Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.59 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

----------

BÀI TIỂU LUẬN

Đề tài:

Miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics

TP. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 06 năm 2022



MỤC LỤC
I. Mở đầu – Lý do chọn đề tài........................................................................................1
1. Miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics...........................1
1.1 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng của thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics................................................................................................................... 1
1.1.1 Buộc thực hiện hợp đồng............................................................................2
1.1.2 Phạt vi phạm hợp đồng...............................................................................2
1.1.3 Bồi thường thiệt hại....................................................................................3
1.1.4 Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng...................................................3
1.2 Miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics......................4
1.3 Điều kiện áp dụng chế định miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics......................................................................................................6
1.4 Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics................................................................................................................... 7
1.4.1 Các trường hợp miễn trách nhiệm chung theo quy định tại Điều 294 Luật


thương mại 2005..................................................................................................7
1.4.1.1 Miễn trách nhiệm theo thỏa thuận.........................................................7
1.4.1.2 Miễn trách nhiệm khi xảy ra sự kiện bất khả kháng..............................7
1.4.1.3 Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn là lỗi của bên kia...................8
1.4.1.4 Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời
điểm giao kết hợp đồng....................................................................................9
1.4.2 Trường hợp áp dụng riêng đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics theo quy định tại Điều 237 Luật thương mại 2005.................................9
1.4.2.1 Tổn thất do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng ủy
quyền................................................................................................................9
1.4.2.2 Tổn thất phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm
đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ
quyền................................................................................................................9
1.4.2.3 Tổn thất là do khuyết tật của hàng hoá..................................................9
1.4.2.4 Tổn thất phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm theo quy
định của pháp luật và tập quán vận tải nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics tổ chức vận tải..................................................................................10


1.4.2.5 Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo
về khiếu nại trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics giao hàng cho người nhận.........................................10
1.4.2.6 Sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không
nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Toà án trong thời hạn
chín tháng, kể từ ngày giao hàng....................................................................10
1.4.2.7 Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách
nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng, về sự chậm
trễ hoặc thực hiện dịch vụ logistics sai địa điểm khơng do lỗi của mình........11
1.5 Hậu quả pháp lý do miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đối với thương

nhân kinh doanh dịch vụ logistics.........................................................................11
1.6 Vai trò của chế định miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistic................................................................................................................... 11
2. Giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics..............13
2.1. Khái quát chung.............................................................................................13
2.2. Các trường hợp áp dụng chế định giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics..................................................................................13
2.2.1 Giới hạn trách nhiệm theo quy định của pháp luật có liên quan................15
2.2.2 Mức giới hạn trách nhiệm trong trường hợp pháp luật liên quan khơng có
quy định và các bên khơng có thỏa thuận..........................................................16
2.2.3 Mức giới hạn trách nhiệm trong trường hợp các bên có thỏa thuận.........16
2.2.4. Giới hạn trách nhiệm trong trường hợp vận tải đa phương thức...............17
2.3 Trường hợp không được hưởng quyền giới hạn trách nhiệm.......................18
3. Thực trạng, bất cập và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về miễn trách nhiệm
và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics..............19
3.1 Thực trạng, bất cập..........................................................................................19
3.2 Kiến nghị.........................................................................................................20
4. Kết luận chung......................................................................................................21
II. Tài liệu tham khảo...................................................................................................22


I. Mở đầu – Lý do chọn đề tài
Xu thế tất yếu của thời đại ngày nay là toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Nền kinh
tế thị trường mở là điều kiện cốt lõi cho giao thương giữa các quốc gia, các khu vực
phát triển mạnh mẽ. Chính vì lý do đó, sự xuất hiện và phát triển của logistics đã,
đang và sẽ mang lại nhiều cơ hội, lợi nhuận cho các chủ đầu tư, doanh nghiệp trên
toàn cầu. Hơn thế nữa, tổng số người dùng Internet ở Việt Nam vào tháng 01/2018 là
64 triệu người, tăng khoảng 27% so với cùng kỳ năm ngoái ( theo thống kê của We
Are Social ) cho thấy Internet đang trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc
sống của nhiều người Việt Nam. Điều đó càng khẳng định tầm quan trọng của

logistics trong thương mại điện tử và đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đáp
ứng nhu cầu điều chỉnh lĩnh vực này. Pháp luật về dịch vụ logistics có tác động sâu
sắc đến hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam cùng với sự phổ biến và sự phát
triển với tốc độ chóng mặt của cuộc sống số. Đứng trước bối cảnh đó, Nhà nước cần
có những biện pháp thích hợp để hồn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về logistics. Với tính chất là hoạt động thương mại mang tính liên khu vực cao, các
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ khó tránh khỏi những tranh chấp phát
sinh trong q trình hoạt động, những rủi ro pháp lý trong quá trình giao kết và thực
hiện hợp đồng thương mại. Đặc biệt, quyền và nghĩa vụ của các bên luôn là yếu tố
hàng đầu cần được xem xét, đảm bảo và thực thi một cách toàn diện, hiệu quả nhất.
Tuy nhiên trên thực tế, những quy định về trách nhiệm của thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics vẫn đang để lại nhiều bất cập, ý kiến trái chiều xoay quanh từ đó gây
ra nhiều khó khăn trong q trình xét xử của Tòa án, Trọng tài cũng như đem lại
nhiều rủi ro pháp lý cho các chủ thể liên quan. Nắm bắt được tầm quan trọng và
những vấn đề nói trên của logistics, nhóm chúng em lựa chọn thực hiện đề tài“Miễn
trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics”
để có cái nhìn tồn diện hơn về mặt lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề này.
1. Miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
1.1 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng của thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
là việc thương nhân “thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận
chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách
hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan
đến hàng hoá theo thoả thuận” (Điều 233 Luât thương mại 2005) vậy nên trách
nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được điều chỉnh bởi quy định
của các văn bản quy phạm pháp luật chung và luật chuyên ngành khác liên quan, các
văn bản này sẽ quy định cho từng hoạt động cung ứng dịch vụ logistics.
Trong quá trình giao kết hợp đồng, các bên kinh doanh dịch vụ logistics có thể
hồn tồn tự thỏa thuận với nhau về điều khoản chọn luật. Tuy nhiên, trong trường

hợp khơng có văn bản pháp luật liên quan quy định và các bên trong hợp đồng khơng
có thỏa thuận với nhau về điều khoản chọn luật thì hoạt động kinh doanh dịch vụ
1


logistics sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 2005. Chính vì lý đó, với
tư cách là một chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng thương mại, các đương sự trong
quan hệ kinh doanh dịch vụ logistics sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm và các chế tài
kèm theo khi vi phạm hợp đồng, các chế tài này được quy định tại Điều 292 Luật
thương mại 2005 (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác) và được quy định chi
tiết tại Bộ luật dân sự 2015.
1.1.1 Buộc thực hiện hợp đồng
Sau khi ký kết hợp đồng thương mại, các chủ thể liên quan sẽ bắt đầu tiến hành
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định trong hợp đồng kể từ ngày
có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên trên thực tiễn, việc thực hiện đúng các nghĩa vụ trong
hợp đồng có thể là một điều bất khả thi. Bởi trong quá trình thực hiện hợp đồng
khơng thể tránh được những sai sót như giao hàng chậm, giao hàng thiếu số lượng,
chất lượng hàng hóa không đạt yêu cầu, cung ứng dịch vụ không đúng với quy định
trong hợp đồng,.... Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ logistics, vận chuyển
hàng hóa được xem là dịch vụ chính mang lại nguồn thu nhập thường xuyên cho
doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình vận chuyển, sẽ khó tránh khỏi việc hàng hóa
bị mất, hư hỏng, khuyết tật hàng hóa,... khiến các bên khơng thể thực hiện đúng các
quyền và nghĩa vụ của mình.
Nắm bắt được những rủi ro đó, các nhà làm luật đã quy định chi tiết chế tài buộc
thực hiện hợp đồng tại khoản 1 Điều 358 Bộ luật Dân sự 2015. Chế tài này là một
cơng cụ nhằm nâng cao uy tín của các bên vi phạm hợp đồng, góp phần đề cao tính
hiệu lực của hợp đồng và bảo đảm các bên thực hiện theo đúng những gì đã giao kết
trong hợp đồng.
1.1.2 Phạt vi phạm hợp đồng
Chế tài phạt vi phạm hợp đồng kinh doanh bản chất là việc phát sinh quan hệ bồi

thường thiệt hại trong hợp đồng giữa các đương sự trong trường hợp bên vi phạm
khơng có khả năng tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện khơng đúng những gì
đã cam kết. Theo đó, bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm phải trả một khoản tiền
phạt theo quy định trong hợp đồng. Căn cứ theo quy định tại Điều 418 Bộ luật Dân sự
2015, mức phạt vi phạm sẽ do các bên tự thỏa thuận và pháp luật về dân sự khơng có
sự giới hạn nào về mức phạt này. Tuy nhiên theo các pháp luật chuyên ngành liên
quan, mặc dù mức phạt vi phạm do các bên tự thỏa thuận, nhưng không được quá với
mức phạt quy định của pháp luật. Cụ thể, mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng kinh doanh không được quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (
Điều 301 Luật thương mại 2005) và khơng q 12% đối với cơng trình xây dựng sử
dụng vốn nhà nước ( Điều 146 Luật xây dựng 2014). Sự quy định khác nhau này của
pháp luật là hồn tồn có lý do, bởi phần giá trị hợp đồng của quan hệ dân sự, thương
mại và xây dựng là hoàn toàn khác nhau. Hơn thế nữa, quy định này của pháp luật
cũng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bên vi phạm, việc đặt mức trần cho
mức phạt vi phạm thương mại là hết sức cần thiết.
2


