Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 76 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





Học viên: Phạm Minh Đức





GIỚI HẠN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG LĨNH VỰC BƯU CHÍNH
Ở VIỆT NAM





Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50





LUẬN VĂN THẠC SĨ





Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Như Phát







Hà Nội - 2010
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

1
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ 3
LỜI NÓI ĐẦU 4
1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu 5
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu 6
4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 7
6. Kết cấu của Luận văn 8
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI TRONG LĨNH VỰC BƢU CHÍNH 9
1. Những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong lĩnh vực bƣu
chính 9
1.1 Những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại 9
1.2. Một số vấn đề lý luận về giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại 18

1.3. Những đặc thù của dịch vụ bưu chính liên quan đến trách nhiệm bồi thường 19
2. Kinh nghiệm của Liên minh bƣu chính thế giới và của một số quốc gia về giới hạn trách
nhiệm bồi thƣờng trong lĩnh vực bƣu chính 20
2.1. Kinh nghiêm của Liên minh bưu chính thế giới về giới hạn trách nhiệm bồi
thường trong dịch vụ bưu chính quốc tế 20
2.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về giới hạn trách nhiệm bồi thường trong lĩnh
vực bưu chính 28
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG TRONG DỊCH VỤ
BƢU CHÍNH 31
1. Thực trạng các quy định pháp luật về bồi thƣờng 31
2. Thực trạng về bồi thƣờng của doanh nghiệp bƣu chính 36
2.1. Cách tính mức bồi thường chưa phù hợp 37
2.2. Mức bồi thường bất hợp lý 37
2.3. Một số dịch vụ cộng thêm chưa có quy định bồi thường 42
3. Quy định về bồi thƣờng trong một số lĩnh vực dịch vụ tƣơng tự 44
3.1. Lĩnh vực chuyển phát 44
3.2. Lĩnh vực vận tải đường thuỷ 45
3.3. Lĩnh vực hàng hải 47
3.4. Lĩnh vực hàng không 50
4. Quy định về bồi thƣờng của một số hãng chuyển phát nhanh quốc tế 52
4.1. Quy định về bồi thường của Công ty chuyển phát nhanh DHL 52
4.2. Quy định về bồi thường Công ty chuyển phát nhanh UPS 53
4.3. Quy định về bồi thường Công ty chuyển phát nhanh Fedex 54
4.4. Quy định về bồi thường Công ty chuyển phát nhanh TNT Việt Nam 54
CHƢƠNG III: PHÂN TÍCH CÁC PHƢƠNG THỨC VÀ ĐỀ XUẤT MỨC GIỚI HẠN
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG BƢU CHÍNH 57
1. Phân tích các phƣơng thức xác định mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng trong bƣu
chính 57
1.1 Xác định các dịch vụ cần quy định mức giới hạn trách nhiệm bồi thường 57
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ

bưu chính ở Việt Nam

2
1.2. Phương thức xác định quy định giới hạn bồi thường tối đa và tối thiểu 57
1.3. Phương thức xác định giới hạn trách nhiệm bồi thường dựa theo khối lượng bưu
gửi 59
1.4. Phương thức giới hạn trách nhiệm bồi thường dựa theo mức giá trị tuyệt đối 60
1.5. Phương thức giới hạn trách nhiệm bồi thường dựa theo giá cước dịch vụ 60
2. Đề xuất giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng trong lĩnh vực bƣu chính
2.1. Giải pháp pháp lý 61
2.2. Ấn định dịch vụ áp dụng giới hạn trách nhiệm bồi thường 62
3. Giải pháp xác định mức giới hạn 64
3.1. Đối với dịch vụ bưu chính quốc tế 64
3.2. Dịch vụ bưu chính trong nước 64
4. Tổng hợp đề xuất 72
4.1. Mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với dịch vụ bưu chính (cơ bản
và cộng thêm) 72
4.2. Triển khai thực hiện 73
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

3
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Danh mục bảng, biểu đồ
Trang
Biều đồ II.2: Dịch vụ ấn phẩm liên tỉnh máy bay

Biều đồ III.2: Dịch vụ thƣ ghi số liên tỉnh máy bay


Bảng thống kê các dịch vụ cơ bản và cộng thêm đã có và chƣa có
quy định về bồi thƣờng

Bảng phân tích mức bồi thƣờng thiệt hại của Bƣu chính Thái Lan

Bảng mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng của công ty chuyển phát
nhanh quốc tế DHL

Bảng mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng của công ty chuyển phát
nhanh quốc tế UPS

Bảng mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng của công ty chuyển phát
nhanh quốc tế FEDEX

Bảng mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng của công ty chuyển phát
nhanh quốc tế TNT

Bảng thống kê các dịch vụ cộng thêm

Bảng phân tích ƣu nhƣợng điểm của các phƣơng án

Biểu đồ V1: thƣ ghi số liên tỉnh

Biểu đồ V2: dịch vụ gói nhỏ ghi số liên tỉnh

Biểu đồ V4.2: dịch vụ chuyển phát nhanh EMS

Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam


4
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển nhanh chóng của ngành dịch vụ nói chung và dịch vụ bƣu
chính nói riêng trong những năm trở lại đây đã giúp cho ngƣời sử dụng ngày
càng đƣợc thụ hƣởng nhiều dịch vụ bƣu chính có chất lƣợng cao hơn với chi
phí cạnh tranh. Tuy nhiên, chính sự phát triển nhanh chóng này cũng là
nguyên nhân phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến chất lƣợng dịch vụ cũng
nhƣ đặt ra nhiều vấn đề cần điều chỉnh và thay đổi chính sách để đáp ứng
đƣợc thực tế phát triển.
Theo số liệu báo cáo thống kê năm 2007
1
, có tổng cộng 2246 khiếu nại.
Trong số đó, nhiều khiếu nại có liên quan đến giải quyết bồi thƣờng từ khách
hàng đối với dịch vụ bƣu chính và chuyển phát, đặc biệt là dịch vụ chuyển
phát nhanh. Nhìn chung, cách thức giải quyết khiếu nại, dẫn đến sự không sự
hài lòng từ phía khách hàng. Một trong những lý do chủ yếu cho tình trạng
trên là do khách hàng không đồng tình với mức bồi thƣờng của doanh nghiệp
và cho rằng mức bồi thƣờng là không thoả đáng.
Pháp lệnh Bƣu chính Viễn thông năm 2002 và Nghị định
157/2004/NĐ-CP hƣớng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh BCVT quy định
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời
sử dụng dịch vụ dựa trên cơ sở thiệt hại thực tế nhƣng không vƣợt quá mức
giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng của từng loại dịch vụ theo quy định. Bƣu
chính Việt Nam, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chuyển phát đƣợc tự quy
định mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng nhƣng không thấp hơn mức giới
hạn trách nhiệm bồi thƣờng do Bộ Bƣu chính, Viễn thông quy định.

