc làm thu
tiền trái phép, kể cả lừa đảo gây hậu quả, tác động xấu đến thị trường, tổn hại đến
người lao động.
Giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động: Thực tế
các thông tin được cung cấp thông qua khâu trung gian cả kênh chính thức và phi
chính thức đều không đầy đủ và tin cậy, do vậy giao dịch trên thị trường lao động
chủ yếu vẫn là hình thức trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động
(chiếm trên 80% số người tìm được việc làm).
Nhìn chung, cầu lao động ngày càng tăng về số lượng và chất lượng trên thị
trường lao động chung ở nước ta, đặc biệt tăng mạnh và đa dạng ở cầu lao động
theo quan hệ làm công ăn lương. Tuy nhiên số lượng lao động là người nước ngoài
có trình độ quản lý, chuyên môn kỹ thuật cao đang gia tăng, do người lao động Việt
Nam chưa đáp ứng được nhất là trong các ngành dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng,
khai thác dầu khí, xây dựng các công trình lớn. Thị trường lao động Việt Nam đã
hình thành, đang từng bước phát triển với hệ thống cơ chế, chính sách đã được ban
hành tương đối đồng bộ.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), một mặt đem lại những cơ hội, mặt khác cũng đưa lại những
thách thức và khó khăn cho người lao động Việt Nam, nhất là khi nền kinh tế nước
ta bắt đầu hội nhập đầy đủ và sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Về tổng
thể, cơ hội việc làm sẽ được mở ra nhiều hơn do sự gia tăng thương mại và đầu tư.
Số việc làm mới sẽ được mở ra nhiều hơn ở khu vực xuất khẩu, khu vực đầu tư
nước ngoài, ở các ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao đặc biệt là dịch vụ và ở
khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Về thị trường lao động, việc mở rộng thương
mại quốc tế và đầu tư nước ngoài sẽ làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế, dẫn đến thay
đổi cơ cấu việc làm và cơ cấu lao động. Trên thị trường lao động được dự báo là có

sự chuyển dịch về lao động giữa các khu vực kinh tế, giữa các địa phương, giữa các
ngành nghề và giữa các doanh nghiệp. Đây là sự dịch chuyển tự nhiên làm cho sự
phân bổ nguồn lực lao động được hợp lý hơn, mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn cho
người lao động, cho doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, cạnh
tranh trên thị trường lao động sẽ gay gắt hơn, lợi thế cạnh tranh như giá nhân công
rẻ, đầu tư xã hội thấp… giảm dần. Hơn nữa, những mặt yếu của lao động Việt Nam
như trình độ tay nghề, chuyên môn, ngoại ngữ, kỷ luật, tác phong công nghiệp và
thể lực kém đang và sẽ là thách thức lớn. Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra là: Giải pháp
nào phát triển thị trường lao động trong bối cảnh Việt Nam là thành viên WTO?
2. Thực trạng lao động, cung - cầu lao động ở nước ta hiện nay
2.1. Thực trạng lao động nước ta hiện nay
SVTH: Trang
14
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
2.1.1. Lực lượng lao động
Theo điều tra lao động việc làm lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên cả
nước là 43.255 nghìn người. Trong đó lực lượng lao động ở nhóm tuổi 15 – 34 tuổi
chiếm 46,8%, từ 35 – 54 tuổi chiếm 35,4%, trên 55 tuổi chiếm 7,8%. Như vậy lực
lượng lao động trẻ (dưới 35 tuổi) ở nước ta chiếm xấp xỉ 50% lực lượng lao động
và điều đó cũng cho thấy được tiềm năng về lao động ở nước ta là dồi dào – khả
năng thiếu lao động (xét về lượng) không phải là vấn đề tồn tại hiện nay. Nếu
chúng ta có hướng đào tạo, sử dụng tốt để khai thác được tiềm năng đáng quý này,
mà hiện nay một số quốc gia (nhất là các nước đang phát triển) thì lại đang khan
hiếm.
2.1.2. Phân bổ lực lượng lao động
Trong tổng số lực lượng lao động hiện có thì tỷ lệ lao động ở khu vực thành
thị chiếm 24,6%, lao động ở khu vực nông thôn 75,5%. Phân bổ lao động hiện nay
cho thấy sự chuyển dịch về cơ cấu lao động chưa tương thích với sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong 5 năm qua. Trong 5 năm qua tỷ trọng ngành nông nghiệp xấp
xỉ 21,6% GDP nhưng lực lượng lao động lớn, điều đó cho thấy hiệu quả sử dụng