Trong quan hệ kinh doanh dịch vụ logistics, chế tài này thường xuyên được áp
dụng bởi tính thuận tiện, nhanh chóng và góp phần tối ưu hóa đáng kể thời gian thanh
lý hợp đồng. Các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics hiểu rằng, để thực hiện
nốt phần nghĩa vụ vi phạm, các bên sẽ tốn rất nhiều thời gian, chi phí dẫn đến tiến độ
cơng việc bị trì trệ.
Hơn thế nữa, chế tài phạt vi phạm hợp đồng luôn đi kèm với bồi thường thiệt hại,
hai chế tài này được áp dụng một cách song song kể cả khi hai bên khơng có quy định
trước trong hợp đồng.
1.1.3 Bồi thường thiệt hại
Khác với chế tài phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại là chế tài được áp
dụng nhằm khắc phục, bù đắp những lợi ích về vật chất bị mất của bên bị vi phạm
trong hợp đồng kinh doanh, thương mại. Ngồi ra, bên vi phạm cịn phải bồi thường

tổn thất tinh thần cho bên bị vi phạm trong một số trường hợp nhất định. Chính vì lý
do đó, điều kiện phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại là phải có thiệt hại thực tế xảy
ra và bên yêu cầu bồi thường phải có nghĩa vụ chứng minh được phần thiệt hại đó.
Tuy nhiên trong trường hợp, bên bị vi phạm hồn tồn có lỗi trong việc khiến bên vi
phạm không thể thực hiện tốt phần nghĩa vụ mà có thể chứng minh được thì bên vi
phạm không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (khoản 3, Điều 351 BLDS
2015 ).
Hơn thế nữa, trong trường hợp bên bị vi phạm biết và buộc phải biết quyền và lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm hại do vi phạm hợp đồng gây ra thì cần phải có những
biện pháp khắc phục hậu quả để làm giảm tối thiểu phần thiệt hại phát sinh. Trường
hợp, bên bị vi phạm khơng áp dụng hoặc cố tình khơng áp dụng thì phải chịu một
phần thiệt hại đó cùng với bên vi phạm. Chế tài này thường được các thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics áp dụng kèm theo chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng
kinh doanh, thương mại một cách thường xuyên. Bởi lẽ, nếu phát sinh rủi ro với hàng
hóa, các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ tốn thời gian và chi phí để tìm
kiếm hàng hóa tương tự để duy trì chuỗi cung ứng vậy nên cần có một khoản tiền phù
hợp để bù đắp cho những khoản chi này.
1.1.4 Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng
Khi các bên thương nhân không thể tiếp tục thỏa thuận trong việc thực hiện và bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra, pháp luật cho phép các đương sự tiến
hành tạm ngừng, đình chỉ hoặc thậm chí là hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên các chế tài
này thường dẫn đến những hậu quả pháp lý bất lợi cho các bên, không những về mặt
vật chất mà còn là về yếu tố uy tín của doanh nghiệp, quan hệ kinh doanh giữa các
bên. Vậy nên khi phát sinh tranh chấp, pháp luật luôn đề cao tinh thần hòa giải,
thương lượng giữa các bên để đạt được những thỏa thuận tối ưu và hiệu quả nhất.
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng thương mại là việc bên bị vi phạm tạm thời không
thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp
đồng vẫn cịn hiệu lực pháp lý. Hợp đồng sẽ tạm ngừng thực hiện cho đến khi bên vi
phạm chấm dứt hành vi vi phạm hoặc có những biện pháp khắc phục hậu quả.
3



Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc mà bên bị vi phạm chấm dứt thực hiện nghĩa
vụ theo hợp đồng với bên vi phạm nghĩa vụ.. Khi hợp đồng bị đình chỉ thì hợp đồng
chấm dứt hiệu lực kể từ thời điểm một bên nhận được thơng báo đình chỉ và các bên
không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đã giao kết. Bên đã thực hiện nghĩa
vụ có quyền u cầu bên kia thanh tốn hoặc thực hiện nghĩa vụ tương ứng theo
nghĩa vụ mà họ đã thực hiện.
Huỷ bỏ hợp đồng là một sự kiện pháp lý mà ở đó hậu quả của nó làm cho nội dung
hợp đồng bị hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ kể từ thời điểm giao kết. Khi hợp đồng bị
hủy, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp
đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, các đương sự có quyền địi lại lợi
ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng và các bên phải giải
quyết hậu quả của hợp đồng bị huỷ bỏ (nếu có).
Có thể thấy rằng, hậu quả pháp lý mà các chế tài này mang lại là hoàn toàn lớn
khiến các bên khơng thể đạt được mục đích ban đầu khi giao kết hợp đồng. Chính vì
lý do đó, việc áp dụng các chế tài này cần được quy định rõ trong hợp đồng, không
thể áp dụng một cách đơn phương, bừa bãi.Pháp luật quy định rõ điều kiện áp dụng
đối với các chế tài này khi và chỉ khi hành vi vi phạm của một bên phải là vi phạm cơ
bản ( Điều 308, 310,312 Luật thương mại 2005 ) khiến bên bị vi phạm không thể đạt
được mục đích giao kết hợp đồng. Mặt khác, bên bị vi phạm khi áp dụng các chế tài
này vẫn có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp
luật, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Chính vì mang lại hậu quả pháp lý khá lớn cho các đương sự, vì vậy trong kinh
doanh, thương mại nói chung và trong kinh doanh dịch vụ logistics nói riêng, các
đương sự khơng áp dụng các chế tài này một cách thường xuyên. Bởi các bên sẽ
khơng đạt được mục đích giao kết hợp đồng, tức là bên vi phạm sẽ phải tìm cách
thanh lý hàng hóa, bên bị vi phạm thì phải nhanh chóng tìm số hàng thay thế và từ đó
sẽ dẫn đến uy tín doanh nghiệp, lợi nhuận bị giảm sút đáng kể.
Có thể nói trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng thương mại là chế định quan

trọng trong hợp đồng. Đặc biệt đối với hợp đồng thương mại giữa các thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics ,chế định này là cơ sở bảo đảm cho hiệu lực của hợp
đồng được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả, góp phần làm giảm
thiểu rủi ro cho các bên; là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của các bên trong q trình giải quyết các vụ án tranh chấp thương mại tại Tòa án
hoặc Trọng tài.
1.2 Miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
Miễn trách nhiệm trong hợp đồng kinh doanh, thương mại là việc bên vi phạm
nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm pháp lý do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra.
Trong thực tiễn, chế định này thường được áp dụng trong từng trường hợp cụ thể.
Thứ nhất, miễn trách nhiệm theo sự thỏa thuận của các bên. Theo đó, các bên
trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về giới hạn trách nhiệm và miễn trách nhiệm hợp
đồng trong những trường hợp cụ thể mà ở đó các bên có thể dự liệu được khi giao kết
4


hợp đồng. Điều khoản miễn trách nhiệm này thường được thỏa thuận khi vi phạm
phát sinh là không quá lớn, bên vi phạm có thể khắc phục ngay nên khơng phải chịu
chế tài do vi phạm hợp đồng hoặc bên có quyền khơng u cầu bên vi phạm phải
chịu.
Thứ hai, miễn trách nhiệm do pháp luật quy định. Căn cứ theo quy định tại Điều
294 Luật thương mại 2005, bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh, thương
mại còn được miễn trách nhiệm khi: “Xảy ra sự kiện bất khả kháng; Hành vi vi phạm
của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện
quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết
được vào thời điểm giao kết hợp đồng”.
Bời tính rủi ro cao của hàng hóa trong q trình vận chuyển, các thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics không thể lường trước được những sự kiện có thể xảy ra cũng
như không thể dự trù được mức tổn thất cố định về mặt hàng hóa. Chính vì lý do đó,
trong q trình giao kết hợp đồng thương mại cung ứng dịch vụ logistics, các bên