1

Nguồn: báo cáo thống kê Vụ Bƣu chính – Bộ Thông tin và Truyền thông
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

5
Trên cơ sở thực tiễn và pháp lý trên, việc nghiên cứu quy định về mức
giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng cho dịch vụ bƣu chính là thực sự cần thiết
cho hoạt động quản lý cũng nhƣ hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp trong
giai đoạn hội nhập hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp lệnh Bƣu chính Viễn thông ra đời đã đặt nền tảng mang tính
nguyên tắc về giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng. Trong đó, Pháp lệnh BCVT
đã xác định đối tƣợng và các trƣờng hợp đƣợc bồi thƣờng, các trƣờng hợp
doanh nghiệp đƣợc miễn bồi thƣờng khi có thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, đối
với vấn đề giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng thì hiện chƣa có nghiên cứu và
quy định cụ thể.
Liên quan đến vấn đề và trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong lĩnh
vực bƣu chính, thực tế có thể đã có một số nghiên cứu của doanh nghiệp bƣu
chính Việt Nam về nội dung này. Bản thân chính các doanh nghiệp bƣu chính
hiện nay, cụ thể là Tổng Công ty Bƣu chính Viễn thông cũng đã có nghiên
cứu trƣớc khi công bố mức bồi thƣờng cho khách hàng. Tuy nhiên, những
nghiên cứu của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nhìn chung vẫn chƣa đƣợc
nghiên cứu dƣới góc nhìn từ khách hàng, ngƣời sử dụng dịch vụ.
Cho đến này, doanh nghiệp và ngƣời sử dụng dịch vụ vẫn đang thực
hiện các quy định về bồi thƣờng nhƣ theo thông lệ chung, và theo các thoả
thuận tƣơng đối “áp đặt” từ phía doanh nghiệp trong các Hợp đồng và quy
định nội bộ về bồi thƣờng thiệt hại.
Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu, cùng với thực tiễn công tác tại cơ
quan quản lý chuyên ngành về bƣu chính (Vụ Bƣu chính), tôi cho rằng cần
thiết phải có một nghiên cứu chuyên sâu về mức giới hạn trách nhiệm bồi

thƣờng.
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

6
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Bồi thƣờng khi xảy ra thiệt hại là điều không mong muốn của cả nhà
cung cấp dịch vụ cũng nhƣ ngƣời sử dụng dịch vụ. Thông thƣờng, khi đề cập
đến khía cạnh về bồi thƣờng thiệt hại, một số vấn đề pháp lý cần đặt ra xem
xét bao gồm:
- Các trƣờng hợp nhà cung cấp dịch vụ phải bồi thƣờng
- Trƣờng hợp nhà cung cấp dịch vụ đƣợc miễn trách nhiệm bồi thƣờng;
- Mức độ/ngƣỡng thiệt hại đƣợc bồi thƣờng;
- Giá trị đƣợc bồi thƣờng;
- Mức giới hạn trách trách nhiệm bồi thƣờng.
Có thể thấy nghiên cứu về vấn đề bồi thƣờng cũng là một vấn đề và
phạm vi khá rộng. Bản thân các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cũng nhận
thức đƣợc rằng một mức bồi thƣờng hợp lý không chỉ thúc đẩy sự phát triển
dịch vụ, tăng sức cạnh tranh mà bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời sử dụng
dịch vụ. Chính vì vậy nội dung đƣợc nghiên cứu trong Luận văn này không
nằm ngoài mục đích xây dựng mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng hài hoà
lợi ích và mục tiêu quản lý của cả ba đối tƣợng: ngƣời sử dụng dịch vụ - cơ
quan quản lý nhà nƣớc – doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Theo đó:
- Đối với ngƣời sử dụng dịch vụ: nghiên cứu này hƣớng tới việc đề xuất
mức giới hạn bồi thƣờng hợp lý đảm, bảo quyền lợi tối thiểu của ngƣời sử
dụng, nhằm tạo sự tin tƣởng của ngƣời sử dụng dịch vụ trong lĩnh vực bƣu
chính;
- Đối với doanh nghiệp cung cấp: nghiên cứu này hƣớng tới việc đƣa ra
một mức giới hạn trong phạm vi phù hợp với khả năng thực hiện của doanh
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ

bưu chính ở Việt Nam

7
nghiệp. Đồng thời mức giới hạn bồi thƣờng này sẽ là động lực để doanh
nghiệp phải nâng cao hơn nữa chất lƣợng dịch vụ
- Đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc: nghiên cứu này hƣớng tới việc đƣa
ra một ngƣỡng giới hạn bồi thƣờng cụ thể, thông qua đó cơ quan quản lý nhà
nƣớc chuyên ngành có thể thuận lợi trong việc kiểm tra giám sát cũng nhƣ
phục vụ cho việc thẩm định cấp phép cho doanh nghiệp tham gia thị trƣờng.
4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Nhƣ đã phân tích trên, mục tiêu của Luận văn là hƣớng tới việc nghiên
cứu và đề xuất mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng hài hoà đƣợc lợi ích của
ba bên. Do vậy, phạm vi nghiên cứu của Luận văn này chỉ tập trung vào
nghiên cứu các phƣơng thức xác định mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng
và đề xuất mức giới hạn đạt đƣợc mục tiêu nêu trên. Tuy nhiên, luận văn
không nghiên cứu giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng cho tất cả các dịch vụ bƣu
chính bởi dịch vụ bƣu là dịch vụ rất dạng. Bản thân khái niệm dịch vụ bƣu
chính theo Pháp lệnh Bƣu chính Viễn thông năm 2002 cũng quy định dịch vụ
bƣu chính là dịch vụ đƣợc cung cấp trên mạng bƣu chính công cộng. Nhƣ
vậy, có thể hiểu dịch vụ bƣu chính gồm cả dịch vụ bƣu chính truyền thống
nhƣ thƣ tín, bƣu phẩm, bƣu kiện và các dịch vụ gia tăng cũng nhƣ dịch vụ tài
chính bƣu chính nhƣ chuyển tiền, tiết kiệm bƣu điện. Phạm vi nghiên cứu của
Luận văn này chỉ giới hạn đối với các dịch vụ thu gom vận chuyển và phát
bƣu phẩm bƣu kiện và dịch vụ chuyển phát nhanh, không bao gồm các dịch
vụ tài chính bƣu chính (tiết kiệm bƣu điện, bào hiểm bƣu điện) hay các dịch
vụ bƣu chính lai ghép (datapost).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc các mục tiêu nêu trên, luận văn có sử dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu phổ biến sau:
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ

