Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

thực trạng lạm phát tại việt nam năm 2008, những giải pháp đã thực hiện và bài học kinh nghiệm rút ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.16 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Có thể khẳng định rằng: Ổn định tài chính và tiền tệ là điều kiện cơ
bản để phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với một quốc gia
đang phát triển như Việt Nam.
Nền kinh tế nước ta đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế mới là môi trường thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế theo xu hướng hiện đại, chắt lọc kế thừa những
thành tựu và khắc phục những tồn tại đã qua. Trong đó lạm phát là một vấn
đề hết sức nghiêm trọng đối với các hoạt động kinh tế-chính trị-xã hội khơng
chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm. Lạm phát là
một trong những chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc
gia nhưng cũng là một trở ngại lớn nhất trong công cuộc phát triển đất nước.
Bước sang nền kinh tế thị trường, chúng ta phải đối đầu với con số lạm phát
không nhỏ do cơ chế cũ để lại. Lạm phát không chỉ gây ra rối loạn kinh tế,
ngừng trệ sản xuất, và bóp méo hoạt động phân bổ nguồn lực xã hội, mà còn
ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của mọi tầng lớp nhân dân, ảnh hưởng trực
tiếp tới cuộc sống của người nghèo và người có thu nhập thấp trong xã hội,
do thu nhập không thay đổi kịp với tốc độ thay đổi giá. Lạm phát giá lương
thực có thể xóa tan thành quả cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo trong nhiều
năm qua của các nước đang phát triển trên thế giới.
Lạm phát là một vấn đề phức tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh
tế vĩ mơ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu nguyên nhân và tìm kiếm các biện
pháp đối phó với lạm phát ln thu hút các nhà kinh tế thế giới và là công
việc thường niên của chính phủ các nước. Trong bối cảnh lạm phát tăng cao,


việc nghiên cứu tìm nguyên nhân và biện pháp để giải quyết lạm phát ở Việt
Nam là một việc hết sức cấp thiết. Việc nghiên cứu định lượng để nhận định
tình hình, tìm ra nguyên nhân và lời giải cho bài toán lạm phát ở Việt Nam
sẽ giúp chúng ta nhanh chóng ổn định kinh tế vĩ mơ, đưa nền kinh tế quay


trở lại guồng tăng trưởng.
Nhận thức được sự cần thiết và quan trọng trong việc nghiên cứu và
tìm hiểu về vấn đề Lạm phát tại Viêt Nam trong năm vừa qua, nhóm sinh
viên chúng em quyết định làm Tiểu Luận với đề tài: “ Thực trạng lạm phát
tại Việt Nam năm 2008, những giải pháp đã thực hiện và bài học kinh
nghiệm rút ra”.


I. LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm lạm phát
- Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất
hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hố khơng được tôn
trọng, nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu cịn sản xuất hàng hố, cịn
tồn tại những quan hệ hàng hố tiền tệ thì ở đó cịn tiềm ẩn khả năng xảy ra
lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị
vi phạm.
- Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh
nghĩa/GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng
hoặc chỉ số giá bán buôn Ip = Σip . d
d: chỉ số giá cả từng loại nhómhàng
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng.
2. Phân loại lạm phát
- Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm
phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương
đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của
người lao động ổn định.
- Lạm phát 2 con số : Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh
với tỷ lệ 2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số, lạm phát làm cho giá cả chung
tăng lên nhah chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số
hố. Lúc này người dâ tích trữ hàng hố, vàng bạc, bất động sản và khơng

bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên
vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
- Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao
vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông
tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền lương thực


tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thơng tin
khơng cịn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất
kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít khi xảy
ra.
Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát
triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và
trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại:
Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50%
một năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm
phát trên 50%; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên
200% một năm.
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát
a) Lạm phát theo thuyết tiền tệ:
Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá… có nhiều nguyên nhân
dẫn đến lạm phát. Lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có
thể giải thích theo 3 cách.
- Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa
mức cung tiền.
- Theo học thuyết Keynes, lạm phát xảy ra do thừa cầu về hàng hoá và
dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo).
- Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản
xuất (chi phí đẩy).
Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi

nguyên nhân có vai trị khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau.
b) Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo)
Tăng cung tiền là nguyên nhân duy nhất dẫn đến việc tăng cầu về
hàng hoá và dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí cơng cộng và tăng dân số là


những nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1
đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn
không được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với cơng suất tiến tới giới
hạn hoặc vì nhân tố sản xuất khơng đáp ứng được sự gia tăng của cầu. Sự
mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cầu tăng lên hay lạm
phát do cầu kéo được ra đời từ đó.
c) Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy :
Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm
thất nghiệp nên cịn gọi là lạm phát "đình trệ". Hình thức của lạm phát này
phát sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang
người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh
tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn.
d) Lạm phát dự kiến
Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vừa
phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp
này tăng đều một cách ổn định. Mọi người có thể dự kiến được trước nên
còn gọi là lạm phát dự kiến.
Trong lạm phát dự kiến AS & AD dịch chuyển lên trên cùng, độ sản
lượng vẫn giữ nguyên, giá cả tăng lên theo dự kiến.
e) Các nguyên nhân khác
Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh
nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền
càng thiệt.
Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có

thể in thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên
nhân gây ra lạm phát.


Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của Nhà nước, chính sách
thuế, chính sách cơ cấu kinh tế khơng hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm
tăng chi phí đầu vào, nguyên nhân do nước ngoài.
4. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế
Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng
khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền
kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể
nhìn thấy tác động của nó.
* Đối với lĩnh vực sản xuất
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra
biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự
mất giá của đồng tiền làm vơ hiệu hố hoạt động hạch tốn kinh doanh. Hiệu
quả kinh doanh - sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra
những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi
nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
* Đối với lĩnh vực lưu thơng
Lạm phát thúc đẩy q trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng
hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu
thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đốn thì việc đầu tư vốn vào
lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào
lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay
những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu
thơng, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát
gia tăng.
* Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu

hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống


ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu
cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều
chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt
nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ
sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống
ngân hàng khơng cịn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn
chế, các chức năng của tiền tệ khơng cịn ngun vẹn bởi khi có lạm phát thì
chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
* Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hố.
Khi lạm phát xảy ra những thơng tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động
của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những
doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu
vốn, do đó nhà nước khơng cịn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành
cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm… các ngành, các lĩnh vực dự định được
Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc khơng có gì. Một khi
ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời
sống kinh tế xã hội sẽ khơng có điều kiện thực hiện được.
II. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM 2008
1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam năm 2008
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia
(tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh tốn có số
dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con
số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều
này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy



vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống
của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang.
a) Tình hình hiện tại: lạm phát cao, tăng trưởng thấp
Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở
mức rất cao (trên 20%).
Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc
độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục
tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước
là 8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên,
tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007.
Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008
tình đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3
tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng
gần ba phần tư mức cả năm 2007, đã vượt qua mức theo mục tiêu đã đề ra
cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu
USD so với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5%
so với 18,2%)...
Theo Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tháng 5 tăng đến 3,91% so với
tháng trước, cao nhất so với các tháng từ đầu năm đến nay (tháng 1 tăng
2,38%, tháng 2 tăng 3,56%, tháng 3 tăng 2,99%, tháng 4 tăng 2,20%), đưa
tốc độ tăng giá sau 5 tháng (tháng 5.2008 so với tháng 12.2007) lên đến
15,96%.


Mức lạm phát này cao hơn mức lạm phát của cả năm 2007 (12,63%)
và cao hơn mức cả năm của 15 năm qua (tính từ năm 1993).
Cũng theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
12/2008 giảm 0,68% so với tháng trước, nhưng so với tháng 12/2007 tăng
19,89% và chỉ số giá bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 22,97%;
đặc biệt, so với kỳ gốc năm 2005 đã tăng 46,07%.

Nhìn chung, trong năm 2008 có 4 nhóm hàng có chỉ số giá bình qn
tăng cao so với năm trước là: hàng ăn - dịch vụ ăn uống tăng 36,57% (riêng
lương thực tăng 49,16%, thực phẩm tăng 32,36%); nhà ở - vật liệu xây dựng
tăng 20,51%; phương tiện đi lại - bưu điện tăng 16% và đồ dùng - dịch vụ
khác tăng 13,17%. Ngoài ra, chỉ số giá bình quân của vàng trong năm 2008
đã tăng 31,93%, trong khi chỉ số giá USD chỉ tăng bình quân 2,35% so với
năm 2007.