thường sẽ giao kết các điều khoản miễn trách nhiệm do pháp luật quy định tại Điều
294 Luật thương mại 2005.
Tuy nhiên, sự kiện bất khả kháng không phải là căn cứ để được miễn trách nhiệm
hợp đồng, họ chỉ được miễn trách nhiệm khi họ đã áp dụng các biện pháp cần thiết
trong khả năng cho phép. Về thời hạn giao hàng khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, đối
với hợp đồng thương mại có thời hạn cố định về giao hàng, các bên đều có quyền
khơng tiếp tục thực hiện hợp đồng và không bị áp dụng các biện pháp chế tài kèm
theo. Trường hợp các bên thỏa thuận giao hàng trong một thời hạn nhất định, họ có
thể thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Nếu các bên khơng có thỏa thuận
hoặc khơng thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm
một thời gian bằng thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng cộng với một khoảng thời
gian hợp lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá so với quy định của
pháp luật. Cụ thể, không quá 05 tháng đối với hàng hoá mà thời hạn giao hàng được
thỏa thuận không quá 12 tháng và 08 tháng đối với hàng hoá mà thời hạn giao hàng
được thỏa thuận trên 12 tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng (khoản 1 Điều 296 Luật
thương mại 2005). Hơn thế nữa, ngoài các yếu tố khách quan từ các sự kiện bất khả
kháng, pháp luật còn cho phép miễn trách nhiệm cho các thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics khi có lỗi phát sinh từ yếu tố chủ quan của một bên được quy định
tại Điều 237 Luật thương mại 2005. Theo đó, nếu thiệt hại phát sinh hồn tồn do lỗi
của bên bị vi phạm thì bên vi phạm sẽ được miễn trách nhiệm hợp đồng.
Để được xem xét miễn trách nhiệm hợp đồng, việc chứng minh khi áp dụng quy
định về các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng sẽ thuộc nghĩa vụ của bên có
hành vi vi phạm hợp đồng. Bên vi phạm nếu muốn được miễn trách nhiệm hợp đồng
thì phải có đầy đủ chứng cứ để chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm hợp
đồng theo quy định của pháp luật. Và đồng thời khi xảy ra sự kiện bất khả kháng bên
vi phạm hợp đồng cịn phải thơng báo ngay cho bên kia biết về sự kiện bất khả kháng
thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra, nếu không
5



thông báo kịp thời dẫn tới thiệt hại cho bên có quyền thì bên vi phạm sẽ phải bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
1.3 Điều kiện áp dụng chế định miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics
Thứ nhất thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có hành vi vi phạm nghĩa vụ
dẫn đến thiệt hại thực tế làm phát sinh trách nhiệm. Theo lý luận thực tiễn ta có thể
thấy rằng, nếu một bên có hành vi vi phạm hợp đồng nhưng vi phạm này lại không hề
mang đến bất kỳ thiệt hại hay tổn thất nào cho bên bị vi phạm thì trách nhiệm bồi
thường sẽ không phát sinh. Như vậy điều kiện đầu tiên để thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics được miễn trách nhiệm là phải có hành vi vi phạm dẫn đến trách
nhiệm bồi thường.
Thứ hai thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có căn cứ để được hưởng miễn
trách nhiệm. Hành vi vi phạm phải có trong các căn cứ được các bên thỏa thuận hoặc
theo quy định của pháp luật được áp dụng miễn trách nhiệm chính là điều kiện cần để
bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm. Đó có thể là căn cứ ở Điều 237 hay Điều
294 Luật thương mại 2005, cũng có thể theo quy định của luật chuyên ngành. Tức là
khi thực hiện hợp đồng, bên thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có hành vi vi
phạm hợp đồng, nhưng vi phạm này lại nằm trong quy định được miễn trách nhiệm
tại Điều 294 và Điều 237 Luật thương mại 2005 vì vậy mà bên vi phạm không phải
thực hiện trách nhiệm bồi thường của mình. Có thể thấy chỉ khi có căn cứ thuộc các
trường hợp này thì bên cung ứng dịch vụ mới có thể được xem xét miễn trách nhiệm.
Đây được xem là điều kiện quan trọng nhất khi áp dụng chế định miễn trách nhiệm.
Thứ ba thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đã thực hiện nghĩa vụ thông báo
và chứng minh được trường hợp miễn trách nhiệm của mình. Theo khoản 2 Điều 294
Luật thương mại 2005, điều kiện để bên vi phạm được miễn trách nhiệm là phải thực
hiện chứng minh được vi phạm của mình thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm.
Dựa trên nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong
pháp luật tố tụng dân sự. Việc được miễn trách nhiệm là quyền lợi của thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics do đó họ phải có trách nhiệm đối với việc thực hiện
quyền của mình là phải chứng minh được các cơ sở để được miễn trách nhiệm. Nếu

không thực hiện nghĩa vụ chứng minh, coi như đã từ bỏ quyền được miễn trách
nhiệm. Tịa án khơng có nghĩa vụ phải chứng minh hay thực hiện thay việc chứng
minh cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
Tóm lại, miễn trách nhiệm chỉ được áp dụng khi thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics có hành vi vi phạm làm phát sinh trách nhiệm, thuộc các trường hợp được
miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận và đáp ứng điều kiện
thông báo chứng minh. Hệ quả của việc thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
được miễn trách nhiệm không cố định mà thay đổi tùy thuộc vào từng hồn cảnh cụ
thể. Các trách nhiệm được miễn có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại, miễn chịu
phạt vi phạm, phép chấm dứt hợp đồng trong những trường hợp bất khả kháng hoặc
miễn cùng lúc nhiều trách nhiệm.
6


1.4 Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics
1.4.1 Các trường hợp miễn trách nhiệm chung theo quy định tại Điều 294 Luật
thương mại 2005
1.4.1.1 Miễn trách nhiệm theo thỏa thuận
Pháp luật thương mại đề cao tính tự do của hợp đồng. Vì vậy, cho phép thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics và khách hàng được quyền tự thỏa thuận các
trường hợp miễn trách nhiệm khi giao kết hợp đồng thương mại cũng như tôn trọng
sự thỏa thuận của các bên nhưng không được trái với quy định của pháp luật. Chủ thể
ký kết hợp đồng là người có điều kiện để hiểu rõ được các nguy cơ và rủi ro có thể
gặp phải trong khi thực hiện hợp đồng. Cho nên điều khoản mà hai bên tự thỏa thuận
sẽ rõ ràng và hợp lý và bao quát được các trường hợp hơn. Tuy nhiên, thoả thuận giữa
các bên về điều khoản miễn trách nhiệm phải tồn tại trước khi xảy ra hành vi vi phạm
làm phát sinh trách nhiệm và có hiệu lực đến thời điểm bên bị vi phạm áp dụng chế
tài. Có thể thấy việc thỏa thuận giữa các bên khi thành lập hợp đồng hoặc được bổ
sung thêm vào hợp đồng giống như việc tiên đoán trước các rủi ro có thể xảy ra, nếu

hành vi vi phạm đó đã diễn ra gây tổn hại thì bên vi phạm phải thực hiện trách nhiệm
bồi thường của mình chứ khơng cần thiết phải thỏa thuận nữa. Quy định tại Điều 294
Luật thương mại 2005 khơng nêu rõ về hình thức của thỏa thuận là văn bản, lời nói
hay hành vi cụ thể. Nếu hợp đồng được giao kết bằng văn bản thì thỏa thuận miễn
trách nhiệm được ghi nhận trong nội dung của hợp đồng hoặc trong phụ lục của hợp
đồng. Kể cả khi hợp đồng đã ký kết thì các bên vẫn có thể thỏa thuận bằng lời nói,
hành vi cụ thể hoặc sửa đổi, bổ sung vào hợp đồng các trường hợp miễn trách nhiệm.
Tuy nhiên, việc chứng minh sự tồn tại một thỏa thuận không bằng văn bản sẽ gặp
những khó khăn nhất định.
1.4.1.2 Miễn trách nhiệm khi xảy ra sự kiện bất khả kháng
Theo quy định của pháp luật thương mại, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách
nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng. Sự kiện bất khả kháng là sự
kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục
được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép (Theo quy
định tại khoản 1, Điều 156 BLDS 2015). Điều này có nghĩa là dù hợp đồng có quy
định hay khơng thì khi xảy ra sự kiện bất khả kháng dẫn đến việc vi phạm hợp đồng,
bên vi phạm vẫn được miễn trách nhiệm.
Theo thông lệ chung, sự kiện bất khả kháng thường được hiểu là những hiện tượng
do thiên nhiên gây ra như lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần hoặc các hiện
tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình cơng, cấm vận, thay đổi
chính sách của Chính phủ. Tuy nhiên, để được áp dụng chế định miễn trách nhiệm
cho thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics thì sự kiện bất khả kháng phải đáp ứng
các tiêu chí sau:
Về tính chất: đó là một sự kiện khách quan, nằm ngồi ý chí của thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics như: thiên tai, động đất, sóng thần, dịch bệnh,...
7