lao động ở khu vực nông thôn, nông nghiệp thấp và càng tạo sức ép về giải quyết
việc làm ở khu vực này.
Mặt khác, sự phân bố lao động chủ yếu tập trung ở 3 vùng: Đồng bằng sông
Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ - 2 vùng Tây Bắc và Tây
Nguyên chưa thu hút lao động.
Sự phân bổ lực lượng lao động giữa các vùng chưa tương xứng với tiềm
năng của các vùng đó, do đó chưa khai thác được lợi thế của các vùng kinh tế đó.
Chẳng hạn: 2 vùng Tây Bắc và Tây Nguyên là 2 vùng có diện tích đất tự nhiên lớn,
có thể phát triển và sản xuất những loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao (cây công
nghiệp, cây ăn quả…) nhưng lao động ở 2 lĩnh vực này chỉ chiếm 8,8% (xét về mặt
lượng, về mặt chất lại còn là vấn đề bức xúc hơn). Vì vậy, sự phát triển kinh tế ở
khu vực này còn gặp nhiều khó khăn trong đó có khó khăn lớn thiếu nguồn nhân
lực có trình độ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế của vùng.
2.2. Thực trạng cung - cầu lao động nước ta hiện nay
2.2.1. Cung- cầu lao động
a. Chất lượng lao động
Về chất lượng, lực lượng lao động trẻ còn có những hạn chế. Học vấn thấp,
kỹ năng nghề nghiệp chưa cao là một trong các nguyên nhân dẫn đến năng suất lao
động của lao động Việt Nam nói chung và lao động thanh niên nói riêng chưa cao.
Về học vấn, vẫn còn trên 15% số lao động chưa tốt nghiệp tiểu học, trong đó chưa
biết chữ chiếm gần 4%.
Trình độ học vấn còn được thể hiện qua chỉ tiêu số năm đi học bình quân. Số
liệu điều tra cho thấy, số năm đi học của lực lượng lao động trẻ cao hơn so với bình
quân chung toàn quốc. Tuy nhiên vẫn có sự chênh lệch nhất định giữa lao động trẻ
là nữ và lao động trẻ nam. Đặc biệt còn có sự cách biệt khá lớn về số năm đi học
bình quân giữa lao động trẻ ở nông thôn và thành thị. Chẳng hạn ở nhóm lao động
từ 15-19 tuổi, đối với lao động nam, số năm đi học của lao động ở nông thôn là 7,6
SVTH: Trang
15
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN

năm, trong khi đó số năm đi học của lao động ở thành thị là 8,8 năm. Tương tự, đối
với lao động nữ ở nhóm này là: nông thôn 7,4 năm và thành thị 9,4 năm.
Về chuyên môn kỹ thuật: Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 2006,
trong số lao động trong nhóm 15-34 tuổi, số người không có chuyên môn kỹ thuật
chiếm 84%. Xét trong tổng lực lượng lao động, tỷ lệ lao động trẻ có CMKT thấp
hơn so với lao động có CMKT nói chung của cả nước (16% so với 26%). Như vậy
có thể nói, chất lượng lao động trẻ (dưới giác độ CMKT) ở nước ta chưa cao, ảnh
hưởng nhiều đến việc tiếp thu những tiến bộ về khoa học và công nghệ vào trong
các lĩnh vực cuả nền kinh tế quốc dân.
Trình độ CMKT của lao động trẻ Việt Nam có sự chênh lệch giữa nam và
nữ. Đối với lao động trẻ nữ, số người có CMKT chỉ chiếm 5,29%, trong khi đó tỷ
lệ này ở nam giới là 6,47%.
Cũng có sự chênh lệch về CMKT của lao động trẻ ở nông thôn và thành thị.
ở nông thôn, số lao động trong độ tuổi từ 15- 34 có CMKT chiếm 3,36% (trong đó
nhóm tuổi 15-24 chiếm 1,98% và nhóm 25-34 chiếm 5,07%); Trong khi đó ở thành
thị, số lao động trong nhóm tuổi 15-34 có CMKT chiếm 13,36% (trong đó, nhóm
15-24 chiếm 7,2% và nhóm 25-34 chiếm 20,16%).
Đặc biệt, có sự chênh lệch rất lớn về tỷ lệ lao động có trình độ cao giữa lao
động trẻ ở nông thôn và lao động trẻ ở thành thị. Nếu như trong số người có CMKT
ở nông thôn, chỉ có 0,79% tốt nghiệp cao đẳng, đại học thì tỷ lệ này ở lao động trẻ
thành thị là 5,2%.
Đây là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay trong thị trường lao động
trẻ ở nước ta, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt và chất lượng lao động
là vũ khí mạnh mẽ để cạnh tranh có hiệu quả.
Chất lượng lao động được đánh giá không chỉ định lượng theo trình độ học
vấn và chuyên môn kỹ thuật mà còn được đánh giá thông qua cách nhìn nhận, đánh
giá của các doanh nghiệp là nơi tiếp nhận, sát hạch lao động trước khi vào làm việc
chính thức. Qua một khảo sát của Tổng cục Dạy nghề, yêu cầu về kỹ năng của
người lao động được đánh giá như sau:
Các kết quả trên cho thấy đối với lao động kỹ thuật có bằng, yêu cầu đầu

tiên được đông đảo các doanh nghiệp cho ý kiến tập trung nhất (81%) và là quan
trọng nhất, đó là “kỹ năng kỹ thuật liên quan tới công việc”.
Yêu cầu của các doanh nghiệp đối với lao động ở các trình độ khác nhau tuy có
khác về thứ tự các yêu cầu nhưng nhìn chung đều tập trung vào các yêu cầu về: Kỹ
năng kỹ thuật liên quan tới công việc; Tinh thần phối hợp, hiệp đồng tốt trong
nhóm; Kỹ năng thực hành liên quan tới công nghệ, Có tinh thần học hỏi; Lịch sử
bản thân và gia đình tốt; ý thức kỷ luật lao động; …
Nói tóm lại lực lượng lao động ở nước ta đông nhưng không mạnh, sự phân
bổ và sử dụng lao động còn nhiều điều bất hợp lý với một nền kinh tế chuyển đổi
và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
b. Cung lao động
Cung lao động: năm 2004 lực lượng lao động (LLLĐ) của nước ta khoảng
43,25 triệu người, nam 51%, nữ 49%, tăng 22,9% so với năm 1996. Trong giai
SVTH: Trang
16
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
đoạn 2000 - 2004, bình quân mỗi năm LLLĐ cả nước tăng thêm 1,02 trệu người
(tăng 2,5%lnăm). Mức tăng lao động khá cao, tạo nên sức ép trên thị trường lao
động đối với cầu lao động, thể hiện ở tỷ lệ thất nghiệp của năm 2004 là 5,6%. Lao
động ở khu vực nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn, năm 2004 lực lượng lao động
nông thôn có 32,7 triệu người, chiếm tỷ lệ 75,6% lực lượng lao động cả nước; trong
khi LLLĐ thành thị là 10,55 triệu người, chiếm 24,4%.
Cung lao động thể hiện ở các yếu tố như: trình độ học vấn phổ thông của lực
lượng lao động nước ta ngày càng được nâng cao, năm 1996 số lao động chưa biết
chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học là 26,4% trong tổng lực lượng lao động, đến năm
2004 giảm xuống còn 17,1%. Số lao động tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học
phổ thông có xu hướng tăng, chỉ tính lao động tốt nghiệp phổ thông trung học đã
tăng từ 13,8% năm 1996 lên 19,71% năm 2004. Trong lực lượng lao động, số lao
động qua đào tạo tăng liên tục trong nhiều năm, năm 1996 lao động qua đào tạo là
10,4%, trong đó 7,5% qua đào tạo nghề; đến năm 2004 tăng lên 22,3%, trong đó