bưu chính ở Việt Nam

8
Thứ nhất: phƣơng pháp lồng ghép lý thuyết các môn học để phân tích,
đánh giá mô hình đang đƣợc áp dụng để đƣa ra hình thức áp dụng phù hợp
với đối tƣợng nghiên cứu. Phƣơng pháp này giúp cho việc tiếp thu, chọn lọc
cũng nhƣ kế thừa các quy định trƣớc đây phù hợp với yêu cầu nghiên cứu
Thứ hai: phƣơng pháp phân tích lựa chọn lý thuyết đã tiếp thu đƣợc
trong quá trình học để xây dựng cơ sở lý luận. Phƣơng pháp này giúp cho
Luật văn đạt đƣợc giá trị học thuật bên cạnh giá trị ứng dụng thực tiễn.
Thứ ba: phƣơng pháp so sánh điều tra thu thập, xử lý, phân tích thực
tiễn và lựa chọn mô hình thực tế đang đƣợc áp dụng để phân tích so sánh.
Phƣơng pháp này có vai trò hết sức quan trọng bởi nội dung nghiên cứu tiếp
cận với các kinh nghiệm quốc tế và của các lĩnh vực khác.
6. Kết cấu của Luận văn
Luận văn đƣợc kết cấu làm 04 (năm) chƣơng. Bên cạnh những chƣơng
mang tính truyền thống nhƣ lý luận chung, phân tích thực trạng và đề xuất, do
đặc thù của Luận văn tiếp cận vấn đề mới nên đòi hỏi cần có sự nghiên cứu và
tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế cũng nhƣ kinh nghiệm từ các lĩnh vực tƣơng tự
khác. Cụ thể Luật văn bao gồm các chƣơng sau:
Chƣơng I: Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong lĩnh
vực bƣu chính
Chƣơng II: Thực trạng về trách nhiệm bồi thƣờng trong dịch vụ bƣu chính
Chƣơng III: Phân tích các phƣơng thức và đề xuất về giới hạn trách nhiệm bồi
thƣờng thiệt hại đối với dịch vụ bƣu chính
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

9
CHƢƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI TRONG LĨNH VỰC BƢU CHÍNH
1. Những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong
lĩnh vực bƣu chính
1.1 Những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
Trƣớc hết có thể hiểu yêu cầu bồi thƣờng là một trong các quyền chính
đáng để bảo về quyền dân sự. Chế định về bồi thƣờng là chế định rất rộng
không chỉ trong Luật Dân sự mà còn trong thƣơng mại xuất hiện ở hầu hết các
pháp luật chuyên ngành. Là một trong các phƣơng thức xác định trách nhiệm
rất phổ biến và hữu hiệu trong hoạt động dân sự, kinh tế, thƣơng mại.
Mặc dù Bồi thƣờng thiệt hại trong các lĩnh vực khác nhau là không giống
nhau nhƣng về lý luận cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại về cơ
bản đều có 04 yếu tố sau:
Thứ nhất: Có hành vi thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự theo quy
định pháp luật hoặc theo thoả thuận.
Thứ hai: Có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại này có thể là thiệt hại hữu hình
hoặc vô hình. Thiệt hại hữu hình là thiệt hại có thể tính toán và định lƣợng
đƣợc.
Thứ ba: Có lỗi của ngƣời không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ dân sự. Lỗi này có thể là lỗi vô ý hoặc lỗi cố ý.
Thứ tƣ: Có mối quan hệ nhân quả giữa yếu tố lỗi và thiệt hại. Nói một
cách khác, chính lỗi của bên vi phạm là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những
thiệt hại của bên bị vi phạm.

Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

10
Về hành vi thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự theo quy định
pháp luật hoặc theo thoả thuận:

Hành vi này có thể là việc không thực hiện nghĩa vụ, chậm thực hiện
nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Nghĩa vụ trong trƣờng hợp này
đƣợc hiểu là nghĩa vụ mà các bên có thoả thuận với nhau hoặc nghĩa vụ mà
các bên đƣơng nhiên phải thực hiện theo quy định pháp luật. Trong Hợp đồng
cung cấp dịch vụ bƣu chính, về phía nhà cung cấp, nghĩa vụ ở đây có thể hiểu
là nghĩa vụ cung cấp dịch vụ đúng tiêu chuẩn chất lƣợng, quy trình, đúng thời
hạn và đảm bảo an toàn cho vật gửi.
Về thiệt hại xảy ra:
Về mặt lý luận, thiệt hại có thể phân chia thành một số nhóm bao gồm:
Một là: Thiệt hại hữu hình, thiệt hại vô hình; Hai là: Thiệt hại trực tiếp, thiệt
hại gián tiếp; Ba là: Thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần.
Do bản chất của lĩnh vực bƣu chính là việc thu gom vận chuyển và phát
bƣu phẩm bƣu kiện nên trƣờng hợp xảy ra phát chậm, hƣ hại hay mất mát có
thể dẫn đến những hậu quả cả trực tiếp và gián tiếp cho khách hàng. Ví dụ
dƣới đây sẽ làm rõ hơn thiệt hại mà khách hàng có thể phải gánh chịu nếu xảy
ra rủi ro trong hoạt động cung cấp dịch vụ bƣu chính. Ví dụ: khi khách hàng
nhở chuyển phát hộ chiếu từ Thành Phố Hồ Chính Minh ra Hà Nội đề làm thủ
tục xin cấp thị thực. Nếu nhà cung cấp chuyển phát chậm thời gian hay làm
mất hộ chiếu có thể dẫn đến việc khách hàng không thể làm thủ tục xin thị
thực, qua đó gián tiếp dẫn đến việc lỡ chuyền công tác và có thể bỏ lỡ việc ký
kết Hợp đồng.
Vậy, trƣờng hợp này khách hàng có đƣợc bồi thƣờng do việc bị lỡ
chuyến công tác và bị huỷ Hợp đồng không? Nói một cách rộng hơn, liệu
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

11
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bƣu chính có trách nhiệm phải bồi thƣờng đối
với những thiệt hại gián tiếp không?
Về hành vi có lỗi:

Hành vi có lỗi, theo quy định tại Điều 309 BLDS thì "Ngƣời không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách
nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trƣờng hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác. Khoản 1 Điều 309 nói trên quy định lỗi do
hành vi không thực hiện nghĩa vụ dân sự thì ngƣời có hành vi đó bị coi là có
lỗi. Theo quy định của khoản 2 Điều 309 BLDS thì nội dung của khoản này
có ý nghĩa viện dẫn trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự ngoài
hợp đồng. Khoản 2 Điều 309 quy định: "Cố ý gây thiệt hại là trƣờng hợp một
ngƣời nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho ngƣời khác mà vẫn
thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhƣng để mặc cho thiệt hại
xảy ra". Về mặt khách quan, quy định trên đã dự liệu trƣờng hợp ngƣời gây
thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho ngƣời khác mà
vấn thực hiện, cho dù ngƣời đó mong muốn hoặc không mong muốn nhƣng
đã có thái độ để mặc cho thiệt hại xảy ra thì ngƣời đó phải chịu trách nhiệm
dân sự về hành vi có lỗi cố ý của mình. Về mặt chủ quan, ngƣời gây thiệt hại
khi thực hiện hành vi gây hại luôn nhằm mục đích có thiệt hại xảy ra cho
ngƣời khác và đƣợc thể hiện dƣới hai mức độ: Một là Mong muốn có thiệt hại
xảy ra; Hai là Không mong muốn có thiệt hại, nhƣng lại để mặc cho thiệt hại
xảy ra. Mức độ thể hiện ý chí hành vi của ngƣời cố ý gây thiệt hại trong
trƣờng hợp ngƣời đó nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho ngƣời
khác mà vẫn thực hiện, thì phải chịu trách nhiệm dân sự do lỗi cố ý là nguyên
nhân của thiệt hai.
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

12
Một ngƣời nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho ngƣời
khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhƣng để mặc
cho thiệt hại đó xảy ra thì lỗi của ngƣời gây thiệt hại là lỗi cố ý. Những yếu tố
liên quan đến hình thức lỗi cố ý gây thiệt hại đƣợc thể hiện ở những mức độ

khác nhau, do biểu lộ ý chí của chủ thể đã là yếu tố quyết định hình thức lỗi.
Khi xác định và phân tích yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự (TNDS)
ngoài hợp đồng, cần thiết phải đặt yếu tố đó trong mối liên hệ với những sự
kiện pháp lý khác, mà rõ nét hơn cả là sự biến pháp lý tuyệt đối và sự biến
pháp lý tƣơng đối là những căn cứ làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan
hệ pháp luật dân sự. Sự biến pháp tƣơng đối là một sự kiện pháp lý mà sự
khởi phát của nó do hành vi của con ngƣời tác động dƣới hình thức lỗi vô ý,
do vậy ngƣời có hành vi tạo ra sự kiện đó phải bồi thƣờng thiệt hại theo
nguyên tắc bồi thƣờng toàn bộ thiệt hại. Trong khoa học pháp lý các nhà luật
học đều thừa nhận sự biến pháp lý tƣơng đối là sự biến do con ngƣời tác
động, còn sự thay đổi và chấm dứt của nó con ngƣời không kiểm soát đƣợc.
Nhƣ vậy, hành vi tạo ra sự biến pháp lý tƣơng đối là hành vi có lỗi và là hành
vi trái pháp luật. Theo khoản 2 Điều 309 BLDS. lỗi vô ý đƣợc xác định là
"trƣờng hợp một ngƣời không thấy trƣớc hành vi của mình có khả năng gây
thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trƣớc thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy
trƣớc hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhƣng cho rằng thiệt hại sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn đƣợc". Ngƣời gây thiệt hại đã không
mong muốn, không để mặc cho thiệt hại xảy ra mà là do không kiểm soát
đƣợc diễn biến của sự kiện do hành vi vô ý của mình tạo ra thì ngƣời có hành
vi đó phải bồi thƣờng.
Khi xác định, phân tích sự biến pháp lý cần làm rõ sự biến pháp lý
tuyệt đối không chứa đựng yếu tố lỗi dƣới bất kỳ hình thức nào. Bởi vì theo
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

13
nhận thức của các nhà nghiên cứu luật học về mặt lý luận, thì sự biến pháp lý
tuyệt đối là sự biến của một sự kiện phát sinh, thay đổi, chấm dứt không phụ
thuộc vào ý thức của con ngƣời - ý thức của con ngƣời không kiểm soát đƣợc
sự kiện đó. Sự biến pháp lý tuyệt đối có ý nghĩa pháp lý đặc thù, bởi vì sự

biến đó đƣợc đặt trong mối liên hệ về không gia và thời gian cụ thể, theo đó
trách nhiệm dân sự không phát sinh đối với một hoặc hai bên chủ thể của
quan hệ đó. Nhƣ vậy, có thể nhận định rằng lỗi vô ý luôn tồn tại trong sự biến
pháp lý tƣơng đối, còn lỗi thuộc mọi hình thức không thể tồn tại trong sự biến
pháp lý tuyệt đối. Sự nhận thức trên có ý nghĩa về mặt lý luận trong việc xác
định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.
2

Điều 621 BLDS qui định trách nhiệm hỗn hợp nhƣng trách nhiệm hỗn
hợp đƣợc loại trừ "nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của ngƣời bị thiệt hại,
thì ngƣời gây thiệt hại không phải bồi thƣờng". Theo qui định trên, hình thức
lỗi của ngƣời bị thiệt hại không cần phải xác định, mà lỗi hiểu theo nghĩa
"hoàn toàn" thuộc về ngƣời bị thiệt hại. Áp dụng quy định này trong việc giả
quyết việc bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng phù hợp với hoàn cảnh luật
định, thì còn cần phải làm rõ những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, thiệt hại xảy ra hoàn tòan do lỗi của ngƣời bị thiệt hại, thì
ngƣời gây thiệt hại không phải bồi thƣờng. Lỗi của ngƣời bị thiệt hại có thể
do vố ý hoặc cố ý nhƣng phải xác định đƣợc lỗi đó hoàn toàn thuộc về ngƣời
bị thiệt hại, theo đó ngƣời gây thiệt hại phải là ngƣời hoàn toàn không có lỗi
thuộc hình thức này hay hình thức khác, ở mức độ này hay ở mức độ khác thì
ngƣời có đó không phải bồi thƣờng. Ngƣời gây thiệt phải chứng minh đƣợc là
mình hoàn toàn không có lỗi, mà lỗi hoàn toàn thuộc về phía ngƣời bị gây
thiệt hại. Mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra

2
Theo quan điểm của TS. Phùng Trung Tập (Trƣờng đại học Luật Hà Nội)
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