Biểu đồ diễn biến tình hình lạm phát từ năm 2000 đến nay - Nguồn: GSO,
BVSC.
Chuyên gia IMF cho rằng, với chính sách hiện nay, Việt Nam đang
nhập khẩu lạm phát từ bên ngồi. Việt Nam cần có một cách tiếp cận mới,
linh hoạt hơn, thích ứng với biến động thị trường để cuối 2008 lạm phát có
thể trở về một con số. Cách đây vài năm, năm 2004, Việt Nam cũng đặt
trong chỉ số lạm phát của Việt Nam ở mức 9,4%. Tuy nhiên, so với thời
điểm đó, tình hình lạm phát năm nay có nhiều điểm khác.
Một là, đồng USD bị mất giá trên tồn cầu, địi hỏi có những tính
tốn, cân nhắc về việc có nên tiếp tục cố định tỷ giá tiền đồng so với tiền
USD không.


Hai là dịng vốn từ nước ngồi đổ vào Việt Nam nhiều hơn rất nhiều
so với trước. Ngân hàng Nhà nước giữ vai trị điều tiết buộc phải đóng vai
trị người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông. Tốc
độ tăng cung tiền của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu
vực, đặc biệt mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của
Việt Nam giãn rộng trong 3 năm qua. Mức tăng cung tiền của Việt Nam lớn
hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực. Đối với một nước dân số
đông và tăng nhanh như Việt Nam, số người nghèo có thể tăng lên cùng với

lạm phát. Ứng phó trước tình trạng này, chỉ một bộ phận người Việt có thể
đầu tư vào lĩnh vực tài chính, bảo vệ chính mình. Người nghèo khơng có
được cơng cụ bảo vệ đó. Họ phụ thuộc vào thu nhập hằng ngày. Họ có thể bị
đói trong "cuộc đua" mua hàng hóa trong cơn lạm phát.
Có thể nói Việt Nam đang “nhập khẩu” lạm phát. Nhìn ra khu vực,
cùng chịu tác động của cú sốc cung, của tăng giá hàng hóa nhưng tình trạng
lạm phát của các nước rất thấp, ngay cả Trung Quốc có tốc độ phát triển
kinh tế nhanh hơn nhiều so với Việt Nam. Chuyên gia IMF cho rằng, một
trong những lí do tại sao lạm phát ở Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan thấp
hơn Việt Nam nằm ở chính sách tỷ giá hối đối. Việt Nam ràng buộc tỷ giá
vào một điểm so với đồng USD trong khi đồng tiền này biến động trên thị
trường tiền tệ toàn cầu. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam đã nhập
khẩu một phần ảnh hưởng lạm phát của đồng USD mất giá.
Trong khi đó, các nước khác trong khu vực đã cho phép tỷ giá biến
động phù hợp với những biến động của đồng USD trên thị trường. Đồng
USD đã giảm giá 9% so với euro, 7% so với đồng yên. Điều này đồng nghĩa
với giá hàng hóa trên thế giới tính theo tiền USD tăng rất nhanh. Phản ứng


của các nước này giúp cho giá hàng hóa khơng bị tăng theo sự mất giá của
đồng USD, xóa đi một số tác động xấu đối với nền kinh tế.

Hình 4. Lạm phát ở Việt Nam, Philippines, Trung
Quốc, Thái Lan và Malaysia

b) Merrill Lynch phân tích thực trạng lạm phát ở Việt Nam
Ngân hàng đầu tư Merrill Lynch của Mỹ vừa cơng bố một báo cáo về
tình hình kinh tế châu Á, trong đó lấy Việt Nam làm tâm điểm để phân tích
tình trạng lạm phát leo thang trong khu vực.
Trong bản báo cáo tựa đề “Vietnam: Anatomy of an inflation shock”

(Việt Nam: Giải phẫu cú sốc lạm phát) này, các chuyên gia Merrill Lynch
cho rằng, cuộc chiến chống lạm phát của Việt Nam có hàm chứa nhiều bài
học quan trọng cho khu vực.


Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn tượng bởi tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao liên tục. Mặc dù vậy, Việt Nam đang chịu tác động từ
chính thành cơng q lớn và q nhanh chóng của chính mình.
“Cú sốc” lạm phát
Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay được coi là một ví dụ về “cú
sốc” lạm phát. Một số ví dụ khác bao gồm Trung Quốc hồi mùa xuân năm
2004 và mùa thu năm 2007, Ấn Độ đầu 2008, Indonesia mùa hè 2005…
Báo cáo cho rằng, kinh tế Việt Nam có nhiều điểm giống như kinh tế
Trung Quốc, chẳng hạn cả hai nước đều mới gia nhập WTO, tốc độ tăng
trưởng cao nhờ xuất khẩu và đầu tư… Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất là
cuộc chiến chống lạm phát ở Việt Nam căng thẳng hơn nhiều. Vấn đề cốt lõi
- theo báo cáo nhận định - là Việt Nam đã tiếp nhận một lượng vốn lớn hơn
rất nhiều so với khả năng hấp thụ của nền kinh tế.
Merrill Lynch cho rằng, trong cuộc chiến chống lạm phát, nhìn chung
Việt Nam có những điểm khác biệt cơ bản sau so với các nước châu Á khác.
Thứ nhất, Việt Nam đang ở tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, trong
khi phần lớn các nền kinh tế đang nổi lên ở châu Á có cán cân vãng lai thặng
dư. Thặng dư này có thể tạo ra một tấm nệm cho sự rút lui của các dòng vốn
ngoại, đồng thời giúp cho việc tăng giá đồng nội tệ để chống lạm phát trở
nên dễ dàng hơn, giảm bớt sự cần thiết phải tăng lãi suất.
Thứ hai, các dòng vốn đổ vào Việt Nam năm ngoái chiếm tỷ trọng khá
lớn so với GDP. Trong khi đó, các dịng vốn đổ vào các nước châu Á khác
chỉ ở mức khiêm tốn. Do đó, ở các nước này, việc điều hành chính sách tiền



tệ ít gặp khó khăn hơn, đồng thời, cũng khơng có những rủi ro lớn trong
trường hợp có sự rút lui đột ngột của các dòng vốn.
Và thứ ba, các nước trong khu vực cịn có những yếu tố khác giúp ổn
định tốt tình hình kinh tế vĩ mơ mà Việt Nam khơng có, như dự trữ ngoại hối
cao, nợ nước ngồi thấp và tình hình ngân sách lành mạnh mạnh hơn.
(Nguồn: TBKT, 29/5)

III. NGUYÊN NHÂN XẢY RA LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM

Những nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam khơng nằm ngồi
khn khổ lý thuyết. Tuy nhiên, nguyên nhân chính gây nên lạm phát cao ở
Việt Nam được nhiều người đánh giá là lạm phát do cung tiền và lạm phát
do chi phí đẩy. Phần này đi phân tích và làm rõ hơn về 2 nguyên nhân này.
1. Lạm phát do chi phí đẩy ở Việt Nam
Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam
trong thời gian qua. Với một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên
đến 90% GDP (2008), sự biến động của giá cả trên thế giới tác động ngay
đến giá cả trong nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết
các mặt hàng trên thế giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương
thực, thực phẩm và các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá
của hầu hết các hàng hóa trong nước góp phần làm cho lạm phát ở Việt Nam
bùng phát.


Tuy nhiên, nguyên nhân do chi phí tăng lên của hầu hết các hàng hóa
trên thế giới khơng thể giải thích hồn tồn cho lạm phát ở Việt Nam. Quan
sát bảng sau chúng ta thấy cùng chịu một sự tăng giá như nhau nhưng hầu
hết các hàng hóa trên thế giới đều không chịu mức lạm phát cao như Việt
Nam. Như vậy ngoài nguyên nhân do sự tăng giá của các hàng hóa (lạm phát
do chi phí đẩy) ngun nhân rất quan trọng gây nên bùng nổ lạm phát ở Việt

Nam chính là lạm phát do nguyên nhân cung tiền.