qua học nghề 13,3%. Trong 4 năm (từ 2001 đến 2004) tuyển mới đào tạo nghề cho
4126 nghìn người, bình quân tăng gần 9%/năm, trong đó đào tạo nghề dài hạn 653
nghìn người, tăng bình quân trên 16%/năm; lực lượng lao động qua đào tạo cao
đẳng, đại học tăng 4,8%/năm. Sự tăng nhanh của lao động qua đào tạo, đặc biệt là
qua đào tạo nghề là yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng của cung lao động, đáp
ứng nhu cầu của người sử dụng lao động trong các khu vực và các thành phần kinh
tế. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, chất lượng lao động còn có sự khác biệt khá xa
xét theo khu vực thành thị, nông thôn. Năm 2004, lực lượng lao động thành thị lao
động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật (CMKT) là 45,5%, trong khi nông thôn là
13,3%.
Nhìn chung, chất lượng lao động nước ta còn một số yếu điểm như: tỷ lệ lao
động qua đào tạo còn thấp, thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề và lành nghề cao;
chưa có tác phong công nghiệp, cơ cấu cấp trình độ CMKT của lao động qua đào
tạo còn bất hợp lý (năm 2003: CĐ, ĐH và trên ĐH - THCN - CNKT là 1 - 0,9 -
2,7) Các tồn tại này đã được các cơ quản lý nguồn nhân lực quan tâm từ nhiều
năm nay, và hiện đang thực hiện các giải pháp tích cực nhằm chuẩn bị đội ngũ lao
động CMKT để phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động.
c. Cầu lao động
Cầu lao động: tính đến ngày 1-7-2004 tổng cầu lao động (lao động thực tế
đang làm việc trong nền kinh tế) là 42,33 triệu người, tốc độ tăng bình quân l996 -
2004 là 2,54%/năm. Cầu lao động có mức tăng khá cao là do có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao và ổn định, và sự chuyển dịch tích cực của cơ cấu kinh tế theo chiều
hướng tăng tỷ trọng kinh tế ở khu vực dịch vụ và công nghiệp. Một nguyên nhân
quan trọng nữa có ảnh hưởng lớn đến việc tạo mở việc làm nhanh trong thời kỳ này
là tỷ lệ vốn đầu tư trong GDP liên tục được tăng lên, từ 14,2% năm 1985 lên
khoảng 33% năm 2004. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh xuất khẩu cũng có tác động
tích cực đến tạo mở việc làm, thu hút lao động. Mức cầu lao động trong các loại
hình doanh nghiệp cụ thể như sau:
- Cầu lao động trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN): quá trình cải cách
doanh nghiệp nhà nước đã làm cho lao động trong khu vực doanh nghiệp này giảm

cả tuyệt đối và tương đối, từ 2500 nghìn người năm 1989 xuống còn 2200 nghìn
SVTH: Trang
17
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
người năm 2004. Khu vực DNNN ít có khả năng thu hút lao động ở qui mô lớn, do
một bộ phận lớn làm ăn kém hiệu quả hoặc đang trong quá trình sắp xếp, chuyển
đổi hình thức sở hữu; bộ phận khác gặp khó khăn trong sản xuất - kinh doanh trước
yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh bình đẳng, một số
khác thì bị giải thể.
- Cầu lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng việc làm cao và có ảnh hưởng khá lớn đối với
việc thúc đẩy phát triển mức cầu trên thị trường lao động. Năm l997, số lao động
làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 130 nghìn người, đến năm
2004 là 691 nghìn người. Các năm 2001-2004 tốc độ tăng lao động bình quân của
khu vực này là 30,2%, trong đó doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng bình quân
37%/năm.
- Cầu lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD): sự
phát triển của các DNNQD có vai trò quan trọng trong việc tạo ra mức cầu lao
động hàng năm trên thị trường lao động. Tính đến năm 2004, DNNQD thu hút
1700 nghìn lao động, chiếm tỷ lệ 36,5% tổng số lao động của khu vực doanh
nghiệp, tốc độ tăng lao dộng bình quân trong khu vực DNNQD các năm gần đây là
28%.
- Trên tổng thể, lao động được thu hút vào làm việc trong khu vực doanh
nghiệp có chất lượng như sau: 50,6% là lao động chưa qua đào tạo, 29,2% công
nhân kỹ thuật, 7,4%, lao động trung học chuyên nghiệp, 12,8% cao đẳng, đại học
trở lên.
- Cầu lao động khu vực hành chính sự nghiệp: hiện nay, lao động làm việc
trong khu vực hành chính sự nghiệp là l789,4 nghìn người, từ năm 1995 trở lai đây,
bình quân mỗi năm tăng gần 5%. Cầu lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp
tăng lên chủ yếu là do có sự phát triển của các ngành như: giáo dục, đào tạo, y tế,

