Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.33 KB, 28 trang )

Lời mở đầu
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây luôn ở mức cao so với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Đạt được thành tựu đó là nhờ những chính
sách, đường lối kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Trong đó, chính sách thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã thực sự đem lại hiệu quả cao.
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có sự tăng trưởng
đáng kể, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của nước ta trong những
năm qua. FDI không ngừng tăng lên với sự đa dạng về nhà đầu tư cũng như số
lượng đầu tư vào Việt Nam. Tuy trong những năm gần đây, nước ta đã có một cơ
cấu vốn FDI tương đối lớn so với nhiều nước trên thế giới, nhưng tốc độ tăng
nguồn vốn FDI của nước ta vẫn còn thấp, nhất là khối lượng vốn đầu tư chưa thật
sự cao. Khả năng thu hút vốn đầu tư của nước ta so với các nước trên thế giới vẫn
còn thấp, đặc biệt là so với các nước châu Á, Đông Nam Á.
Xuất phát từ thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam, có thể
thấy rằng việc tăng khả năng thu hút đầu tư nói chung và thu hút vốn FDI nói riêng
cần được Nhà nước chú trọng, phát triển. Cùng với đó, Chính phủ cũng cần xây
dựng một chiến lược sử dụng vốn FDI một cách hợp lí, đúng đắn với sự phát triển
và cơ cấu của nền kinh tế quốc dân.
1
I. TỔNG QUAN VỀ FDI
1. Quan niệm về FDI
Ưu điểm của FDI so với các nguồn vốn khác
 FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư về chính
trị, kinh tế như hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước
ngoài như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài… Do vậy, FDI là
hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước
tiếp nhận đầu tư.
 Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp.
Kinh nghiệm rút ra từ khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực 1997 đã cho thấy,
những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường là những nước nhận


nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nên FDI mang tính ổn định hơn so với
những khoản đầu tư khác.
2. Tác động của FDI đối với Việt Nam
a. Mặt tích cực
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.
 Về mặt kinh tế
• ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ
trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ
này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng
16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16% (Theo Niên
giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 2003 là 16%,
2
năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt
trên 16%).
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm
1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm
7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18%; (ii) 5 năm 1996-2000: tăng
6,94%; (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5%; (iv) Năm 2006 đạt
8,17% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48%, 2008 đạt 6,23%; 2009 đạt 5,3%.
• ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng
cao năng lực sản xuất công nghiệp
Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước
trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành
công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã
hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng điểm

làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh tiến độ,
nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất
khẩu...
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn
mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng của khu vực
kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm
1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm
qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ
trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và 2005. Đặc
biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ này đạt đến
65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
3
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của
nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy,
thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da
giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công
nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng
điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi,
25% hàng may mặc.
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem
lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.
• ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam,
phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò
và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất
là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất
linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công

nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm
lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
• Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng
các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác
động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa
doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng
lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có
thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang
4
giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN
cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng
trong bối cảnh toàn cầu hóa.
• ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức
đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời
kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách
đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách
trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm.
Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt
trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối
ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc
chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc
tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...
• ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế
quốc tế
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn

mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN
đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23%
kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả
dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các
năm 2005, 2006 và 2007.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu
khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng
5
may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều
sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao
cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng
nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ.
Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội
nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
 Về mặt xã hội:
• ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao
động, cải thiện nguồn nhân lực
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao
động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB
cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong
khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống
một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm.
Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ
thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật,
công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học
hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc

đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức
quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên
thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc
tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài
trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình
công nghệ hiện đại.
6
• ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối
với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa
phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt
Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng
đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo
hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước
ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện.
b. Mặt hạn chế:
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN
tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau:
• Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực,
ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn
những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi
nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư
thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó
các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng
bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi,

vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế,
mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng
không được các nhà đầu tư quan tâm.
7
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát
triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá
tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ
kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ
đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực
có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.
• Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được
giải quyết kịp thời
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh
nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất
kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn
cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động.
Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến
tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp.
ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và
vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở
Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ
giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN.
• Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường
cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật
Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã
nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là
những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là

giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế
8
giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong
các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện
thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ
chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp
nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị
thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những
ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức
mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao
công nghệ.
II. THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI Ở VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ 1988-2009
Tính đến cuối năm 2009, cả nước có hơn 10.960 dự án ĐTNN được cấp
phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 177,1 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm).
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký
cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế - xã hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn
đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình KT-XH đất
nước.
Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ bùng nổ ĐTNN tại Việt Nam với
1.781 dự án được cấp phép có tổng số vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng
vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư – kinh doanh tại Việt
Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư kinh doanh thấp so với một số
nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động nhân công giá rẻ, thị trường mới, vì
vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn
9
đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ

USD vốn đăng k, tăng 45% so với năm trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký
hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ
bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án
có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp
phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư
gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông).
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với
năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm,
chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm
2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với
năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ
lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi
so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.
Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức
năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các
dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN
vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy
mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm
công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch
– dịch vụ cao cấp,...).
Bước vào năm 2008, những diễn biến không thuận của tình hình kinh tế thế
giới và những khó khăn trong nội tại nền kinh tế đã có những tác động tiêu cực đến
khả năng phát triển của đất nước. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn thu hút được
lượng lớn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tổng số dự án FDI được
10
cấp mới vào Việt Nam cả năm 2008 là 1.171 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt
60,217 tỷ USD, tăng 222% so với năm 2007.
Trong năm 2009 cả nước có 839 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn

đăng ký 16,34 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 24,6 % so với năm 2008 nhưng đây là cũng là
con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Theo các báo cáo nhận được, trong 3 tháng đầu năm 2010 cả nước có 139
dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư
cấp mới chỉ bằng 59,5 % so với cùng kỳ 2010 nhưng 1,9 tỷ USD đăng ký mới
cũng là con số khá cao trong bối cảnh kinh tế hiện nay. 25 quốc gia và vùng lãnh
thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam trong 3 tháng đầu 2010, các nhà đầu tư lớn nhất
lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 979,8 triệu USD chiếm 45,8% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam, Hàn Quốc đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 584,8 triệu USD
chiếm 27,3%, đứng thứ 3 là Singapore với tổng vốn đăng ký 146,7 triệu USD
chiếm 6,9% .
2. Tình hình tăng vốn đầu tư
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt
động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư,
nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án
tăng vốn đầu tư, đến hết năm 2009, tổng vốn tăng thêm gần 27,8 tỷ USD.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng
doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5
năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước
(4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt
18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn
đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến
2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.
11

×