Về thời điểm: sự kiện bất khả kháng diễn ra sau khi ký kết hợp đồng. Xét theo
góc độ lý luận, nếu một sự kiện khách quan mà xảy ra trước hoặc trong khi giao kết

hợp đồng mà thương nhân vẫn chấp nhận ký hợp đồng đó dù biết nó sẽ gây thiệt hại
cho mình, thì sẽ đi ngược lại mục đích sinh lợi của hoạt động thương mại. Khơng
thương nhân nào lại chấp nhận những thiệt hại mà mình biết rõ nó sẽ xảy ra.
Về việc dự trù: sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra bất ngờ khơng thể dự
đốn trước được. Bản thân thương nhân khơng có khả năng đánh giá và dự trù tất cả
các rủi ro có thể diễn ra đặc biệt là các rủi ro về thiên tai.
Ví dụ thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đang phải vận chuyển một lô hàng
hóa đến cho bên đối tác. Nhưng trên tuyến đường vận chuyển bắt buộc phải đi qua
đang vào mùa mưa bão, do tính bất ngờ và khó kiểm sốt của bão nên việc dự đốn
bão có xảy ra hay khơng đối với một thương nhân là điều không thể lường trước
được.
Về hậu quả: Để được miễn trách nhiệm thì hậu quả do sự kiện bất khả kháng để
lại phải là tất yếu khách quan, tức là bên vi phạm đã sử dụng hết các biện pháp và khả
năng cho phép nhưng vẫn không thể hạn chế và ngăn ngừa thiệt hại xảy ra. Tuy
nhiên, nếu bên vi phạm không thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả
nhưng chứng minh được dù có sử dụng tất cả các biện pháp cũng không thể khắc
phục được hậu quả thì xem như đã thỏa mãn điều kiện này.
Để được áp dụng miễn trừ do sự kiện bất khả kháng thì bên có hành vi vi phạm
phải chứng minh được sự cố dẫn đến vi phạm hợp đồng thỏa mãn các tiêu chí vừa
nêu. Trừ các hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về
giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ. Khi xảy ra trường hợp bất khả kháng, các bên có
thể thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng theo quy định tại Điều
296 Luật thương mại 2005.
1.4.1.3 Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn là lỗi của bên kia
Nếu một bên vi phạm hợp đồng nhưng việc vi phạm là do lỗi của bên bị vi phạm
thì bên vi phạm hợp đồng sẽ được miễn trách nhiệm đối với vi phạm đó. Như vậy,
căn cứ để miễn trách nhiệm trong trường hợp này là phải do lỗi của bên bị vi phạm.
Lỗi này có thể là lỗi hành động hoặc khơng hành động.
Ví dụ: Cơng ty A kí với cơng ty B hợp đồng mua bán 10.000 chiếc lốp xe. Cơng ty
A phải thanh tốn đúng hạn theo hợp đồng khoản tiền bằng 40% giá trị hợp đồng để

công ty B mua vật liệu sản xuất. Tuy nhiên, cơng ty A đã thanh tốn chậm hơn so với
thời hạn trong hợp đồng dẫn đến việc sản xuất của cơng ty B bị đình trệ cho nên đã
giao hàng chậm cho công ty A. Nếu việc chậm thanh tốn của cơng ty A khơng phải
do tình huống bất khả kháng và tỏng hợp đồng khơng có thỏa thuận nào khác về việc
chậm thanh tốn thì cơng ty B được miễn trách nhiệm theo như quy định tại điểm c,
khoản 1, Điều 294.
1.4.1.4 Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết
hợp đồng.
8


Trong thực tiễn, khơng chỉ có các hiện tượng tự nhiên như: mưa bão, hạn hán,...
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội mà ngay cả các yếu tố chính
trị xã hội do con người tạo nên cũng có ảnh hưởng khơng nhỏ đến hoạt động của sản
xuất kinh doanh như: chiến tranh, bạo loạn hay lệnh cấm của chính phủ, thi hành lệnh
khẩn cấp, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật. Mệnh lệnh hành chính là sự can thiệp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Các
yếu tố này xảy ra bất ngờ đối với các bên ký kết hợp đồng và hậu quả của nó cũng
thường đưa tới việc vi phạm hợp đồng của các bên tham gia. Về bản chất, hành vi vi
phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thể coi là
hành vi vi phạm do sự kiện bất khả kháng về sự biến pháp lý. Các bên khó có thể
lường trước được những thiệt hại hay vi phạm khi có một quyết định của nhà nước
xen vào.
Trong trường hợp các bên biết về việc thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền có thể dẫn đến hành vi vi phạm hợp đồng mà vẫn ký hợp đồng thì
khơng được áp dụng miễn trách nhiệm.
1.4.2 Trường hợp áp dụng riêng đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
theo quy định tại Điều 237 Luật thương mại 2005
1.4.2.1 Tổn thất do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng ủy quyền

Khi bên khách hàng có lỗi dẫn đến tổn thất bề hàng hóa thì thương nhân khơng
cần phải chịu trách nhiệm. Ví dụ như khi khách hàng hay người được khách hàng ủy
quyền không thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình, quy định tại Điều 236 Luật
thương mại 2005. Dẫn đến thiệt hại xảy ra cho bên khách hàng thì khách hàng phải tự
chịu tổn thất do khơng thực đúng nghĩa vụ của mình, thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics khơng có trách nhiệm đối với tổn thất về hàng hóa.
1.4.2.2 Tổn thất phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm đúng
theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền
Khách hàng có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistic, còn thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có nghĩa vụ làm theo
những chỉ dẫn đó. Khi thương nhân thực hiện cơng việc theo đúng như chỉ dẫn của
khách hàng dẫn đến tổn thất thì cũng là do họ đang thực hiện nghĩa vụ của mình đối
với bên cịn lại. Hơn nữa chỉ dẫn này lại do chính khách hàng đưa ra. Cho nên trong
trường hợp này bên thương nhân không phải chịu trách nhiệm cho tổn thất phát sinh.
1.4.2.3 Tổn thất là do khuyết tật của hàng hoá
Đối với thiệt hại về hàng hóa do chính khuyết tật nội hàm của hàng hóa đó gây ra,
được coi là khách quan đối với yếu tố lỗi của thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics do thương nhân khơng có quyền kiểm tra nội dung bên trong của hàng hóa.
Nếu những khuyết tật bên trong hàng hóa là ngun nhân chính gây nên thiệt hạithif
thương nhân không phải chịu trách nhiệm cho những tổn thất đó.
1.4.2.4 Tổn thất phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm theo quy
định của pháp luật và tập quán vận tải nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics tổ chức vận tải
9


Tương tự các thương nhân kinh doanh dịch vụ khác, thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics cũng được miễn trách nhiệm đối với các trường hợp quy định tại Điều
294 Luật thương mại 2005 là: “xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã
thỏa thuận; sự kiện bất khả kháng; hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của

bên kia; hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên khơng thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng”. Có thể thấy, Luật thương mại đã dự liệu các trường hợp miễn trách nhiệm cho
các chủ thể tham gia vào quan hệ thương mại, khi hành vi vi phảm xảy ra nằm trong
những trường hợp trên thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cũng được miễn
trách nhiệm.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics là tổ chức vận tải còn được miễn trách
nhiệm khi tổn thất là do thực hiện theo tập quán vận tải gây nên. Đối với những
trường hợp các bên thỏa thuận hay do pháp luật quy định phải sử dụng tập quán vận
tải và khi áp dụng những tập quán đó dẫn đến tổn thất về hàng hóa thì thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics khơng phải chịu trách nhiệm.
1.4.2.5 Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về
khiếu nại trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics giao hàng cho người nhận
Trong thời hạn 14 ngày kể từ ngày thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics giao
hàng cho bên khách hàng, nếu có bất kỳ tổn thất nào đối với hàng hóa thì khách hàng
được quyền khiếu nại. Đây là thời hạn pháp luật quy định cho khách hàng, nếu vượt
quá thời hạn trên thì khách hàng phải tự chịu mọi tổn thất. Thời hạn 14 ngày đủ cho
người nhận có thể kiểm tra hàng hóa cũng như phát hiện những tổn thất của hàng hóa
và gửi đơn khiếu nại cho bên thương nhân. Thời hạn quá dài dẫn đến việc khó có thể
xác định được là tổn thất do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic hay do bên nhận
hàng không bảo quản tốt hàng hóa dẫn đến thiệt hại xảy ra.
1.4.2.6 Sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không
nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Tồ án trong thời hạn chín
tháng, kể từ ngày giao hàng
Nếu khách hàng muốn truy cứu trách nhiệm với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics sau khi đã khiếu nại về những tổn thất đối với hàng hóa thì phải tiến hành
khởi kiện tại Trọng tài hoặc Tòa án để yêu cầu bồi thường những tổn thất trong thời
hạn chín tháng kể từ ngày nhận hàng. Nếu q thời hạn chín tháng thương nhân
khơng phải chịu trách nhiệm đối với những tổn thất của hàng hóa. Thời hạn chín

tháng đủ để hồn thiện các thủ tục pháp lý. Thời gian càng lâu càng khó điều tra hơn
nữa hàng hóa cũng sẽ khơng thể để q lâu sẽ gây thiệt hại ccho bên khách hàng.
1.4.2.7 Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về
việc mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng, về sự chậm trễ hoặc thực
hiện dịch vụ logistics sai địa điểm khơng do lỗi của mình
Theo như quy định trên thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics khơng phải
chịu trách nhiệm khi làm mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng do sự
10


chậm trễ hay thực hiện dịch vụ sai địa điểm khơng phải do lỗi của mình. Rõ ràng, nếu
lỗi khơng phải do thương nhân thì họ khơng có nghĩa vụ phải bồi thường tổn thất cho
bên khách hàng, lỗi ở đây có thể là do bên thứ ba, lỗi khách quan hay do chính khách
hàng tự gây ra cho mình.
Có thể thấy, việc Luật thương mại quy định các trường hợp miễn trách nhiệm cho
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics khi có những tổn thất về hàng hóa cùng với
quy định miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều 294 là hoàn
toàn cần thiết. Những quy định này đã bảo vệ quyền lợi của thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics, tạo điều kiện cho sự phát triển của loại hình dịch vụ mang nhiều
tiềm năng cũng như rủi ro và tính chất cơng việc phức tạp này. Thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế.
1.5 Hậu quả pháp lý do miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đối với thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics
Việc miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đối với thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics theo Điều 294 Luật thương mại 2005 có hậu quả pháp lý như sau:
Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm phát sinh
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng trong các trường hợp mà Điều 294 Luật thương
mại quy định.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải thông báo và xác nhận trường hợp
miễn trách nhiệm.

Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp
miễn trách nhiệm.
1.6 Vai trò của chế định miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistic
Đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được miễn trách nhiệm theo
Điều 237 Luật thương mại 2005 về thiệt hại tổn thất hàng hoá và Điều 294 Luật
thương mại 2005 về các hành vi vi phạm hợp đồng, được xem có vai trị rất lớn và
quan trọng trong q trình kinh doanh hoạt động của thương nhân trong dịch vụ
Logistics- dịch vụ mang nhiều tính chất rủi ro cao trong quá trình thực hiện vận
chuyển đến người tiêu dùng. Vậy vai trò của các chế định miễn trách nhiệm của
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics theo Điều 237 và Điều 294 Luật thương
mại 2005 được hiểu như sau:
Xét về Điều 237. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics
Việc miễn trách về tổn thất hàng hoá đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics ta có thể thấy rằng các trường hợp miễn trách nhiệm về tổn thất hàng hố có
nhiều ưu đãi và quyền lợi của thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics so với các
hoạt động kinh doanh khác theo Luật thương mại 2005.
Thứ nhất, bởi lẽ có nhiều ưu đãi và quyền lợi này do tính đặc thù trong hoạt động
kinh doanh logistics luôn tiềm ẩn những rủi ro khách quan xảy ra rất cao vì vậy để tạo
điều kiện trong quá trình hoạt động dịch vụ này nên quyền ưu đãi cao hơn so với các
11


hợp đồng thương mại khác, dịch vụ kinh doanh khác để tạo điều kiện cho doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics phát triển.
Thứ hai, việc miễn trách nhiệm này cũng giúp cho doanh nghiệp trong hoạt động
kinh doanh dịch vụ logistics loại bỏ gánh nặng về mặt tài chính khi bồi thường thiệt
hại do tổn thất hàng hố bởi vì trong hoạt động kinh doanh dịch vụ Logistics là thông
qua các hoạt động như vận hàng, chuyển hàng, lưu kho, lưu bãi, giao hàng,… đến tay

người tiêu dùng. Vì vậy hoạt động này được hưởng thù lao rất ít so, lợi nhuận kiếm
được từ lợi nhuận này rất nhỏ so với giá trị của hợp đồng cung ứng dịch vụ, mặt khác
việc các hoạt động logistics này khơng có thể tác động lên hàng hoá làm thay đổi
hàng hoá. Do đó nếu khơng có miễn trách nhiệm trong lĩnh vực đặc thù này thì xảy ra
nhiều bất cập dẫn đến các doanh nghiệp hoạt động logistics không phát triển và ln
tìm ẩn nhiều rủi ro cao, nên việc miễn trách nhiệm theo Điều 237 giúp cho thương
nhân, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ logistics phát triển và yên tâm hoạt động trong
lĩnh vực này.
Xét về Điều 294. Các trường hợp miễn trách nhiệm về hành vi vi phạm
Hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics là hợp
đồng nói riêng và hợp đồng thương mại nói chung, đối với Điều 237 Luật thương mại
2005 là miễn trách nhiệm về tổn thất hàng hố mang tính đặc thù trong lĩnh vực hoạt
động logistics còn đối với Điều 294 Luật thương mại 2005 là miễn trách nhiệm về
hành vi vi phạm hợp đồng đây là điều chỉnh chung tất cả các hợp đồng của Luật
thương mại 2005. Vậy các vai trò của miễn trách nhiệm về hành vi vi phạm trong
hoạt động kinh doanh dịch vụ Logistics ta có thể hiểu như sau:
Thứ nhất, việc quy định cụ thể các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi
phạm được xem có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi các bên khi
tham gia quan hệ hợp đồng thương mại, ở đây ta hiểu là quyền lợi hợp pháp của chủ
thể- bên cung ứng dịch vụ về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ hai, là tơn trọng ý chí giữa các bên khi các bên thỏa thuận về miễn trách
nhiệm trong hợp đồng. Việc này giúp các bên chủ động, linh hoạt về những điều kiện
thực tế trong quá trình xác lập hợp đồng cung ứng dịch vụ logistics.
Thứ ba, việc vi phạm hợp đồng dịch vụ cung ứng trong hoạt động kinh doanh dịch
vụ logistics nói riêng và hợp động thương mại nói chung khi các bên vi phạm về
nguyên nhân khách quan- bất khả kháng dẫn đến vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì được
miễn trừ trách nhiệm điều này giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể,
góp phần đảm bảo trật tự và ổn định của nền kinh tế.

2. Giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics

2.1. Khái quát chung
Trong quá trình tham gia hợp động thương mại thì các chủ thể tham gia khơng làm
đúng quyền và nghĩa vụ của mình làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng đây là một trong những chế tài cơ bản trong thương mại, nhưng do về
12


tính đặc thù trong hoạt động logistics đã có những quy định riêng về vấn đề này là
giới hạn trách nhiệm của thương nhân trong hoạt động này khi phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp động. Vậy giới hạn trách nhiệm của thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics là gì?
Tại khoản 1 Điều 5 Nghị định 163/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 định nghĩa giới
hạn trách nhiệm như sau: “1. Giới hạn trách nhiệm là hạn mức tối đa mà thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách
hàng đối với những tổn thất phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện dịch vụ
logistics theo quy định tại Nghị định này.”
Tại Điều 238 Luật Thương mại 2005 quy định về giới hạn trách nhiệm của thương
nhận kinh doanh dịch vụ logistics như sau:
“Điều 238. Giới hạn trách nhiệm
1. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics không vượt quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất tồn bộ
hàng hố.
2. Chính phủ quy định chi tiết giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics phù hợp với các quy định của pháp luật và tập quán quốc tế.
3. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không được hưởng quyền giới hạn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nếu người có quyền và lợi ích liên quan chứng minh
được sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm là do thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics cố ý hành động hoặc không hành động để gây ra mất mát, hư hỏng,
chậm trễ hoặc đã hành động hoặc không hành động một cách mạo hiểm và biết rằng
sự mất mát, hư hỏng, chậm trễ đó chắc chắn xảy ra.”

2.2. Các trường hợp áp dụng chế định giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics
* Trường hợp liên quan đến vận tải
Pháp luật quy định về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistic được quy định trong bộ Luật Thương mại 2005 và Nghị định 163/2017/NĐCP ngày 30/12/2017. Tuy nhiên về phần bồi thường do hàng hóa bị hư hỏng, mất
mát…. Do lỗi của thương nhân dịch vụ logistic, hai bên cũng khơng có thỏa thuận
cho mức bồi thường, thì lúc này khách hàng sẽ được bồi thường theo mức quy định
của pháp luật tại Điều 10 Nghị định số 10/2020/NĐ-CP ngày 17/01/2020 của Chính
phủ quy định về kinh doanh.
Khi thương nhân vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy – nội địa, lúc này giới
hạn trách nhiệm của thương nhân sẽ căn cứ vào giá trị của hàng hóa mà thương nhân
vận chuyển, giá trị này được thương nhân kê khai và ghi nhận trong giấy vận chuyển,
từ đó sẽ căn cứ theo giá trị đã kể khai và mức thiệt hại thức tế để u cầu bồi thường
hàng hóa. Gía trị bồi thường lúc này sẽ không vượt quá giá trị mà đã kê khai trong
giấy vận chuyển, nếu như giá trị hàng hóa lớn hơn nhưng kê khai ít thì phía thương
nhân sẽ chịu phần thiệt hại không kê khai. Đối với trường hợp, thuê vận tải và lúc này
không kê khai giá trị hàng hóa, thì mức bồi thường lúc này sẽ tính theo mức giá trung
13


bình của hàng hóa cùng loại. Gía trị bồi thường tất cả đều sẽ không vượt mức bồi
thường do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định.
Khi thương nhận vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, nhưng giá trị hàng hóa
khơng được người giao hàng, người gửi kê khai, ghi rõ trong vận đơn trước khi bốc
hàng, thì lúc này giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển được quy định: “Chỉ có
nghĩa vụ bồi thường đối với những hàng hóa bị hư hỏng, mất mát hoặc là những tổn
thất khác liên quan đến hàng hóa trong giới hạn tối đa của mức tối đa.” Khi đóng
hàng hóa lên xe, lên tàu…một công – tai – nơ đựng hàng hóa và được kê khai trong
giấy tờ vận chuyển sẽ được xem là một đơn vị hàng hóa hoặc một kiện. Khi bồi
thường sẽ căn cứ vào số kiện, số đơn vị hàng trên công – tai – nơ để xác định được