quản lý nhà nước và yêu cầu mới đối với công việc quản lý, điều hành nền kinh tế
thị trường.
- Cầu lao động làm thuê ở nông thôn: hiện nay cả nước có 2.017 làng nghề
thủ công thuộc 1l nhóm nghề chính. Các làng nghề thu hút khoảng 2501 nghìn lao
động làm công ăn lương. Ngoài ra có gần 110 nghìn trang trại hoạt động, bình quân
mỗi trang trại sử dụng 3,4 lao động thuê mướn. Tổng số lao động làm thuê trong
các trang trại khoảng 375 nghìn người. Kinh tế hộ cũng có vai trò không nhỏ trong
thu hút lao động trên thị trường lao động nông thôn. Ở một số vùng kinh tế thị
trường phát triển (vùng ven thị xã, thành phố, khu công nghiệp tập trung, vùng
nông nghiệp hàng hóa xuất khẩu ) bình quân 23% hộ gia đình nông thôn có thuê
lao động trong năm, chủ yếu là thuê không thường xuyên, ngắn hạn và theo mùa
vụ.
- Cầu lao động của hộ kinh doanh dịch vụ: hiện nay cả nước có khoảng
2,381 triệu hộ kinh doanh cá thể, tiểu thương, tiểu chủ, dịch vụ. Theo điều tra gần
đây của Bộ LĐTBXH cho thấy, bình quân mỗi hộ kinh doanh cá thể thuê 0,5 lao
động, thu hút khoảng 1,19 triệu lao động và hàng vạn lao động giúp việc gia đình,
góp phần tăng tổng cầu trên thị trường lao động.
SVTH: Trang
18
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
- Cầu lao động ngoài nước: trong 4 năm 2001-2004, Việt Nam đã đưa
217.000 lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Riêng năm
2004 đưa 60.000 nghìn người đi làm việc ở nước ngoài, đến nay đã có trên 400.000
lao động đang làm việc ở 40 nước và vùng lãnh thổ. Xuất khẩu lao động góp phần
vào điều chỉnh quan hệ cung - cầu trên thị trường lao động, có tác động đến sự phát
triển hệ thống dịch vụ cung ứng lao động, kích thích người lao động học nghề.
2.2.2. Nghịch lý cung - cầu lao động
a. Cung - cầu lao động mất cân đối nghiêm trọng
Trên 50% doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động. Báo cáo
của Bộ LĐ-TB&XH vừa chỉ rõ thực trạng mất cân đối nghiêm trọng cung - cầu lao

động trên cả nước cùng với chất lượng nguồn nhân lực thấp. Trong khi đó việc quy
hoạch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thiếu đồng bộ giữa các ngành nghề, vùng, địa
phương
Chất lượng lao động thấp. Tổng số lao động có việc làm của cả nước đến
thời điểm này là 47,25 triệu người. Tuy nhiên, theo báo cáo, trên 70% có việc làm
không ổn định (chủ yếu lao động tự do hoặc làm việc trong gia đình không hưởng
lương), dễ bị tổn thương và dễ rơi vào nghèo đói.
Chất lượng lao động bị đánh giá còn quá thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Có 65,25% lao động không qua đào tạo; 78%
thanh niên trong độ tuổi 20-24 khi tham gia thị trường lao động chưa được đào tạo
nghề hoặc có đào tạo nhưng vẫn bị hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp.
Chất lượng lao động qua đào tạo thấp dẫn đến hệ quả nguồn cung lao động
không đáp ứng nhu cầu. Ở nhóm lao động có trình độ chuyên môn bậc đại học,
chỉ 30%-40% sinh viên tốt nghiệp đại học có việc làm ngay, trong khi 60%-70%
phải đào tạo bổ sung kiến thức, kỹ năng.
Đáng nói là trong lúc lao động xã hội dư thừa, thậm chí lao động mất việc
diễn ra thường xuyên thì trên 50% doanh nghiệp (DN) thừa nhận thường
xuyên thiếu hụt và gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động. Tại Đồng Nai,
hằng năm DN thiếu hụt khoảng 20.000 lao động, trong đó thiếu 5.000 lao
động qua đào tạo nghề và 15.000 lao động phổ thông. Tại TP.HCM, từ đầu
năm 2009 đến nay số lao động mất việc là 23.796 người nhưng các DN vẫn báo cáo
thiếu 61.527 lao động.
Doanh nghiệp bị động:
Trong khi cung lao động với chất lượng nhân lực bị đánh giá còn thấp, chưa
đáp ứng yêu cầu thì cầu lao động cũng chưa có sự cải thiện đáng kể. Theo tính
toán, tốc độ tăng GDP 6,5% - 8%/năm đã tạo việc làm cho 1,2 triệu-1,4 triệu
người/năm.
Tuy nhiên, tốc độ tăng GDP nhanh, không đồng đều giữa các ngành nghề
kinh tế và không có dự báo sớm nên việc chuyển đổi và dịch chuyển lao động gặp
khó khăn, gây ra tình trạng dư thừa lao động nông nghiệp và thiếu hụt lao động khu