14

luôn luôn xác định đƣợc trong một thiệt hại cụ thể. Nhƣng trách nhiệm pháp
lý có phát sinh ở ngƣời có hành vi gây thiệt hại hay không còn tùy thuộc vào
sự kiện xảy ra hoàn tòan hay không hoàn toàn do lỗi của ngƣời bị thiệt hại để
có cơ sở quy trách nhiệm dân sự cho ngƣời có hành vi gây thiệt hại. Nếu
ngƣời gây thiệt hại, thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm dân sự tƣơng ứng với
mức độ lỗi của mình.
Thứ hai, trong BLDS không có điều luật nào qui định về mức độ lỗi,
mà chỉ qui định tại Điều 309 về hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Việc áp
dụng hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Việc áp dụng Điều 621 BLDS trong
việc giải quyết trách nhiệm dân sự hỗn hợp đƣợc dựa trên mức độ lỗi nhƣ thế
nào. Lỗi không tự nó có vị trí độc lập với các yếu tố khác trong việc xác định
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Hình thức lỗi cũng không phải là không
thể xác định. Theo nguyên tắc chung của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng,
thì hình thức lỗi nếu xét về ngƣời có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại không
ảnh hƣởng tới mức độ và trách nhiệm bồi thƣờng của ngƣời đó. Ngƣời gây
thiệt hại dù có lỗi cố ý hay có lỗi vô ý khi gây thiệt hại cho ngƣời khác thì
ngƣời đó cũng phải bồi thƣờng toàn bộ thiệt hại do hành vi có lỗi của mình
gây ra. Không vì ngƣời gây thiệt hại có lỗi vô ý hoặc cố ý trong khi gây thiệt
hại mà mức bồi thƣờng tăng hay giảm tƣơng ứng. Tuy nhiên, trong những
trƣờng hợp cá biệt có điều kiện luật định, thì ngƣời gây thiệt hại ngoài hợp
đồng có thể đƣợc miễn giảm mức bồi thƣờng (do Tòa án xem xét quyết định).
Những trƣờng hợp phổ biến trong việc miễn giảm mức bồi thƣờng cho ngƣời
gây thiệt hại thƣờng phát sinh trong các trƣờng hợp sau đây:
Một là: Ngƣời gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với
khả năng kinh tế trƣớc mắt và lâu dài của mình (Khoản 2 điều 610);
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

15
Hai là: Ngƣời gây thiệt hại và ngƣời bị thiệt hại thỏa thuận với nhau về

mắc bồi thƣờng thấp hơn thiệt hại.
Trƣờng hợp thứ nhất, pháp luật qui định ngƣời gây tiệt hại bồi thƣờng
thấp hơn thiệt hại do hành vi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với điều kiện
bồi thƣờng của ngƣời gây thiệt hại. Qui định này đã loại trừ ngƣời gây thiệt
hại có lỗi cố ý và pháp luật không qui định xem xét để giảm mức bồi thƣờng.
Tuy nhiên trong trƣờng hợp ngƣời gây thiệt hại có lỗi cố ý nhƣng có sự thỏa
thuận với ngƣời bị thiệt hại về mức bồi thƣờng thấp hơn thiệt hại, nếu thỏa
thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội và đƣợc Tòa án thừa nhận, thì
ngƣời gây thiệt hại do lỗi cố ý đƣợc miễn giảm phần bồi thƣờng thiệt hại do
mình gây ra, thuộc về trƣờng hợp thứ hai.
Thứ ba, Điều 621 BLDS qui định về trách nhiệm hỗn hợp trong trƣờng
hợp ngƣời bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì ngƣời gây thiệt
hại chỉ phải bồi thƣờng tƣơng ứng với mức độ lỗi của mình. Trong BLDS của
nƣớc CHXHCN Việt nam không có qui định về mức độ lỗi, di vậy việc xác
định trách nhiệm hỗn hợp trong trƣờng hợp cả ngƣời gây thiệt hại và ngƣời bị
thiệt hại đều có lỗi gây ra thiệt hại thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm dân sự
tƣơng ứng với mức độ lỗi của mình. Mức độ lỗi trong trƣờng hợp này đƣợc
xác định dựa trên những cơ sở lý luận pháp luật hình sự trong việc phân biệt
mức độ lỗi vô ý vì quá cẩu thả, vô ý vì quá tự tin của một ngƣời mà gây ra
thiệt hại thì tƣơng ứng với nó mức bồi thƣờng thiệt hại có khác nhau. Nhƣ
cách đặt vấn đề ở phần đầu bài viết này, thì lỗi phản ánh yếu tố tâm lý của con
ngƣời, có tác động trực tiếp đến hành vi của ngƣời đó và thiệt hại xảy ra do
hành vi vô ý vì cẩu thả, vô ý vì quá tự tin mà gây ra thiệt hại đã phản ánh yếu
tố tâm lý chủ quan của ngƣời đó. Việc xác định trách nhiệm hỗn hợp căn cứ
vào mức độ lỗi của mỗi bên đã có tính thuyết phục, bởi tính hợp lý của cách
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

16
xác định đó. Qua phân tích trên, chúng tôi đã loại trừ trƣờng hợp cả ngƣời bị

thiệt hại và ngƣời gây thiệt hại đều có lỗi cố ý trong việc gây thiệt hại, mong
muốn thiệt hại xảy ra cho nhau và cho chính bản thân mình.
Khi phân tích yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thƣơng thiệt hại ngoài
hợp đồng cần thiết phải hiểu rõ quy định tại Điều 621 BLDS: "Nếu thiệt hại
xảy ra hoàn toàn do lỗi của ngƣời bị thiệt hại, thì ngƣời gây thiệt hại không
phải bồi thƣờng".
a. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của ngƣời bị thiệt hại cho dù lỗi
đó là vô ý hay cố ý, mà ngƣời gây thiệt hại hoàn toàn không có lỗi thì ngƣời
gây thiệt hại không phải bồi thƣờng. Trƣờng hợp này phù hợp với việc gây
thiệt hại trong tình huống bất ngờ.
b. Ngƣời gây thiệt hại có lỗi vô ý và ngƣời bị thiệt hại cũng có lỗi vô ý
trong việc gây ra thiệt hại thì trách nhiệm này là trách nhiệm hỗn hợp.
c. Ngƣời gây thiệt hại có lỗi vô ý, ngƣời bị thiệt hại có lôi cố ý thì
ngƣời gây thiệt hại không phải bồi thƣờng.
Nhƣ vậy, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của ngƣời bị thiệt hại cho dù
lỗi đó có ở hình thức này hay hình thức khác, ở mức độ này hay mức độ khác
thì ngƣời gây thiệt hại không có trách nhiệm bồi thƣờng. Tuy nhiên đối với
lĩnh vực dịch vụ, xuất phát từ thói quen và đặc thù kinh doanh, việc thực hiện
không đúng với cam kết với khách hàng đƣợc xem là có lỗi. Cụ thể là, việc
thực hiện không đúng cam kết với khách hàng có thể bao gồm:
Thứ nhất: Chuyển phát chậm thời gian cam kết, thời gian cam kết ở đây
đƣợc hiểu là thời gian toàn trình cung cấp dịch vụ mà doanh nghiệp phải công
bố theo quy định pháp luật;
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

17
Thứ hai: Làm mất mát, hƣ hại bƣu gửi. Việc mất mất mát, hƣ hại bƣu gửi
có thể xảy ra tại bất cứ giai đoạn nào trong qúa trình vận chuyển, xử lý bƣu
gửi.