thiệt hại, và số tiền phải bồi thường cho khách hàng.
Đối với trường hợp người giao hàng khai báo giá trị của hàng hóa trước khi bốc
hàng, và lúc này người vận chuyển đã ghi vào chứng từ vận chuyển, khi hàng hóa xảy
ra vấn đề mất mát, hư hỏng, thì người vận chuyển sẽ chịu trách nhiệm bồi thường:
nếu như hàng hóa đó đã bị mất, thì dựa vào tờ khai báo giá trị hàng hóa, người vận
chuyển sẽ phải bổi thường toàn bộ giá trị của hàng hóa đã bị mất; cịn trường hợp
hàng hóa đó chỉ bị hư hỏng, thì mức bồi thường lúc này sẽ dựa vào sự chênh lệch
giữa giá trị đã khai báo với lại giá trị hiện tại chưa bị hư hỏng của hàng hóa. Gía trị
cịn lại này của hàng hóa, sẽ được xác định vào thời điểm và nơi dở hàng hoặc đáng
ra phải dở hàng như trên hợp đồng vận chuyển thống thất giữa các bên. Việc xác định
đơi khi sẽ có sai sót và khó khăn, chính vì vậy có thể xác định mức bồi thường bằng
cách căn cứ vào giá thị trường tại thời điểm bốc hàng và cộng thêm phí vận chuyển
đến nơi đó.
Nếu như thương nhân chọn sử dụng vận chuyển hàng hóa bằng con đường đã
phương thức thì giới hạn trách nhiệm sẽ được quy định như sau: thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics bằng hình thức vận tải đa phương thức, trong đó khơng có
việc vận chuyển hàng hóa đường thủy nội địa hoặc bằng đường biển, lúc này trách
nhiệm của” người kinh doanh vận tải đa phương thức được giới hạn với số tiền không
vượt quá 8,33 SDR/1 kg trọng lượng của hàng hoá bị mất mát hoặc hư hỏng (Nghị
định số 87/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về vận tải đa phương thức
(được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 87/2011/NĐ-CP và Nghị định số
144/2018/NĐ-CP). Nếu hàng hóa bị mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa xảy ra trong một
giai đoạn cụ thể của hoạt động vận tải, mà ở đó điều ước quốc tế hoặc pháp luật quốc
gia có quy định một giới hạn trách nhiệm khác thi lúc này mất mát hoặc hư hỏng
hàng hóa sẽ được áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế hoặc của pháp luật
quốc gia đó.
* Trường hợp khơng liên quan đến vận tải
Vận chuyển hàng hóa như khơng sử dụng hình thức vận tải, nếu như hàng hóa bị
mất, hoặc hư hỏng thì giới hạn trách nhiệm bồi thường sẽ là tồn bộ giá trị của hàng
hóa đó được kê khai giữa các bên. Tuy nhiên khách hàng phải thơng báo và kê khai rõ

giá trị hàng hóa cho bên vận chuyển biết.
14


Đối với trường hợp khách hàng không thông báo, hoặc kê khai rõ giá trị hàng hóa
cho thương nhân biết, thì lúc này thương nhân chỉ bồi thường một khoảng tiền bằng
với thù lao, lợi nhuận mà họ nhận được khi vận chuyển số lượng hàng hóa này.
Chính vì vậy, để đảm bảo an tồn cho hàng hóa của mình, thì khách hàng nên kê
khai rõ số lượng và giá trị hàng hóa của mình cho thương nhân biết. Để sau này, nếu
xảy ra sự cố thì sẽ được hưởng quyền lợi bồi thường.
2.2.1 Giới hạn trách nhiệm theo quy định của pháp luật có liên quan
Tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định 163/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 định nghĩa giới
hạn trách nhiệm như sau: “1. Giới hạn trách nhiệm là hạn mức tối đa mà thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách
hàng đối với những tổn thất phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện dịch vụ
logistics theo quy định tại Nghị định này.”
Giới hạn trách nhiệm tại Điều 238 Luật Thương mại 2005 quy định về giới hạn
trách nhiệm của thương nhận kinh doanh dịch vụ logistics như sau:
“Điều 238. Giới hạn trách nhiệm
1. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics không vượt quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất tồn bộ
hàng hố.
2. Chính phủ quy định chi tiết giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics phù hợp với các quy định của pháp luật và tập quán quốc tế.
3. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không được hưởng quyền giới hạn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nếu người có quyền và lợi ích liên quan chứng minh
được sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm là do thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics cố ý hành động hoặc không hành động để gây ra mất mát, hư hỏng,
chậm trễ hoặc đã hành động hoặc không hành động một cách mạo hiểm và biết rằng
sự mất mát, hư hỏng, chậm trễ đó chắc chắn xảy ra.”

Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được cụ thể tại
Khoản 2, 3, 4 Điều 5 Nghị định 163/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017: các giới hạn của
thương nhân trong kinh doanh dịch vụ logistic sẽ làm theo quy định của Nghị định
này. Tuy nhiên nếu như những bộ luật khác có liên quan quy định, thì sẽ áp dụng theo
quy định của những luật có liên quan đó; nếu như khách hàng lúc này chứng minh
được hàng hóa bị mất mát, hư hỏng hoặc giao hàng chậm là do lỗi của thương nhân.
Do thương nhân cố ý không làm, hoặc bất cẩn gây ra hư hỏng, mất mát chậm trễ,
hoặc là biết rằng sẽ có sự cố chắc chắn xảy ra nhưng vẫn làm, thì khách hàng có
quyền u cầu thương nhân bồi thường. Thương nhân lúc này sẽ không được hưởng
quyền giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mà sẽ bồi thường tồn bộ hàng hóa
bị hư hỏng, mất mát, giao chậm trễ.
2.2.2 Mức giới hạn trách nhiệm trong trường hợp pháp luật liên quan khơng có
quy định và các bên khơng có thỏa thuận
Nếu như các bên khơng có thỏa thuận, thì mức tiền phạt sẽ theo quy định của
pháp luật tại khoản 3 Điều 5 Nghị định 163/2017/nđ-cp về giới hạn trách nhiệm:
15


Trường hợp các bên khơng có thoả thuận thì thực hiện như sau: “ Trường hợp
khách hàng khơng có thơng báo trước về trị giá của hàng hóa thì giới hạn trách
nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường; trường hợp khách
hàng đã thông báo trước về trị giá của hàng hóa và được thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics xác nhận thì giới hạn trách nhiệm sẽ không vượt quá trị giá của
hàng hóa đó; giới hạn trách nhiệm đối với trường hợp thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics tổ chức thực hiện nhiều cơng đoạn có quy định giới hạn trách nhiệm khác
nhau là giới hạn trách nhiệm của cơng đoạn có giới hạn trách nhiệm cao nhất.”
Nhìn chung đây có thể được xem là một ngoại lệ của chế tài bồi thường thiệt hại
trong hoạt động kinh doanh dịch vụ logistic, theo Điều 302 Luật thương mại năm
2005 quy định: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp
mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị

vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm”. Cịn đối với Bộ luật dân
sự 2015 thì quy định rằng: “bên vi phạm hợp đồng gây thiệt hại bao nhiêu thì phải
chịu trách nhiệm bồi thường bấy nhiêu”.
Ví dụ: nếu như thương nhân dịch vụ logistic làm mất hàng hóa, và lúc này khơng
có hàng để giao đến điểm đã hẹn cho khách hàng, thì điều này làm cho khách hàng có
thể phát sinh nhiều thiệt hại khi khơng có hàng hóa. Gía trị hàng hóa lúc này cũng có
thể bị mất đi, thậm chí có thể bồi thường thiệt hại cho bên nhận hàng vì khơng có
hàng giao và khơng được nhận khoản lợi nhuận đáng lẽ được nhận khi giao được số
hàng đó.
2.2.3 Mức giới hạn trách nhiệm trong trường hợp các bên có thỏa thuận
Nếu các bên có thỏa thuận, thì sẽ thực hiện theo đúng thỏa thuận giữa các bên, tuy
nhiên các thỏa thuận đó khơng được vi phạm các điều khoản của luật. Theo quy định
tại điều 238 Luật thương mại 2005 thì giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistic sẽ được thực hiện: trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác,
thì toàn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ không vượt
quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất tồn bộ hàng hố; các quy định của giới hạn
trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phù hợp với các quy
định của điều ước quốc tế và pháp luật quốc tế; các bên cần kê khai đầy đủ rõ ràng
trong hợp đồng và giấy tờ vận chuyển, để khi có tranh chấp xảy ra thì sẽ dựa vào
những điều hai bên đã thỏa thuận mà thực hiện. Nếu không sẽ căn cứ theo quy định
của pháp luật giải quyết. Lúc này sẽ không đảm bảo đủ quyền lợi và lợi ích giữa các
bên.
2.2.4. Giới hạn trách nhiệm trong trường hợp vận tải đa phương thức
Căn cứ vào Nghị định số 87/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về vận
tải đa phương thức (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 87/2011/NĐ-CP và
Nghị định số 144/2018/NĐ-CP):
“1. Vận tải đa phương thức là việc vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương
thức vận tải khác nhau trên cơ sở hợp đồng vận tải đa phương thức.”
16