vực công nghiệp và dịch vụ ở hầu hết vùng, địa phương.
Hạn chế trong hoạt động của cầu lao động còn được phân tích ở góc độ đầu
tư, chuẩn bị nguồn nhân lực của DN. Một kết quả khảo sát được nêu trong báo cáo:
SVTH: Trang
19
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
chỉ có 2,3% DN dầu khí, dệt may, bưu chính viễn thông ký kết hợp đồng hợp tác
đào tạo. Do không đầu tư nhân lực, dẫn đến tình trạng DN thường bị động trong
việc sử dụng lao động qua đào tạo và chủ yếu sử dụng kết quả đào tạo có sẵn.
b. Cung - cầu lao động thừa mà thiếu
Nhìn tổng thể, thị trường lao động VN vẫn là một thị trường dư thừa lao
động và phát triển không đồng đều, mất cân đối cung - cầu lao động nghiêm trọng
giữa các vùng miền, khu vực, ngành nghề kinh tế. Nguyên nhân của mọi nguyên
nhân được chỉ rõ: đó là quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đô thị chưa đồng
bộ, chưa tính đến phát triển nguồn nhân lực của từng vùng, miền, địa phương.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa kéo theo hiện tượng đô thị hóa tập trung,
không đồng đều, không đồng bộ đã gây nên sự chênh lệch của các địa phương.
Điển hình nhiều tỉnh, thành tập trung quá nhiều KCX-KCN là nơi dân số ít, nguồn
lao động không nhiều, phụ thuộc vào lao động nhập cư. Ngược lại, nhiều địa
phương tập trung thu hút đầu tư để phát triển kinh tế nhưng không tính toán đến
cung - cầu lao động cũng như hạ tầng cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu chuyển dịch lao
động.
Trong nền kinh tế thị trường, phát triển cung lao động phải đáp ứng cầu của thị
trường lao động, của nền kinh tế, bảo đảm nhu cầu việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động. Bộ LĐ-TB&XH cho rằng giải quyết vấn đề cung - cầu lao động
thật ra là giải quyết bài toán nhân lực cho cả nền kinh tế, cần có giải pháp mang
tính chiến lược.
3. Tình hình giải quyết việc làm giai đoạn 2001 – 2005
Bảng 1: Phân bổ lao động ở các vùng lãnh thổ (tính đến 1/7/2004)
Số lao động

(nghìn người)
Tỷ lệ
(%)
Cả nước 43.225,2 100
Đồng bằng sông Hồng 9.718,3 22,5
Đông Bắc 5.129,2 11,8
Tây Bắc 1.373,7 3,2
Bắc Trung Bộ 5.214,7 12,1
Duyên hải miền Trung 3.582,3 8,3
Tây Nguyên 2.415,7 5,6
Đông Nam Bộ 6.536,9 15,1
SVTH: Trang
20
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Đồng bằng sông Cửu Long 9.284,5 21,4
Nguồn: Kết qủa điều tra lao động việc làm ngày 1/7/2004, Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội.
Trong 5 năm qua chúng ta đã giải quyết được 7,5 triệu việc làm đạt chỉ tiêu
kế hoạch đề ra. Việc làm hàng năm có xu hướng tăng: Năm 2001: 1.400 ngàn
người; Năm 2002: 1.420 ngàn người; 2003: 1.525 ngàn người; 2004: 1.557,5 ngàn
người; 2005: ước 1.592 ngàn người.
Giải quyết việc làm trong thời gian qua chủ yếu theo 3 hướng cơ bản sau:
- Các chương trình phát triển kinh tế - xã hội đã tạo khoảng 74% tổng số
việc làm mới. Trong 5 năm qua các chương trình này tập trung vào: chương trình,
dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn như: phát triển trang trại, mở rộng phát
triển làng nghề, xây dựng các vùng kinh tế mới, khai táhc các vùng đất trống đồi
núi trọc, khai táhc mặt nước ao hồ nuôi trồng thủy sản… theo hướng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế để phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ; chương trình phát triển
công nghiệp và dịch vụ như: xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu công
nghệ cao, các chương trình trọng điểm về xây dựng, phát triển giao thông, các

trung tâm văn hóa thể thao, các khu du lịch…
- Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm: Nguồn quỹ này đã tạo hơn 22% tổng việc
làm. Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương bình và Xã hội trong 4 năm 2001 -
2004 Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã cấp được 3.700 tỷ đồng vốn cho trên 80 ngàn
dự án, tạo việc làm cho 1,32 triệu người. Chương trình này cũng đã huy động được
một lượng vốn đối ứng ước tính khoảng 5.000 tỷ đồng để các gia đình, các doanh
nghiệp có cơ hội tự tạo việc làm cho mình và thu hút lao động vào làm việc.
- Hoạt động xuất khẩu lao động: Hiện nay đối với nước ta đây là một hướng
giải quyết việc làm tương đối có hiệu quả: Vì: Thứ nhất, nó tạo nguồn thu nhập
tương đối cao và ổn định (so với lao động tự tạo việc làm trong nước). Ví dụ: Hiện
nay thu nhập bình quân một lao động Việt Nam tại Đài Loan khoảng 300
USD/tháng, Hàn Quốc 500 USD/tháng, Nhật Bản 300 – 500 USD/tháng, trong lúc
đó mức thu nhập bình quân một lao động có việc làm tại Việt Nam chỉ 617.340
đồng/tháng (tương đương 40 USD/tháng). Thứ hai, góp phần vào việc đào tạo tay
nghề cho người lao động. Đối với lao động xuất khẩu đó là cơ hội để họ có thể có
điều kiện: học tập về kỹ thuật, tiếp cận công nghệ hiện đaị, tích lũy kinh nghiệm,
tạo ý thức chấp hành kỷ luật lao động… đó là yêu cầu bắt buộc đối với người lao
động trong nền sản xuất lớn.
Bảng 2: Lao động xuất khẩu Việt Nam sang khu vực Đông Bắc Á
(2001-2004)
Đơn vị: Người
Năm Tổng số Đài Loan Nhật Bản Hàn Quốc Malaysia Nước khác
2001 36.168 7.782 3.249 3.910 23 21.204
2002 46.122 13.191 2.202 1.190 19.965 9.574
SVTH: Trang
21
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
2003 75.000 20.069 2.256 4.336 38.227 1.112
2004 67.447 37.144 2.752 4.779 14.567 8.205
Nguồn: Cục Quản lý lao động người nước. Bộ Lao động – Thương binh và Xã Hội