(Chịu sự tăng giá của hàng hóa trên thế giới như nhau nhưng lạm
phát ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khác)
Giá cả các loại hàng hóa trên thế giới đã tăng nhanh, tỷ lệ nghịch với
sự mất giá danh nghĩa của đồng USD đẩy mặt bằng giá nguyên nhiên vật
liệu đầu vào, đặc biệt là dầu thô, lên cao gấp 2 đến 3 lần so với năm 2003.
Giá dầu lửa đã tăng từ 53,4 USD/thùng tháng 1-2007 lên 89,4 USD/thùng
tháng 12-2007, và đạt đỉnh mới 125,96 USD/thùng vào ngày 9-5-2008. Tốc
độ tăng giá năng lượng, đặc biệt là giá lương thực trong nửa cuối năm 2007
và đầu năm 2008 là nguyên nhân dẫn tới tình trạng lạm phát trên diện rộng ở
tất cả các nước trên thế giới. Đến cuối năm 2007, lạm phát so với cùng kỳ
năm trước của Việt Nam là 12,63% và đến tháng 4-2008, tỷ lệ này đã là
21,42%. Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy lạm phát ở Việt Nam cao hơn
nhiều so với các quốc gia khác.
2. Lạm phát do cung tiền ở Việt Nam


Trên đây chúng ta xét đến yếu tố chi phí đẩy dù yếu tố này khơng giải
thích được hồn tồn nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam. Trong thời
gian qua, cung tiền được mọi người xem là nguyên nhân căn bản gây nên
lạm phát ở Việt Nam, sau đây chúng ta xem xét yếu tố này.
Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được
cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư nước
ngoài đổ vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư trực
tiếp (FDI) giải ngân lên tới 8 tỷ USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ USD, chiếm
gần 1/3 lượng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI)
cũng tăng lên nhanh chóng, trong năm 2007 ước tính có trên 7 tỷ USD từ
dịng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Vốn viện trợ phát triển (ODA) hàng

năm Việt Nam nhận được khoảng 2 tỷ USD (năm 2007 là 2 tỷ USD, 2008
2.2 tỷ USD). Kiều hối chuyển về Việt Nam hàng năm từ 5-7 tỷ USD. Mặc
dù, Việt Nam luôn bị thâm hụt thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít
hơn các dịng tiền chuyển vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai
vẫn thặng dư. Dự trữ ngoại tệ của ngân hàng thương mại liên tục tăng cao
(năm 2006 tăng 4.6 tỷ USD, năm 2007 tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ
USD). Dự trữ ngoại tệ của NHNN tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương
ứng VND được bơm vào nền kinh tế, mặt khác NHNN không thực hiện biện
pháp Vô hiệu hóa lượng tiền bơm vào nền kinh tế do vậy tiền trong nền
kinh tế tăng lên.
Ngoài ra, năm 2006 và 2007 đánh dấu năm phát triển mạnh mẽ của hệ
thống ngân hàng, tăng trưởng tín dụng năm 2006 đạt 50.18%, năm 2007 đạt
49.1%. Như vậy tăng trưởng tín dụng cao và dòng tiền mua ngoại tệ của
NHNN đã làm cho cung tiền tăng mạnh dẫn đến lạm phát.


3. Những nguyên nhân khác:
Về mặt lý thuyết có rất nhiều yếu tố gây nên lạm phát, tùy từng giai
đoạn mà một nguyên nhân nào đó có thể đóng vai trị chính. Nhiều khi các
ngun nhân có thể đan xen lẫn nhau rất khó tách các yếu một cách rạch rịi.
Theo quan điểm của chúng tơi một số ngun nhân sâu xa gây nên lạm phát
ở Việt Nam đó là sự thiếu hiệu quả trong đầu tư, và tình trạng thâm hụt ngân
sách cao thường xun.
Chính sách tài khố và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 20012006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh
tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai
đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với
mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã
thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm
phát bình quân từ 2005 đến 2008 tăng trên 15%. Tín dụng ngân hàng cho

nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng
trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trọng làm gia tăng tổng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc
nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng
lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mơ hình, liên
doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng
mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các
ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận
từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng
tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân
rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.