Khi đó, chủ thể thực hiện hợp đồng vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm,
đảm bảo hàng hóa trong quá trình vận chuyển theo một giới hạn trách nhiệm nhất
định. Việc bảo vệ hàng hóa phải đặt lên hàng, nếu hàng hóa bị hỏng hóc, mất mát thì
phải chịu trách nhiệm trong phạm vi trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, chủ thể
tham gia kinh doanh phải có trách nhiệm đảm bảo giao hàng đúng hạn cho khách
hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng, nếu do giao hàng chậm gây tổn thất cho khách
hàng thì có trách nhiệm bồi thường tổn thất do việc chậm trễ gây ra.
Hiện nay, hình thức vận tải đa phương thức đang rất phổ biến bởi những đóng góp
quan trọng vào hoạt động thương mại quốc tế cũng như phát triển nền kinh tế quốc
dân. Đa phương thức tức là được thực hiện bằng hai phương thức vận tải trở lên qua
nhiều phương tiện vận chuyển lớn bé nhằm tối đa hóa lợi ích của việc vận chuyển
dựa trên phương thức này. Để tăng khả năng cạnh tranh mạnh mẽ giữa một thị trường
thương mại sôi nổi, không thể không nhắc đến vận tải đa phương thức, hình thức này
giúp giảm chi phí logistíc và Just in time, đồng thời giúp các doanh nghiệp tiếp cận
nhanh chóng với thị trường thơng qua mạng lưới vận tải lớn và có tính liên kết quốc
tế cao.
Bởi vận tải đa phương thức diễn ra trong một quy mơ lớn, tính chun nghiệp và
khả năng huy động cao, do đó rủi ro trong q trình vận hành là không thể trách khỏi.
Chủ thể thực hiện hợp đồng vận tải chịu trách nhiệm trước những rủi ro đó là yêu cầu
tất yếu. Tuy nhiên, để bảo vệ cho những người hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
này, pháp luật đã quy định một hạn mức tối đa đối với trách nhiệm bồi thường thiệt
hại mà thương nhân phải chịu khi tổn thất phát sinh. Hạn mức sẽ tuân theo quy định
cụ thể tại Nghị định số 87/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ:
“Điều 24. Giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức
1. Người kinh doanh vận tải đa phương thức chỉ chịu trách nhiệm trong bất cứ
trường hợp nào về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa với mức tối đa tương đương
666,67 SDR cho một kiện hoặc một đơn vị hoặc 2,00 SDR cho một ki-lơ-gam trọng
lượng cả bì của hàng hóa bị mất mát, hư hỏng, tùy theo cách tính nào cao hơn, trừ
khi tính chất và giá trị của hàng hóa đã được người gửi hàng kê khai trước khi hàng

hóa được người kinh doanh vận tải đa phương thức tiếp nhận để vận chuyển và đã
được ghi trong chứng từ vận tải đa phương thức.
2. Trường hợp trong một công-te-nơ, cao bản hoặc cơng cụ vận chuyển, đóng gói
tương đương khác được xếp nhiều kiện, nhiều đơn vị mà các kiện hoặc các đơn vị đó
được liệt kê trong chứng từ vận tải đa phương thức thì sẽ được coi là các kiện hoặc
các đơn vị. Trong những trường hợp khác, cơng-te-nơ, cao bản hoặc cơng cụ vận
chuyển, đóng gói tương đương khác đó phải được coi là kiện hoặc đơn vị.
3. Trong hợp đồng vận tải đa phương thức khơng bao gồm việc vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển hoặc đường thủy nội địa, thì trách nhiệm của người kinh doanh
vận tải đa phương thức được giới hạn bởi số tiền không vượt quá 8,33 SDR cho một
ki-lô-gam trọng lượng cả bì của hàng hóa bị mất mát hoặc hư hỏng.
17


4. Trường hợp mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa xảy ra trong một công đoạn cụ thể
của vận tải đa phương thức, mà ở cơng đoạn đó điều ước quốc tế hoặc pháp luật
quốc gia có quy định một giới hạn trách nhiệm khác, nếu hợp đồng vận tải được ký
riêng cho cơng đoạn đó thì giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa
phương thức đối với mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa sẽ được áp dụng theo quy định
của điều ước quốc tế đó hoặc của pháp luật quốc gia đó.
5. Nếu người kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm về tổn thất
do việc giao trả hàng chậm hoặc tổn thất tiếp theo do giao trả hàng chậm mà không
phải là mất mát hoặc hư hỏng đối với chính hàng hóa đó, thì trách nhiệm của người
kinh doanh vận tải đa phương thức được giới hạn trong số tiền không vượt quá số
tiền tương đương với tiền cước vận chuyển theo hợp đồng vận tải đa phương thức.
6. Toàn bộ trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức sẽ không
vượt quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất tồn bộ hàng hóa.
7. Người kinh doanh vận tải đa phương thức không được hưởng quyền giới hạn
trách nhiệm bồi thường, nếu người có quyền lợi liên quan chứng minh được sự mất
mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng hóa chậm là do người kinh doanh vận tải đa

phương thức đã hành động hoặc không hành động với chủ ý gây ra mất mát, hư
hỏng, chậm trễ đó hoặc đã hành động hoặc không hành động một cách liều lĩnh và
biết rằng sự mất mát, hư hỏng, chậm trễ đó chắc chắn sẽ xảy ra.”
2.3 Trường hợp khơng được hưởng quyền giới hạn trách nhiệm
Giới hạn trách nhiệm là một quy định được đặt ra để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
giữa các bên trong quan hệ kinh doanh thương mại. Trong quá trình kinh doanh, rủi
ro xảy ra là điều không một ai mong muốn, tuy nhiên rủi ro xảy ra và dẫn đến việc
tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh giữa cá nhân, tổ chức bắt buộc phải
bồi thường thiệt hại. Do vậy luật quy định rõ giới hạn của việc chịu trách nhiệm là
đến đâu, hạn mức hưởng quyền và khi nào không được hưởng quyền giới hạn trách
nhiệm là một quy định rất quan trọng khi tranh chấp xảy ra.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 238 Luật Thương mại 2005 quy định về “Thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics không được hưởng quyền giới hạn trách nhiệm”:
“Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không được hưởng quyền giới hạn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nếu người có quyền và lợi ích liên quan chứng minh
được sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm là do thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics cố ý hành động hoặc không hành động để gây ra mất mát, hư hỏng,
chậm trễ hoặc đã hành động hoặc không hành động một cách mạo hiểm và biết rằng
sự mất mát, hư hỏng, chậm trễ đó chắc chắn xảy ra.”
Một ví dụ cụ thể cho trường hợp này như sau: Trường hợp nếu doanh nghiệp tư
nhân N và cơng ty P khơng có thỏa thuận khác về giới hạn chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thì giới hạn trách nhiệm không vượt quá giá trị tổn thất của tồn bộ
hàng hóa. Tuy nhiên nếu có thể chứng minh công ty P cố ý vi phạm pháp luật để tổn
thất lợi nhuận, hoặc chứng minh việc công ty P đã biết nếu chậm trễ giao hàng hóa số
lượng lớn trong thời gian cụ thể đó sẽ gây ảnh hưởng đến doanh thu của doanh
18


nghiệp tư nhân N, thì họ có quyền u cầu bồi thường thiệt hại chính đáng. Cụ thể,
nhu cầu tiêu thụ trà sữa vào dịp lễ 30/4, 1/5 chắc chắn rất lớn. Do hoạt động lâu năm

trong nghề và dự đốn được điều đó, doanh nghiệp N đã đặt hàng và yêu cầu công ty
P giao đúng, đủ số lượng trong thời gian trước đó là đã báo trước một tháng. Tuy
nhiên, P giao trễ và được N phát hiện P đã giao số lượng lớn đơn hàng cho một doanh
nghiệp khác trả giá cao hơn, và vì lợi nhuận trước mắt, công ty P đã vi phạm hợp
đồng và buột phải bồi thường thiệt hại xảy ra:
Thứ nhất, bồi thường hàng hóa hư hỏng vì số lượng lớn trà sữa nếu bán sau lễ sẽ
chậm và gây ứ đọng hàng hóa.
Thứ hai, bồi thường lợi nhuận cho doanh nghiệp tư nhân P đáng lẽ được nhận nếu
bán trong lễ.
Thứ ba, bồi thường giá trị tổn thất thực tế.
Thứ tư, bồi thường những khoản tiền mà doanh nghiệp tư nhân N phải chịu trách
nhiệm trước các hợp đồng, các cửa hàng và khách hàng của họ.
3. Thực trạng, bất cập và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về miễn trách
nhiệm và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
3.1 Thực trạng, bất cập
Thứ nhất, mặc dù Luật thương mại 2005 đã có những quy định chi tiết về những
trường hợp được miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
Tuy nhiên trên thực tiễn áp dụng pháp luật, quy định về miễn trách nhiệm đối với
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics khi tổn thất là do khuyết tật của hàng hóa
( điểm c khoản 1 Điều 237 Luật thương mại 2005) đang gây ra nhiều khó khăn, thiệt
hại cho các bên khi phát sinh tranh chấp. Sở dĩ, khuyết tật của hàng hóa thường sẽ
biểu hiện ở hai loại chính là lỗi nội tỳ ( lỗi mà mắt thường có thể nhận ra được) và lỗi
ẩn tỳ ( lỗi khó có thể phát hiện được bằng mắt thường hoặc máy móc hiện đại). Theo
đó, sẽ khơng có gì tranh cãi nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được miễn
trách nhiệm đối với lỗi ẩn tỳ. Tuy nhiên đối với lỗi nội tỳ, đây là khuyết tật mà các
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics hồn tồn có thể dự đốn được những rủi ro
trong q trình vận chuyển và có thể áp dụng các biện pháp khắc phục, đưa ra các
phương án tối ưu nhất trong quá trình vận chuyển. Theo quan điểm của nhóm, việc
để hàng hóa khuyết tật trong q trình vận chuyển hồn tồn do lỗi của các thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics và việc miễn trách nhiệm trong trường hợp này