Tuy nhiên, hiện nay hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta chỉ tạo ra được
xấp xỉ 4% việc làm. Nhưng đây sẽ là một hướng giải quyết việc làm đang có xu
hướng phát triển theo chiều hướng tốt. 5 năm qua xuất khẩu lao động ở nước ta có
xu hướng tăng – đặc biệt sang các nước Đông Bắc Á.
5 năm qua chúng ta có nhiều cố gắng bằng nhiều hình thức, nhiều kênh
khách nhau để tạo việc làm cho người lao động, do đó đã phần nào cải thiện được
tình hình thiếu việc là trong cả nước, nhìn chung tỷ lệ thất nghiệp giảm so với năm
2001. Ở khu vực thành thị giảm 0,73%, ở khu vực nông thôn giảm 0,55%. Tuy
nhiên, nhìn vào thực tế giải quyết việc làm trong thời gian qua mang tính tự phát:
tự tạo việc làm và đối tượng là lao động phổ thông. Việc làm thực hiện trên thị
trường lao động mới chiếm khoảng 17%. Vì vậy, chất lượng việc làm chưa cao, các
quan hệ trong lao động (cả về kinh tế, xã hội, chính trị) chưa được giải quyết thỏa
đáng và thường người lao động bị thiệt thòi và điều đó càng làm lao động, việc làm
thiếu sự phát triển ổn định, bền vững.
Việc làm ở khu vực chính thức tăng lên không đáng kể, chủ yếu là lao động
thay thế (những người nghỉ hưu, thôi việc, nghỉ việc…).
Mặt khác, việc làm xét về mặt cơ cấu là chưa tương thích với sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và chưa tạo tiền đề cho việc tăng năng suất lao động xã hội. Trên
thực tế lao động, việc làm ở nước ta đang tồn tại 2 xu hướng: thiếu việc làm và
thừa lao động (ở khu vực lao động giản đơn – lao động phổ thông) và thiếu lao
động và thừa việc làm (ở khu vực đòi hỏi lao động có tay nghề, có trình độ chuyên
môn cao). Sự thừa, thiếu đó diễn ra ở các ngành, các khu vực mà rất khó điều phối
trong điều kiện lao động hiện nay ở nước ta và làm cho mâu thuẫn lao động và việc
làm sẽ càng căng thẳng trong bối cảnh nền kinh tế tri thức phát triển.
4. Những vấn đề đặt ra về lao động, việc làm và hướng giải quyết
Sự mất cân đối giữa cung và cầu về lao động trên các mặt sau đây:
- Về chất lượng đội ngũ lao động: Do yêu cầu của tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi lao động chất lượng cao ngày
càng lớn. Nhưng trên thực tế đội ngũ lao động của chúng ta đang hụt hẫng trước
yêu cầu đó. Chúng ta vừa thiếu cả thầy và thiếu cả thợ, khác một số ý kiến cho rằng

Việt Nam “thừa thầy thiếu thợ”. Chúng ta “thiếu thầy” tức là thiếu đội ngũ cán bộ
quản lý và các chuyên gia giỏi để vận hành nền kinh tế có hiệu quả; “thiếu thợ” là
thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, có tính chuyên nghiệp cao. Vì vậy, vấn đề nâng
cao chất lượng đội ngũ lao động trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược giải
quyết việc làm ở nước ta. Nó vừa là điều kiện là tiền đề để giảm thất nghiệp và cải
thiện đời sống cho người lao động.
- Về cơ cấu lao động: Cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm đang có sự mất
cân đối lớn xét theo ngành, vùng kinh tế. Điều đó nó được thể hiện sự phân bổ lao
động bất hợp lý giữa các ngành, vùng kinh tế, đẩy đến tình trạng một số ngành và
SVTH: Trang
22
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
vùng kinh tế có lao động dôi dư, tỷ lệ lao động thất nghiệp cao. Hiện tượng lao
động ở các khu vực nông thôn ra tìm việc làm ở thành thị đã minh chứng cho điều
đó. Ngược lại một số ngành (ngành có kỹ thuật cao) thiếu lao động buộc chúng ta
thuê lao động nước ngoài. Để sử dụng lao động có hiệu quả thì việc chuyển dịch cơ
cấu lao động là yêu cầu quan trọng trong chính sách lao động – việc làm hiện nay.
- Về cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực: Cơ cấu đào tạo ảnh hưởng trực tiếp cơ
cấu lao động theo trình độ, nghề nghiệp chuyên môn. Thực tế trong thời gian qua
chúng ta thường chú ý đến đào tạo những ngành nghề có chi phí đào tạo thấp (ít thí
nghiệm, ít thực hành…) như các ngành kinh tế, luật (chiếm 43% số sinh viên đào
tạo), còn các ngành khoa học kỹ thuật chỉ chiếm 25,5%. Điều này chưa tương thích
với yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Tình trạng đó làm cho tỷ lệ thất nghiệp của lao
động ở bậc đại học xấp xỉ tới 4%, nhiều cử nhân kinh tế, luật phải làm việc không
theo đúng ngành nghề được đào tạo….
Thị trường lao động ở nước ta chưa phát triển (đặc biệt là khu vực nông
thôn); cung cầu về lao động chưa được giải quyết qua thị trường. Điều đó cũng là
ách tắc cho việc giải quyết mối quan hệ giữa lao động và việc làm bởi nguồn nhân
lực và khả năng tiếp cận nguồn nhân lực không có môi trường để thực hiện. Vì vậy,
phát triển thị trường lao động để lực lượng lao động được xã hội hóa đặc biệt là lao