Do nhu cầu nhập khẩu lớn và ngày càng tăng trong khi giá cả các mặt
hàng hàng ngày tăng nhanh nên nước ta đã nhập khẩu cả tỷ lệ lạm phát của
các nước khác. Tổng kim ngạch nhập khẩu là 88% (tháng 8/08) so với GDP
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ đầu tư/GDP cao nhất
thế giới. Trong những năm gần đây tỷ lệ đầu tư/GDP ln lớn hơn 40%
trong khi đó tốc độ tăng trưởng chỉ đạt ở trung bình chưa đến 8%. ICOR của
Việt Nam lớn hơn 5 lần, cao hơn nhiều so với các nước Đơng Á, và các quốc
gia khác cùng trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay. Trong một nghiên
cứu trước đây của chúng tơi có tựa đề “Các vấn đề tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam” chúng tôi đã nêu ra các nguyên nhân yếu kém trong cơ cấu nền
kinh tế. Chính những yếu kém này là những nguyên nhân sâu xa cho bất ổn
vĩ mô và lạm phát cao.
Tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài trong nhiều năm qua, áp lực in
tiền tài trợ cho thâm hụt ngân sách cũng gây nên áp lực cho lạm phát. Ngồi
ra, việc kiểm sốt giá hàng hóa và neo tỷ giá ngoại tệ một cách khá cứng
nhắc cũng gây ra những xáo trộn kéo dài cho nền kinh tế. Tỷ giá hay giá
hàng hóa khơng phản ánh giá thị trường do kiểm soát hoặc độc quyền đều ẩn

chứa khả năng lạm phát tiềm tàng trong tương lai.
NHỮNG BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LÀM PHÁT NĂM 2008 ĐÃ
ĐƯỢC THỰC HIỆN
Sau khi tiến hành các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, cho đến thời
điểm này các diễn biễn vẫn theo hướng khả quan. Theo con số của Tổng Cục
Thống kê thì chỉ số CPI tháng 6 giảm phân nửa so với mức tăng của tháng 5,


điều này cho thấy 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ đã
phát huy tác dụng.
Thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ, tính trong 6 tháng đầu
năm 2008, riêng khoản tiết kiệm chi thường xuyên (10%) đã tiết kiệm được
khoảng 2.700 tỷ đồng. Những công trình, dự án chưa cần thiết hoặc đầu tư
kém hiệu quả cần phải đình hỗn hoặc giãn tiến độ thi cơng, đã được các
ban, ngành rà sốt, có phương án xử lý hợp lý. Theo đó, 1.736 cơng trình, dự
án, với tổng số vốn là 5.625 tỷ đồng đã được ngừng thực hiện hoặc giãn tiến
độ trong năm 2008.
Việc tăng thuế nhập khẩu một số mặt hàng không thiết yếu, kiểm soát
chặt nguồn ngoại tệ cho hoạt động này đã khiến nhập khẩu có xu hướng
giảm dần. Quý I/2008 nhập siêu bằng 62,7% kim ngạch xuất khẩu, quý
II/2008 đã giảm xuống 39,2%, riêng tháng 6 bằng 23,6%. Ngoài ra việc đẩy
mạnh sản xuất, đảm bảo cân đối cung cầu, điều tiết tốt về giá, đặc biệt ở
những mặt hàng trọng yếu (gạo, xi măng, sắt thép...) đã khiến thị trường ổn
định hơn.
Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định rằng, trong thời gian qua chúng ta
đã ứng phó với các biến động thị trường một cách chủ động, các giải pháp
thắt chặt tiền tệ, giảm nhập siêu, quản lý thị trường đã phát huy tác dụng
mạnh, khiến chỉ số lạm phát chững lại.
Theo ơng Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Nghiên cứu chính sách
kinh tế vĩ mơ (Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương - Bộ Kế hoạch