Thứ ba: Dịch vụ cung cấp không đáp ứng đƣợc sự hài lòng với khách
hàng. Sự không hài lòng có thể xuất phát từ cách thức phục vụ của các nhân
viên chuyển phát, nhân viên giao dịch.
Hầu hết các doanh nghiệp bƣu chính thừa nhận việc không thực hiện
đúng cam kết với khách hàng là do lỗi của doanh nghiệp.
Về mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại:
Về mặt lý luận có thể hiểu mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại
nghĩa là lỗi chính là nguyên nhân dẫn tới các thiệt hại phát sinh trên thực tế.
Trong lĩnh vực bƣu chính, việc quản lý quá trình vận chuyển, khác một cách
không cẩn thận, đúng quy trình có khả năng làm thất lạc các bƣu gửi của
khách hàng.
Về phía khách hàng, họ không quan tâm tới quy trình khai thác của
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bởi khi sử dụng dịch vụ thì trách nhiệm bảo
vệ an toàn cho bƣu gửi và chuyển phát đúng cam kết luôn thuộc về doanh
nghiệp cung cấp.
Có thể thấy, trong mọi trƣờng hợp nếu khách hàng chứng minh đƣợc
mình đã sử dụng dịch vụ và doanh nghiệp cung cấp không chứng minh đƣợc
việc đã phát bƣu gửi thì có thể coi rằng doanh nghiệp có lỗi dẫn đến việc làm
mất bƣu gửi gây thiệt hại vật chất cho khách hàng.
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

18
Đối với lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ bƣu chính nói riêng, các
quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại có những đặc thù nhất định khác
với quy định bồi thƣờng trong Luật Dân sự. Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
vừa là để bảo vệ lợi ích của khách hàng vừa là hình thức khẳng định chất
lƣợng, uy tín của doanh nghiệp. Do vậy, nhiều trƣờng hợp doanh nghiệp bồi
thƣờng cho khách hàng không phải dựa trên lỗi mà dựa trên sự thoả mãn của
khách hàng với dịch vụ.

1.2. Một số vấn đề lý luận về giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
Nếu hiểu một cách đơn giản theo nghĩa thông thƣờng, giới hạn trách
nhiệm tức là mức bồi thƣờng tối đa hoặc tối thiểu mà ngƣời phải bồi thƣờng
phải gánh chịu. Đôi khi trong nhiều lĩnh vực, ngƣời ta có thể gọi là giới hạn
trần hoặc giới hạn sàn.
Về mặt lý luận, giới hạn dƣới (sàn) thƣờng đƣợc đặt ra trong trƣờng
hợp xác định một mức bồi thƣờng tối thiểu mà nhà cung cấp phải trả trong
trƣờng hợp có xảy ra sự kiện mà nhà cung cấp có nghĩa vụ phải bồi thƣờng.
Mức giới hạn này đặt ra nhằm để bảo vệ ngƣời bị vi phạm, giúp cho ngƣời bị
vi phạm trong bất cứ trƣờng hợp nào cũng đƣợc hƣởng một mức bồi thƣờng
tối thiếu nhất định. Nhƣ vậy, nếu quy định theo hƣớng mức bồi thƣờng tối
thiểu thì về mặt lý luận mà nói, trong 04 yếu tố xác định trách nhiệm bồi
thƣờng đã bỏ qua một yếu tố là thiệt hại. Nói một cách khác, trong trƣờng hợp
có hành vi vi phạm thì ngƣời bị vi phạm sẽ luôn đƣợc bồi thƣờng ở một mức
độ nhất định ngay cả khi chƣa chứng minh thiệt hại xảy ra hoặc xảy ra đến
mức độ nào. Việc quy định mức giới hạn tối thiểu cũng giúp cho bên thực
hiện nghĩa vụ có trách nhiệm hơn với việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

19
Trong khi đó giới hạn trên (trần) đƣợc đặt ra trong trƣờng hợp quy định
mức tối đa mà bên vi phạm phải gánh chịu thay vì phải chịu những mức bồi
thƣờng không xác định giá trị. Chính vì vậy, mức bồi thƣờng này chủ yếu là
nhằm để bảo vệ ngƣời vi phạm nghĩa vụ trong trƣờng hợp ngƣời bị vi phạm
yêu cầu mức bồi thƣờng quá cao, không phù hợp với thực tế.
Việc xác định mức giới hạn bồi thƣờng trần hay sàn phụ thuộc vào từng
lĩnh vực, giao dịch dân sự và mong muốn, định hƣớng bảo vệ bên bị vi phạm
hay bên vi phạm.
1.3. Những đặc thù của dịch vụ bƣu chính liên quan đến trách nhiệm

bồi thƣờng
Trong mối quan hệ hợp đồng dịch vụ giữa các nhà cung cấp dịch vụ và
ngƣời sử dụng dịch vụ thì điều khoản về bồi thƣờng khi có thiệt hại xảy ra
thƣờng là quy định rất cần thiết nhằm tránh những tranh chấp có thể xảy ra
khi một trong các bên không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình dẫn đến việc
gấy thiệt hại cho phía bên kia. Tuy nhiên, không phải lúc nào các bên trong
quan hệ hợp đồng cũng đều ý thức đầy đủ đƣợc vấn đề này khi giao kết hợp
đồng nên vẫn thƣờng xuyên có nhiều tranh chấp xảy ra.
Do đặc tính của ngành dịch vụ bƣu chính là bên cung cấp thƣờng đƣa
ra hợp đồng mẫu và có tính áp đặt trƣớc nên nhà nƣớc cần thiết có sự can
thiệp đối với một số vấn đề trong đó có việc quy định về trách nhiệm bồi
thƣờng thiệt hại giữa các bên. Ngoài ra, vật gửi là đối tƣợng của dịch vụ bƣu
chính cũng vô cùng đa dạng. Có những vật gửi là những tài sản có thể định
lƣợng đƣợc. Tuy nhiên, có nhiều loại tài sản là các giấy tờ vốn rất có giá trị
nhƣng lại rất khó trong việc định giá, ví dụ nhƣ: hộ chiếu, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất … Chính vì vậy, trách nhiệm bảo quản và cung cấp dịch
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