động có trình độ cao, để đảm bảo sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả và giải quyết
được những mâu thuẫn giữa lao động và việc làm.
Giải quyết việc làm: Giải quyết việc làm ở nước ta trong những năm qua
theo hướng tập trung giải quyết việc làm cho lực lượng lao động chưa qua đào tạo,
vì vậy tập trung phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động (giày da, dệt may, chế
biến thủy sản….). Theo chúng tôi, đây không phải là những ngành có lợi thế trong
cạnh tranh, cũng không phải là những ngành nền tảng hoặc ngành tiềm năng của
nền kinh tế Việt Nam. Bởi ngành dệt may, giày da ở nước ta hiện nay 80% nguyên
liệu để sản xuất là nhập ngoại. Vì vậy, nếu chiến lược phát triển lao động, việc làm
vẫn theo đuổi hướng đó sẽ làm cho nền kinh tế Việt Nam trì trệ, tụt hậu hơn. Do
đó, hướng giải quyết việc làm trong giai đoạn tiếp theo cần thu hút lực lượng lao
động vào các ngành có lợi thế cạnh tranh (những ngành đưa lại hiệu quả kinh tế
cao) những ngành nền tảng và những ngành tiềm năng của nền kinh tế. Phát triển
một số ngành khác sử dụng nhiều lao động phổ thông nên gắn với những ngành sử
dụng nguyên liệu sản xuất ra từ trong nước (các ngành công nghiệp chế biến thủy
sản, hàng nông sản phẩm….). Điều đó, một mặt nó sẽ giải quyết lao động tại chỗ,
mặt khác thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển bền vững và đưa lại lợi ích cho
quốc gia nhiều hơn.
Lao động dôi ra từ việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong
thời gian qua cũng là một trong những nhân tố tác động lớn đến lao động – việc
làm của nền kinh tế. Hiện nay có khoảng hơn 10 vạn lao động dôi dư khi thực hiện
việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, nhìn chung lực lượng lao động
này khả năng phát triển rất hạn chế, tuy nhiên họ vẫn nằm trong lực lượng lao động
của quốc gia. Hướng giải quyết lực lượng lao động đó là việc khuyến khích phát
triển nhiều thành phần kinh tế để họ có thể tự nguyện tham gia lao động phù hợp
với khả năng của họ (tức là hướng giải quyết chủ yếu để họ tự tìm và tạo việc làm).
SVTH: Trang
23
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Từ bức tranh lao động – việc làm ở nước ta hướng giải quyết cơ bản cần tập

trung vào những vấn đề sau:
- Đào tạo nguồn nhân lực: Đây là bước đi căn bản đầu tiên, đặt nền tảng cho
việc giải quyết việc làm ổn định, bền vững. Đặc biệt chú ý đến chất lượng đào tạo,
cơ cấu đào tạo và gắn nó với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác đào tạo
phải hướng tới mục tiêu chuyển thế hệ lao động nông nghiệp sang lao động công
nghiệp (lao động có kỹ thuật, kỷ luật). Để thực hiện được mục tiêu đó là một quá
trình lâu dài và có lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn nhất định, không thể nóng
vội, đốt cháy giai đoạn.
- Đầu tư có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội để đa
dạng hóa mô hình tạo việc làm, chú ý tạo việc làm tại chỗ trên cơ sở chuyển dịch
cơ cấu kinh tế để đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, ổn định trật tự an toàn xã
hội. Mặt khác, phải phát triển các ngành khoa học kỹ thuật cao để thu hút lao động
có chất lượng để tăng thu nhập và khuyến khích người lao động có ý thức nâng cao
trình độ. Đây là một trong những yếu tố tạo sự ổn định và phát triển bền vững đối
với lao động và việc làm.
- Phát triển thị trường lao động: phát triển thị trường lao động để lao động
được xã hội hóa, người lao động được quyền tham gia trao đổi sức lao động trên thị
trường theo quan hệ kinh tế thị trường. Điều đó vừa đảm bảo lợi ích cho người lao
động, vừa tạo động lực thúc đẩy chất lượng đội ngũ lao động. Trong những năm tới
hướng giải quyết khá tích cực đối với lao động, việc làm ở nước ta mở rộng và
nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động.
Lao động – việc làm là vấn đề có tính xã hội cao, đòi hỏi sự kết hợp nỗ lực
giữa nhà nước, cộng đồng xã hội, gia đình và cá nhân người lao động khi giải quyết
tháo gỡ các khó khăn.
II. TÌNH HÌNH THU THÚT VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA FDI Ở VIỆT NAM
1. Hoạt động thu hút FDI
Sau đại hội VI đất nước tiến hành mở cửa đổi mới. Từ đó năm 1987 những
dự án đầu tư FDI đầu tiên đã vào Việt Nam. Trải qua 20 năm FDI không ngừng
biến động qua từng thời kì, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại WTO, FDI đã không ngừng tăng trưởng một cách mạnh mẽ và đỉnh điểm năm