và Đầu tư) thì đây là những tín hiệu khả quan cho nền kinh tế. Nếu tiếp tục


thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp thì sáu tháng cuối năm, nhất định sẽ
ghìm cương được “con ngựa” lạm phát.
Thắt chặt tiền tệ, tăng cường quản lý giá
Tại một cuộc hội thảo bàn về quản lý thị trường và giá cả nhằm kiềm
chế lạm phát do Bộ Tài chính chủ trì mới đây, các chun gia kinh tế đều
cho rằng, để kiềm chế, kiểm soát lạm phát cần đặc biệt chú ý tới biện pháp
quản lý giá cả, quản lý thị trường. Việc quản lý thị trường, giá cả khơng nên
chỉ bó hẹp trong lĩnh vực hàng hóa dịch vụ, tiêu dùng, mà còn bao gồm cả
thị trường giá cả tín dụng, ngân hàng tài chính, thị trường ngoại hối, thị
trường lao động, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản.
Ơng Nguyễn Đức Thắng, Phó Vụ trưởng Vụ thương mại dịch vụ giá
cả, Tổng cục Thống kê cho rằng, mặc dù tốc độ tăng giá đã chững lại nhưng
giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu còn diễn biến phức tạp. Theo ơng Thắng thì
cần tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, kiểm sốt chặt chẽ hoạt
động thương mại, tăng cường quản lý giá chặt chẽ, khai thông hệ thống phân
phối một cách minh bạch.
Cịn ơng Hồng Thọ Xn – Vụ trưởng Vụ chính sách thị trường
trong nước (Bộ Công Thương) cho biết, Bộ này đang gấp rút soạn thảo trình
Thủ tướng một nghị định về kiểm tra, kiểm soát, xử lý các hành vi như: đầu
cơ găm hàng, tùy tiện nâng giá, tung tin thất thiệt, gian lận, bn lậu...
(nhóm hành vi liên quan đến kiểm sốt giá). Mục đích là để giữ ổn định giá
các mặt hàng thiết yếu, kiềm chế lạm phát những tháng cuối năm.
Trước đó, ngày 9/7 Thủ tướng Chính phủ cũng ra (cơng điện 1063/
CĐ –TTg) u cầu Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố phải tăng cường


quản lý thị trường, trực tiếp chỉ đạo các cơ quan chức năng thường xuyên

kiểm tra, kiểm soát, bán hàng theo đúng giá niêm yết, nhất là các mặt hàng
thiết yếu (như lương thực, xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, thuốc trừ
sâu, giấy, thuốc chữa bệnh) và phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về
tình trạng đầu cơ, găm hàng, buôn lậu, đưa tin thất thiệt.
Thực hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế
vĩ mô những tháng cuối năm 2008, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
đã yêu cầu các bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các đơn vị,
cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động thực hiện quyết liệt, đồng bộ
các nhóm giải pháp, đặc biệt là các giải pháp ổn định tiền tệ, đẩy mạnh phát
triển sản xuất, giảm nhập siêu và bảo đảm an sinh xã hội.
Theo Báo Gia đình & Xã Hội, 18/7/2008, 08:13 (GMT+7)

IV. BÀI HỌC RÚT RA
1. Những bất cập còn tồn tại trong những chính sách kiềm chế lạm phát
đã thực hiện
a) Thắt chặt tiền tệ quá dồn dập
Dồn dập trong tháng 2 và 3/2008, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các
ngân hàng thương mại phải thực hiện cùng một lúc 4 biện pháp được coi là
cứng rắn:
Một là, quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%, mở
rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc. Hai là, ngày 15/2/2008 Ngân
hàng Nhà nước công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt
buộc và không được vay tái cấp vốn.


Ba là, từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà
nước tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên
8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất
chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm.
Bốn là, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 03/2008/QĐNgân hàng Nhà nước, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng

khoán, theo hướng thắt chặt cho vay hơn.
Cùng với 4 quyết định nói trên, Ngân hàng Nhà nước còn hạn chế
mua USD, làm cho tỷ giá xuống thấp, vốn VND khan hiếm. Đây là cách làm
khác hẳn với kinh nghiệm của Trung Quốc.
b) Tác động không mong đợi
Năm biện pháp đó đã gây ra nên cú sốc và phản ứng tiêu cực tức thì
của thị trường tiền tệ và hoạt động của ngân hàng thương mại. Thị trường
tiền tệ nóng lên chưa từng thấy.
Song quan ngại nhất là tác động đến tăng trưởng kinh tế. Hiện nay,
hàng loạt ngân hàng thương mại hạn chế cho vay vốn. Thậm chí do lo vấn
đề thanh khoản, một số ngân hàng thương mại hiện đã hạn chế cho vay và
tập trung thu nợ. Một số ngân hàng thương mại chỉ cho khách hàng truyền
thống, cho dự án tốt vay vốn, cịn khơng cho vay đối với khách hàng mới.
Phần đơng ngân hàng thương mại đã tăng lãi suất cho vay thêm 0,35%
- 0,60%/tháng so với trước. Nhiều ngân hàng thương mại cho vay ngắn hạn
VND với lãi suất 1,55% - 1,65%/tháng, lãi suất cho vay trung dài hạn lên tới
1,70% - 1,75%/tháng, nhưng không phải ai cũng vay được.
Một số ngân hàng thương mại cổ phần khác tăng lãi suất lên rất cao,
ngắn hạn tới 1,95%/tháng, trung và dài hạn tới 2,0% - 2,05%/tháng. Với
mức lãi suất đó chỉ có những khách hàng thực sự quá khó khăn, hoặc đầu tư
mạo hiểm theo kiểu “lướt sóng” mua vàng mới dám vay, bởi vì hiếm có lĩnh