20
vụ đúng tiêu chuẩn là vô cùng quan trọng. Bên cạnh ý thức của nhà cung cấp
dịch vụ, việc ban hành các chính sách trong đó có quy định về mức giới hạn
trách nhiệm bồi thƣờng là thực sự cần thiết để cải thiện hơn nữa chất lƣợng
dịch vụ.
Theo số liệu báo cáo thống kê năm 2005 có tổng cộng 2246 khiếu nại
trong đó nhiều khiếu nại có liên quan đến giải quyết bồi thƣờng từ khách hàng
đối với dịch vụ bƣu chính và chuyển phát, đặc biệt là dịch vụ chuyển phát
nhanh thực sự là một vấn đề cần đƣợc quan tâm. Nhiều trƣờng hợp, việc giải
quyết khiếu nại và bồi thƣờng bị kéo dài và phần lớn không có sự hài lòng từ
phía khách hàng. Một trong những lý do chủ yếu cho tình trạng trên là do

khách hàng không đông tình với mức bồi thƣờng của doanh nghiệp và cho
rằng mức bồi thƣờng là không thoả đáng.
Pháp lệnh Bƣu chính Viễn thông năm 2002 và Nghị định
157/2004/NĐ-CP đã quy định Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có trách nhiệm
bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời sử dụng dịch vụ dựa trên cơ sở thiệt hại thực tế
nhƣng không vƣợt quá mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng của từng loại
dịch vụ theo quy định. Bƣu chính Việt Nam, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
chuyển phát đƣợc tự quy định mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng nhƣng
không thấp hơn mức giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng do Bộ Bƣu chính, Viễn
thông quy định.
2. Kinh nghiệm của Liên minh bƣu chính thế giới và của một số quốc gia
về giới hạn trách nhiệm bồi thƣờng trong lĩnh vực bƣu chính
2.1. Kinh nghiêm của Liên minh bƣu chính thế giới về giới hạn trách
nhiệm bồi thƣờng trong dịch vụ bƣu chính quốc tế
Xét ở khía cạnh tầm ảnh hƣởng, dịch vụ bƣu chính là dịch vụ mang tính
liên kết nối mang tính toàn cầu. Một bƣu gửi đƣợc gửi từ quốc gia này sang
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

21
quốc gia khác chịu sự điều chỉnh theo quy định pháp luật của không chỉ giữa
hai quốc gia mà còn chịu sự điều chỉnh của các quy định mang tính toàn cầu.
Bƣu chính Việt Nam là thành viên của Liên minh Bƣu chính thế giới (UPU),
mọi hoạt động bƣu chính quốc tế của bƣu chính Việt Nam đều tuân thủ các
thể lệ, quy định của UPU. Trong hệ thống các văn bản, quy định của Liên
minh bƣu chính thế giới, quy định về bồi thƣờng đƣợc thể hiện chủ yêu trong
Công ƣớc Bƣu chính thế giới và Thể lệ Bƣu phẩm, Thể lệ Bƣu kiện.
Công ƣớc Bƣu chính thế giới:
Công ƣớc Bƣu chính thế giới là thoả thuận, cam kết chung của cơ quan
quản lý bƣu chính các nƣớc và vùng lãnh thổ trên phạm vi toàn cầu. Giống

nhƣ đạo luật chung giữa các quốc gia, Công ƣớc có giá trị pháp lý bắt buộc áp
dụng cao nhất, quy định về nghiệp vụ cung cấp dịch vụ bƣu chính giữa các
nƣớc thành viên. Công ƣớc quy định những nguyên tắc cơ bản trong nghiệp
vụ cung cấp dịch vụ bƣu chính giữa các quốc gia thành viên trong đó có các
quy định về tiêu chuẩn chất lƣợng. Trên cơ sở các nguyên tắc, quy định trong
Công ƣớc, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải tuận thủ đối với các dịch
vụ quốc tế và đƣợc khuyến nghị áp dụng đối với các dịch vụ trong nƣớc. Tiêu
chuẩn và chỉ tiêu chất lƣợng dịch vụ đƣợc quy định trong Công ƣớc nhƣ sau:
Một là : Bƣu chính các nƣớc xây dựng và công bố tiêu chuẩn và chỉ
tiêu phát đối với bƣu phẩm và bƣu kiện từ quốc tế đến.
Hai là : Tiêu chuẩn và chỉ tiêu này, thƣờng gia tăng về thời gian do yêu
cầu về việc làm thủ tục hải quan, phải không kém thuận lợi hơn các tiêu
chuẩn và chỉ tiêu áp dụng đối với bƣu gửi tƣơng tự của dịch vụ trong nƣớc.
Ba là : Bƣu chính nƣớc gốc cũng phải xây dựng và công bố tiêu chuẩn
toàn trình đối với bƣu phẩm ƣu tiên và bƣu phẩm máy bay cũng nhƣ đối với
bƣu kiện và bƣu kiện thuỷ bộ.
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

22
Bốn là : Bƣu chính các nƣớc phải đánh giá việc áp dụng các tiêu chuẩn
chất lƣợng dịch vụ này.
Trừ các trƣờng hợp thuộc diện đƣợc miễn trừ bồi thƣờng, Bƣu chính
các nƣớc phải chịu trách nhiệm đối với:
Thứ nhất : trƣờng hợp mất, mất cắp hoặc hƣ hại bƣu phẩm ghi số, bƣu
kiện thƣờng và bƣu gửi khai giá;
Thứ hai : trƣờng hợp mất bƣu gửi có chứng nhận phát;
Thứ ba : trƣờng hợp chuyển hoàn bƣu kiện mà không ghi rõ lý do
không phát đƣợc;
Theo nguyên tắc chung, Bƣu chính các nƣớc không phải chịu trách

nhiệm đối với những bƣu gửi không đƣợc quy định tại các điểm 1.1.1 và 1.1.2
và không phải chịu trách nhiệm trong bất kỳ trƣờng hợp nào mà Công ƣớc
này không quy định.
Đối với bƣu phẩm ghi số, bƣu kiện thƣờng và bƣu gửi khai giá bị mất
hoặc bị hƣ hại hoàn toàn do trƣờng hợp bất khả kháng mà không có bồi
thƣờng thì ngƣời gửi đƣợc trả lại các khoản cƣớc đã trả, trừ cƣớc khai giá.
Công ƣớc cũng có quy định đối với mức giới hạn trần đối với các bƣu gửi
này, cụ thể nhƣ sau: Tiền bồi thƣờng phải trả không vƣợt quá số tiền quy định
trong Thể lệ Bƣu phẩm và Thể lệ Bƣu kiện.
Trong các trƣờng hợp liên quan đến trách nhiệm, những thiệt hại gián
tiếp và những nguồn lợi không thực hiện đƣợc không đƣợc tính vào khoản
tiền bồi thƣờng phải trả.
Ngoài ra, Công ƣớc đã quy định một nguyên tắc là tất cả các điều
khoản liên quan đến trách nhiệm của Bƣu chính các nƣớc là những quy định
bắt buộc thực hiện, không có trƣờng hợp ngoại lệ và phải thực hiện đầy đủ.
Trong mọi trƣờng hợp, kể cả trƣờng hợp phạm lỗi nghiêm trọng, Bƣu chính
các nƣớc không phải chịu trách nhiệm cao hơn mức giới hạn trách nhiệm quy
định trong Công ƣớc và các Thể lệ. Có thể thấy Công ƣớc Bƣu chính thế giới
thiên về bảo vệ doanh nghiệp bƣu chính, mà cụ thể là quy định mức giới hạn
bồi thƣờng tối đa cho các doanh nghiệp bƣu chính.
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