2008 FDI đạt tới 64 tỷ USD. Sau đây chúng ta cùng điểm qua tình FDI vào Việt
Nam trong 20 năm qua.
Giai đoạn từ (1988- 1990): Đây là giai đoạn đầu tiên nên FDI vào Việt Nam
rất khiêm tốn, tổng 3 năm chỉ đạt 1,79 tỷ USD và chưa có tác động rõ rệt đến nền
kinh tế- xã hội Việt Nam.
Giai đoạn (1991- 1996): Đây là giai đoạn FDI tăng trưởng nhanh và góp
phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Giai đoạn này đã thu hút
25,179 tỷ USD vốn đăng ký, tốc độ tăng trưởng hàng năm cao. Vốn đăng ký năm
1991 là 1,322 tỷ USD thì năm 1996 là 8,497 tỷ USD, bằng 6,43 lần.
Giai đoạn (1997- 2003): Đây là thời kỳ suy thoái của FDI. Do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ
năm 1997 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo. Năm 1996 vốn đăng ký là 8,498 tỷ
SVTH: Trang
24
TIỀU LUẬN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
USD, thì năm 1997 chỉ bằng 50%, còn 4,649 tỷ USD. Tồi tệ hơn là năm 1999 chỉ
còn 1,568 tỷ USD và tiếp tục ngưng trệ cho đến năm 2003.
Giai đoạn (2004- 2006):Đây là giai đoạn FDI phục hồi và phát triển. Năm
sau tăng gấp đôi so với năm trước. Năm 2004 chỉ mới đạt 2,084 tỷ USD thì năm
2006 lên tới 10,200 tỷ USD tăng 400% so với 2004.
Giai đoạn (2007-2008): Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại
WTO các chính sách ngoại thương cởi mở hơn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư, nhờ đó đã tạo ra một hiệu ứng rất tốt trong việc thu hút FDI, nó được
phản ánh qua năm 2007, 2008. Năm 2007 Việt Nam đã thu hút 1544 dự án và 21,3
tỷ USD, tăng gần 2 lần năm 2006, đó mới chỉ là kết quả của 1 năm gia nhập WTO.
Chưa dừng lại ở đó qua năm 2008 Việt Nam đã thu hút một con số cực kỳ ấn tượng
với 64 tỷ USD gấp gần 3 lần so với năm 2007. Qua đó lọt vào top 10 nền kinh tế
hấp dẩn vốn đầu tư FDI nhất.
2. Cơ cấu vốn trong thu hút FDI
Xét theo ngành nghề : Lĩnh vực công nghiệp có sức hút mạnh nhất, chiếm

63% tổng vốn đầu tư. Tỷ trọng vốn FDI trong du lịch còn thấp (31%) và trong nông
nghiệp rất nhỏ(6%).
Xét theo địa phương, Vùng Đông Nam Bộ vẫn là cực hút FDI mạnh nhất,
chiếm trên 50% vốn đăng ký và gần 50% vốn thực hiện của cả nước. Riêng vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung còn phát triển chậm, chỉ chiếm 16% vốn đăng ký và
21,3% vốn thực hiện.
Xét trên góc độ nguồn vốn đầu tư: vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu từ các
nước châu Á, tỷ lệ dòng vốn từ Mỹ và châu Âu thấp và tăng chậm.
Xét trên góc độ các hình thức đầu tư, hình thức đầu tư chủ đạo của dòng vốn
FDI vào Việt Nam là 100% vốn nước ngoài. Hình thức mua lại và sáp nhập (M&A)
hầu như vẫn chưa được thực hiện.
3. Thành tựu khu vực FDI năm 2010
Số liệu thống kê của 2/3 chặng đường năm 2010 cho thấy, vốn FDI thực
hiện 8 tháng đầu năm 2010 ước đạt 7,25 tỷ USD, tăng 3,6% so với cùng kỳ. Đây là
một tín hiệu tốt, phản ánh sự quan tâm đến thị trường Việt Nam ngay trong giai
đoạn kinh tế thế giới phục hồi chậm.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI gia tăng mạnh mẽ trong 8
tháng đầu năm. Xuất khẩu của khu vực FDI kể cả dầu thô ước đạt 23,94 tỷ USD,
tăng 26,6% so với cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu khác của khu vực FDI (không
kể dầu thô) ước đạt 20,65 tỷ USD, tăng 39,9% so với cùng kỳ. Trong 8 tháng đầu
năm, khu vực FDI xuất siêu 1,59 tỷ USD, trong khi cả nước nhập siêu 8,16 tỷ USD.
Nếu không tính xuất khẩu dầu thô, khu vực FDI nhập siêu 1,7 tỷ USD, chiếm
19,7% giá trị nhập siêu cả nước. Đây là mức nhập siêu không lớn so với quy mô
xuất khẩu của cả nền kinh tế.
Các doanh nghiệp FDI vẫn thu hút nhiều lực lượng lao động, với quy mô
khoảng hơn 300 lao động/doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tìm kiếm lao động có tay
nghề của các doanh nghiệp FDI vẫn gặp khó khăn nhất định, thậm chí việc huy
SVTH: Trang
25

×