vực sản xuất kinh doanh nào có mức lợi nhuận 24% - 26%/năm để đủ trả lãi
ngân hàng.
Theo thông lệ, tác động của việc thực hiện chính sách tiền tệ có độ trễ
ít nhất là 6 tháng. Do đó tình trạng thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế từ hạn
chế cho vay sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong nửa
cuối năm 2008. Rõ ràng, mục tiêu tăng trưởng GDP là 9% trong năm nay
khó đạt được.

Với những quy định khống chế trần lãi suất tiền gửi của ngân hàng
thương mại là 12%/năm, Ngân hàng Nhà nước cũng cần có biện pháp khống
chế ngay lãi suất cho vay, có lẽ hợp lý hơn cả là không được quá 15%/năm,
nhằm hạn chế những rủi ro với chính các ngân hàng thương mại và với
doanh nghiệp.
c) Coi trọng điều hành tỷ giá
Trong 2 năm gần đây, USD đã mất giá nhiều so với các ngoại tệ mạnh
khác cũng như các đồng tiền trong khu vực, ước tính khoảng 20% - 24%.
Tuy nhiên ở Việt Nam thì lại để cho USD lên giá nhẹ: năm 2005 tăng
0,90%, năm 2006 tăng 0,90%, năm 2007 tăng 0,10%. Thậm chí năm 2007
Ngân hàng Nhà nước đã bơm ra tới gần 150.000 tỷ đồng mua khoảng 9,9 tỷ
USD để thực hiện mục tiêu tăng giá nhẹ 0,50%.
Việc neo giữ tỷ giá quá lâu đã là nguyên nhân quan trọng góp phần
gây nên lạm phát cao hiện nay. Việc này cũng làm cho hàng hoá nhập khẩu
vào Việt Nam tăng giá, thêm phần lạm phát.


d) Bất cập trong công tác dự báo
“Dù loại trừ các yếu tố bên ngồi, khách quan, vẫn có thể nhận thấy
có sự liên hệ trực tiếp giữa việc tăng giá cả xã hội với chính sách điều hành
giá cả thị trường trong nước trong thời gian vừa qua.
Chính phủ đã có nhiều cố gắng và đã đạt được một số kết quả nhất
định về kiềm chế tăng giá trong năm nay nhưng vẫn dễ dàng nhận ra sự bất
cập trong hoạt động của Tổ điều hành giá cả, mà biểu hiện rõ nét và tập
trung nhất là ở quan điểm và cách thức “bắt mạch”, dự báo xu hướng biến
động giá cả cũng như sự sẵn sàng và hiệu quả của đơn thuốc được kê cho
các tình huống giá cả phát sinh.
Ngoài ra, việc nghiêng về phát hành trái phiếu quốc tế để thu hút
ngoại tệ, trong khi lượng trái phiếu đó có thể được phát hành trong nước để
hút ngoại tệ và lượng tiền dư thừa cũng là một bất cập khác...”.

e) Bài học về sự nóng vội và thiếu bài bản
“Tình trạng lạm phát trong năm 2007 cho thấy những bài học đáng
chú ý nhất trong công tác điều hành, quản lý.
Thứ nhất là “Bài học về sự nơn nóng”. Tự do hóa giá cả là một tiến
trình đúng đắn của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ
chế thị trường và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, giá cả chỉ
phát huy được một cách đúng đắn quyền tự do của mình khi thị trường đã
trưởng thành ở một mức độ nhất định. Một số thị trường với điều kiện chưa
có được những trưởng thành và sung sức, việc giá cả đã sớm được tự do
bươn chải, định đoạt số phận của mình lại là những nóng vội, thậm chí mang
tính chất mong muốn chủ quan.
Thứ hai là bài học về tính “bài bản” trong hoạch định chính sách, điều
hành, quản lí. Sự tăng lên nhanh chóng, với mức độ lớn của luồng vốn đầu


×