23
Một số quy định cụ thể của Công ước Bưu chính thế giới đối với một số
dịch vụ:
Bƣu phẩm ghi số
Nếu bƣu phẩm ghi số bị mất, bị mất cắp hoặc bị hƣ hại hoàn toàn, ngƣời
gửi đƣợc bồi thƣờng một khoản tiền theo quy định trong Thể lệ Bƣu phẩm.
Nếu ngƣời gửi đòi một số tiền ít hơn khoản tiền quy định trong Thể lệ Bƣu

phẩm, Bƣu chính các nƣớc có thể trả số tiền thấp hơn này và nhận lại, trên cơ
sở này, số tiền hoàn trả từ Bƣu chính nƣớc liên quan.
Nếu bƣu phẩm ghi số bị mất cắp một phần hoặc bị hƣ hại một phần,
ngƣời gửi đƣợc bồi thƣờng một khoản tiền, về nguyên tắc, bằng giá trị thực tế
của phần bị mất cắp hoặc hƣ hại.
Bƣu phẩm có chứng nhận phát
Nếu bƣu phẩm có chứng nhận phát bị mất, bị mất cắp hoàn toàn hoặc bị
hƣ hại hoàn toàn, ngƣời gửi sẽ chỉ đƣợc hoàn lại các khoản cƣớc đã trả.
Bƣu kiện thƣờng
Nếu một bƣu kiện bị mất, bị mất cắp hoàn toàn hoặc hƣ hại hoàn toàn,
ngƣời gửi đƣợc bồi thƣờng một khoản tiền theo quy định trong Thể lệ Bƣu
kiện. Nếu ngƣời gửi đòi một số tiền ít hơn khoản tiền quy định trong Thể lệ
Bƣu kiện, Bƣu chính các nƣớc có thể trả số tiền thấp hơn này và nhận lại, trên
cơ sở này, số tiền hoàn trả từ Bƣu chính nƣớc liên quan.
Nếu bƣu kiện bị mất cắp một phần hoặc bị hƣ hại một phần, ngƣời gửi đƣợc
bồi thƣờng một khoản tiền, về nguyên tắc, bằng giá trị thực tế của phần bị mất
cắp hoặc bị hƣ hại.
Bƣu chính các nƣớc có thể thoả thuận, trong các quan hệ qua lại với
nhau, để áp dụng mức tiền bồi thƣờng theo từng bƣu kiện nhƣ quy định tại
Thể lệ Bƣu kiện mà không tính đến khối lƣợng.
Bƣu gửi khai giá
Nếu bƣu gửi khai giá bị mất, bị mất cắp hoàn toàn hoặc bị hƣ hại hoàn
toàn, ngƣời gửi sẽ đƣợc bồi thƣờng một khoản tiền, về nguyên tắc, bằng giá
trị đã khai, tính bằng đơn vị Quyền rút vốn đặc biệt (SDR).
Luận văn thạc sĩ: Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ
bưu chính ở Việt Nam

24
Nếu bƣu gửi khai giá bị mất một phần hoặc bị hƣ hại một phần, ngƣời
gửi sẽ đƣợc bồi thƣờng một khoản tiền, về nguyên tắc, bằng giá trị thực tế của

phần bị mất cắp hoặc bị hƣ hại. Tuy nhiên, trong mọi trƣờng hợp, số tiền này
không đƣợc vƣợt quá giá trị đã khai, tính bằng SDR.
Trong các trƣờng hợp nêu tại các khoản 4 và 5, tiền bồi thƣờng sẽ đƣợc
tính theo giá hiện hành, quy đổi ra SDR, của vật phẩm, hàng hoá cùng loại tại
địa điểm và thời điểm mà bƣu gửi đó đƣợc chấp nhận để chuyển đi. Nếu
không tính đƣợc theo giá hiện hành, tiền bồi thƣờng sẽ đƣợc tính theo giá trị
thông thƣờng của vật phẩm hoặc hàng hoá, giá trị này đƣợc định giá trên cùng
một cơ sở.
Đối với trƣờng hợp bồi thƣờng do bị mất, bị mất cắp hoàn toàn hoặc bị
hƣ hại hoàn toàn bƣu phẩm ghi số, bƣu kiện thƣờng hoặc bƣu gửi khai giá,
tùy từng trƣờng hợp, ngƣời gửi, hoặc ngƣời nhận đƣợc hoàn trả các loại cƣớc
và phí đã trả, trừ cƣớc ghi số và cƣớc khai giá. Quy định này cũng đƣợc áp
dụng đối với bƣu phẩm ghi số, bƣu kiện thƣờng hoặc bƣu gửi khai giá mà
ngƣời nhận từ chối không nhận do tình trạng xấu của bƣu gửi nếu đó là do lỗi
của dịch vụ bƣu chính và thuộc trách nhiệm bồi thƣờng của Bƣu chính.
Không ảnh hƣởng tới quy định tại các khoản 2, 4 và 5, ngƣời nhận đƣợc
quyền đòi bồi thƣờng sau khi phát bƣu phẩm ghi số, bƣu kiện thƣờng và bƣu
gửi khai giá bị mất cắp hoặc bị hƣ hại.
Bƣu chính nƣớc gốc có quyền lựa chọn để trả cho ngƣời gửi tại nƣớc
này các khoản tiền bồi thƣờng theo quy định của pháp luật trong nƣớc đối với
bƣu phẩm ghi số và bƣu kiện không khai giá với điều kiện các khoản tiền bồi
thƣờng này không thấp hơn mức bồi thƣờng quy định tại các khoản 2.1 và
Quy định này cũng đƣợc áp dụng đối với Bƣu chính nƣớc nhận khi tiền bồi
thƣờng đƣợc trả cho ngƣời nhận. Tuy nhiên, các mức bồi thƣờng quy định tại
các khoản 2.1 và 4.1 vẫn đƣợc áp dụng:
- Trong trƣờng hợp truy thu Bƣu chính nƣớc có trách nhiệm; hoặc
- Nếu ngƣời gửi từ bỏ quyền nhận bồi thƣờng của mình để cho ngƣời
nhận đƣợc hƣởng hoặc ngƣợc lại.

×