theo quy định của Luật thương mại là chưa thực sự hợp lý.
Thứ hai, đối với quy định định mức bồi thường thiệt hại và giới hạn trách nhiệm
của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics vẫn cịn một số bất cập, khó áp dụng
với thực tiễn. Ví dụ trong khoản 3 Điều 5 Nghị định 163/2015/ND-CP về giới hạn
trách nhiệm đã ấn định mức 500 triệu cho mỗi yêu cầu bồi thường, nghĩa là khơng
cần tính đến lượng hàng hóa là bao nhiêu, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
cũng chỉ bồi thường tối đa 500 triệu đồng cho tất cả tổn thất. Quy định này dẫn đến
những điều như sau: việc khống chế mức bồi thường có thể ảnh hưởng tiêu cực đến
tính chất bình đẳng trong hoạt động dịch vụ logistics. Vì nó gián tiếp buộc khách
19


hàng phải khai báo trước giá trị hàng hóa nếu muốn được bồi thường thỏa đáng trong
trường hợp có thiệt hại xảy ra. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp giá trị hàng hóa cũng
là một bí mật kinh doanh của thương nhân, việc khai báo có thể gây ra nhiều hậu quả
bất lợi cho họ. Đồng thời, bên cạnh quy định khống chế mức bồi thường tối đa là 500
triệu, giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cịn được
quy định “khơng vượt q giá trị của hàng hóa đó”. Quy định này càng khơng hợp lý,
trong thực tế có những tổn thất xuất hiện tại thời điểm hàng hóa bị hư hỏng, nhưng có
những tổn thất có tính tương lai, chẳng hạn do hàng hóa bị chậm ảnh hưởng đến thu
nhập hình thành trong tương lai của khách hàng. Vì vậy, quy định này ảnh hưởng đến
quyền lợi của khách hàng thuê dịch vụ logistics.
Thứ ba, theo Nghị định 163/2017/NĐ-CP tại điểm b, Khoản 3, Điều 5 có quy định
“Trường hợp khách hàng đã thơng báo trước về trị giá của hàng hóa và được thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics xác nhận thì giới hạn trách nhiệm sẽ không vượt
quá trị giá của hàng hóa đó.” Ở đây nhóm thấy rằng việc quy định về giới hạn trách
nhiệm thương nhân dịch vụ logistics khi khách hàng thơng báo về về giá trị đơn hàng
cịn đang vướng mắc chỗ “ được thương nhân dịch vụ logistics xác nhận" thì việc xác
nhận này chưa được quy định cụ thể cho việc xác nhận giá trị hàng hoá là được xác
nhận bằng văn bản hay là bằng lời nói,... và khi xảy ra các vấn đề tranh chấp việc xác

định các chứng minh việc xác nhận giá trị hợp đồng giữa các bên còn đang bất cập.
Mặt khác, việc giới hạn trách nhiệm cho thương nhân dịch vụ logistics về vấn đề này
còn bất cập chỗ về khơng vượt q giá trị của hàng hố, việc về này trên cơ sở cho
thấy là hợp lý nhưng vấn đề này cịn khó hiểu về trách nhiệm giới hạn của thương
nhân được xác định trên cơ sở thế nào? Có phải trên cơ sở nguyên tắc bồi thường
thiệt hại hay không? Tuy nhiên trong vấn đề thực tiễn, thương nhân dịch vụ logistics
và khách hàng thường vấn đề e ngại, lo sợ về vấn đề thông báo về giá trị hàng hố do
tính bảo mật trong hoạt động thương mại.
3.2 Kiến nghị
Thứ nhất, theo quan điểm của nhóm, quy định về miễn trách nhiệm đối với thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics khi tổn thất là do khuyết tật của hàng hóa tại điểm
c, khoản 1, Điều 237, Luật thương mại 2005 nên được sửa đổi thành hai nội dung như
sau: trường hợp miễn trách nhiệm đối với lỗi ẩn tỳ: trong trường hợp này, lỗi là do tự
thân hàng hóa đó khơng hề có tác động từ bên ngồi vì vậy mà thương nhân hồn
tồn được miễn trừ trách nhiệm đối với lỗi ẩn tỳ; trường hợp miễn trách nhiệm đối
với lỗi nội tỳ: lỗi nội tỳ này được phát hiện trước khi nhà cung cấp dịch vụ logistics
nhận được hàng hóa hoặc khi có sự kiện bất ngờ gây ra khuyết tật cho hàng hóa mà
thương nhân khơng lường trước được.
Thứ hai, để hồn thiện quy định về giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics và bảo vệ quyền lợi cho bên khách hàng thuê dịch vụ
logistics. Nhóm đề xuất bãi bỏ quy định giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng
đối với mỗi yêu cầu bồi thường, thay thế điểm a, khoản 3, Điều 5 Nghị định
163/2017/NĐ-CP bằng quy định như sau: “Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
20


khác, giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được
giới hạn bằng một đơn vị tính tốn cho mỗi đơn vị hay mỗi kilogram hàng hóa”. Đơn
vị tính tốn và đơn vị hàng hóa được quy định tại các văn bản liên quan đến lĩnh vực
đó. Điều này đồng nghĩa mức bồi thường tối đa sẽ thay đổi tùy theo số lượng hay

khối lượng hàng hóa, nâng cao tính cơng bằng của pháp luật, bảo vệ quyền lợi của
các bên.
Thứ ba, vấn đề về phương thức xác nhận hàng hóa bởi thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics và cách thức tính bồi thường để khơng vượt quá giá trị hàng hóa đã
được xác nhận quả thật là một quy định chưa thật sự cụ thể, nó dường như vẫn cịn
trừu tượng khiến các chủ thể chưa hiểu rõ dẫn đến tranh chấp xảy ra. Theo nhóm,
chúng em đề xuất hoặc là bãi bỏ quy định này và thêm vào đó là quy định về trách
nhiệm chủ yếu vẫn do sự thỏa thuận của đôi bên, hoặc là giữ nguyên quy định đó và
cụ thể hóa bằng phương thức xác nhận cụ thể, cũng như thêm vào đó là bên thứ ba
giám định giá trị của hàng hóa để quy về số tiền bồi thường và hồn tồn giữ bí mật
về giá trị hàng hóa đó. Nếu vấn đề về bí mật giá trị hàng hóa vẫn đặt lên hàng đầu thì
nhóm em kiến nghị nên quy giá trị hàng hóa trong một khoảng xác định, và khoảng
đó sẽ đưa ra mức bồi thường khơng vượt q một giá trị cụ thể nào đó. Ví dụ: giá trị
hàng hóa được tiết lộ là trong khoảng 5 tỷ đến 10 tỷ thì mức bồi thường sẽ khơng
dưới 5 tỷ và nhiều nhất là 8 tỷ phụ thuộc vào mức độ thiệt hại.
4. Kết luận chung
Logistics là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất
hàng hóa và các dịch vụ khác phát triển. Tuy nhiên, hoạt động trong lĩnh vực này
cũng đầy rẫy tính rủi ro và thách thức. Để đảm bảo an toàn pháp lý cho thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics, pháp luật cần có những quy định rõ ràng và chi tiết hơn
về miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm, bởi hiện nay những quy định này chỉ
mới được pháp luật Việt Nam chính thức thừa nhận từ Luật Thương mại 2005. Khi
một hoạt động logistics vượt qua biên giới một quốc gia, nó khơng chỉ chịu sự điều
chỉnh của pháp luật nước nơi dòng logistics xuất phát, mà nó cịn có thể chịu sự điều
chỉnh của pháp luật tại các nước liên quan (ví dụ: nước đến hay nước quá cảnh), hoặc
pháp luật quốc tế. Do vậy, pháp luật Việt Nam về logistics nói chung hay cụ thể là
quy định về miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của thương nhân tham gia
kinh doanh hoạt động logistics cần được mở rộng và thống nhất hơn giữa pháp luật
Việt Nam và pháp luật quốc tế để bảo vệ cho các thương nhân tham gia trong lĩnh vực
này. Từ đó, thương nhân cung cấp dịch vụ logistics sẽ tiết kiệm nhiều thời gian và chi

phí để giải quyết kiện tụng, tranh chấp nhằm bảo vệ quyền lợi của chính mình.
Logistics và những vấn đề xoay quanh về nó rất đa dạng. Vì thế, hiểu và áp dụng
có hiệu quả pháp luật liên quan là một điều hết sức cần thiết đối với hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực này. Việc nghiên cứu, giải thích và hướng dẫn áp dụng chế định
miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm là hướng đi thiết thực, gắn kết sự phát triển
của kinh tế với pháp luật, phát huy được những tiềm năng và thế mạnh của ngành
logistics Việt Nam.
21


×