Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào các môn Lý luận chính trị từ thực tiễn tại Trường Đại học Tài nguyên và môi trường Tp. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.52 KB, 8 trang )

The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018

TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG VÀO CÁC MƠN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TỪ THỰC TIỄN TẠI TRƯỜNG ĐẠI H C
TÀI NGUY N VÀ MÔI TRƯỜNG TP HỒ CH MINH
Nguyễn Thị Ngọc*
*

Khoa Luật và Lý luận chính trị, Trường Đại học Tài nguyên và Mơi trường Tp. HCM,
236B Lê Văn Sỹ, Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Email:
TĨM TẮT

Trong q trình trải nghiệm thực tế việc giảng dạy và học tập các môn Lý luận chính trị
(LLCT) tại Trường Đại học Tài nguyên và mơi trường Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả nhận thấy
việc tích hợp giáo dục bảo vệ mơi trường vào các mơn LLCT có vai trị rất quan trọng. Thơng qua
việc thực hiện những giải pháp tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào các môn LLCT được tiến
hành tại Trường như: giảng viên lựa chọn nội dung tích hợp giáo dục mơi trường phù hợp; giảng
viên có kiến thức cơ bản về môi trường và các vấn đề mơi trường của đất nước; nội dung tích hợp
giáo dục bảo vệ môi trường được thiết kế phù hợp với các chuyên ngành học tập của sinh viên; sử
dụng phối hợp các phương pháp giảng dạy tích cực kết hợp với phương tiện dạy học hiện đại. Nhờ
đó, đã cung cấp cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về mơi trường, hình thành ý thức và phương
pháp hiệu quả nhằm bảo vệ mơi trường.
Từ khóa: tích hợp giáo dục, bảo vệ mơi trường, Lý luận chính trị, sinh viên.

1. MỞ ĐẦU
Môi trường và bảo vệ môi trường hiện nay là một trong những vấn đề cấp bách mang tính chất
tồn cầu trong thế kỷ XXI. Trong q trình phát triển, sự tác động của con người vào tự nhiên đã và
đang để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái, đe dọa đến sự phát triển của cả
tự nhiên và xã hội. Ở nước ta hiện nay nhiều giải pháp nhằm cải thiện và bảo vệ môi trường sống đã
được nghiên cứu và vận dụng. Trong các giải pháp đó, vấn đề giáo dục ý thức, quan điểm và trách


nhiệm của con người về mơi trường được xem là hiệu quả và có tính bền vững cao.
Giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đại học là hoạt động truyền bá, nhận thức
và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng những tinh hoa tư tưởng chính
trị của dân tộc và nhân loại nhằm hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng,
phương pháp tư duy biện chứng và phương pháp hành động khoa học, góp phần phát huy tính tích
cực của sinh viên trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đào tạo cho xã hội những con người sống
có mục tiêu, lý tưởng, có ý thức bảo vệ mơi trường.
Qua q trình trực tiếp giảng dạy các mơn Lý luận chính trị tại Trường Đại học Tài nguyên và
Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả nhận thấy việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường
vào các môn LLCT là một điều hết sức cần thiết nhằm cung cấp cho sinh viên - những chủ nhân
tương lai của đất nước những hiểu biết cơ bản về mơi trường, từ đó hình thành ý thức và phương
pháp để bảo vệ mơi trường. Thơng qua bài viết này, tác giả sẽ trình bày những giải pháp tích hợp

66


Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018
giáo dục bảo vệ môi trường vào các môn LLCT được tiến hành tại Trường, đồng thời đưa ra kết quả
bước đầu mang lại cho sinh viên và đề xuất những kiến nghị cần thiết nhằm thực hiện tốt hơn.
2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp phân tích, tổng hợp từ các tài liệu: các bài báo, hội thảo khoa học, các sách chuyên
khảo. Đồng thời thông qua trải nghiệm thực tế công tác giảng dạy môn học LLCT tại Trường Đại học
Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh để đưa ra những kết luận và kiến nghị ban đầu
góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm cho sinh viên trong công tác bảo vệ môi trường.
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3.1. Vai trị của việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trƣờng vào các môn Lý luận chính trị trong
trƣờng đại học hiện nay
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các
thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự

kết hợp”.
Theo Từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng
dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”.
Tích hợp (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức: Integration) có nguồn gốc từ tiếng Latinh:
Integration với nghĩa xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng rẽ.
Như vậy có thể hiểu tích hợp trong dạy học là lồng ghép một nội dung giáo dục nào đó vào bài
dạy tùy theo mức độ phù hợp của nội dung giáo dục với từng môn học/bài học mà việc lồng ghép
được thực hiện ở các mức độ khác nhau như: liên hệ, lồng ghép bộ phận hay tồn phần, từ đó giáo
dục và rèn luyện kỹ năng sống cho sinh viên.
Giáo dục bảo vệ mơi trường là một q trình thơng qua các hoạt động giáo dục nhằm giúp con
người có được sự hiểu biết, các kỹ năng và giá trị tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một
xã hội bền vững về sinh thái [1].
Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào các môn LLCT là sự kết hợp có hệ thống, một cách
chặt chẽ các kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường vào một phần trong kiến thức các môn học LLCT
thành một nội dung thống nhất. Giảng viên lồng ghép bộ phận (có một số phần của bài học có mục
tiêu, nội dung phù hợp với nội dung, mục tiêu giáo dục bảo vệ môi trường) hay liên hệ (mục tiêu và
nội dung bài học các mơn học LLCT có điều kiện lơ gic với nội dung giáo dục bảo vệ môi trường).
Thực hiện tích hợp giáo dục bảo vệ mơi trường vào các môn LLCT là cần thiết bởi lẽ trong giai
đoạn hiện nay, khi nhân loại đang phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề môi trường bức xúc như: sự
biến đổi khí hậu, suy thối đa dạng sinh học, suy thối tài ngun nước ngọt, suy thối tầng ơzơn, suy
thối đất và hoang mạc hóa, ơ nhiễm các chất hữu cơ độc hại khó phân hủy,… đã đe dọa đa dạng sinh
học, biến đổi khí hậu và nhiều hệ lụy khác mà con người phải gánh chịu. Mặt khác, Việt Nam được
đánh giá là một trong năm quốc gia bị tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu và được Liên hợp
quốc chọn là quốc gia để tiến hành nghiên cứu điển hình về biến đổi khí hậu và phát triển con người.
Biến đổi khí hậu ở nước ta đã gây ra sự biến động lớn về quy luật thời tiết bao gồm: lượng mưa thất
thường, luôn biến đổi, nhiệt độ tăng cao hơn, thời tiết bất thường và khốc liệt hơn, tần suất, cường độ
của những đợt bão lũ, triều cường, thiên tai, hạn hán tăng đột biến kể cả ở khu vực đô thị lẫn nông

67



The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018
thôn, khu vực đồng bằng và khu vực miền núi. Có rất nhiều nguyên nhân gây ơ nhiễm mơi trường
nhưng trong đó ngun nhân chủ yếu xuất phát từ chính hoạt động của con người.
Ở nước ta trong nhiều năm qua bảo vệ môi trường nói chung và giáo dục - đào tạo về bảo vệ
mơi trường nói riêng được Đảng, Nhà nước rất quan tâm và đã có nhiều chủ trương, biện pháp giải
quyết các vấn đề môi trường, đặc biệt là công tác giáo dục nâng cao nhận thức về môi trường cho
học sinh, sinh viên. Giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp là một trong
những nội dung quan trọng trong công tác giáo dục tại các nhà trường từ cấp học mầm non đến đại
học. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Chỉ thị 02/2005/CT-BGDĐT ngày 31 tháng 01 năm
2005 về việc “Tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường”; Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT
ngày 22/07/2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” trong các trường phổ thơng giai đoạn 2008-2013. Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ
đạo các cơ sở giáo dục trong cả nước tổ chức triển khai các nhiệm vụ về giáo dục bảo vệ môi
trường, đưa nội dung giáo dục môi trường vào trường học.
Giáo dục bảo vệ môi trường cần phải được tiến hành thường xuyên và sâu rộng ngay từ tuổi ấu
thơ tới tuổi trưởng thành, từ những người làm việc sinh hoạt thường ngày trong cộng đồng tới
những người làm công tác chỉ đạo, quản lý, nhà chiến lược kinh tế - xã hội. Đối với sinh viên tại các
trường đại học và cao đẳng giáo dục bảo vệ môi trường được thực hiện theo phương thức: Tiến
hành như một môn học mới, hoặc một chuyên đề mới được đưa vào chương trình (Phương thức này
tương đối rõ ràng, đơn giản, nhưng gặp khó khăn do chương trình đào tạo đang khơng cịn thời
lượng cho mơn học mới); Tích hợp/lồng ghép vào các môn liên quan trực tiếp đến môi trường như
Mơi trường và con người, các mơn lý luận chính trị,… hay thơng qua các hoạt động ngoại khóa
hưởng ứng chiến dịch “Giờ Trái đất”, Ngày môi trường thế giới, Ngày Quốc tế đa dạng sinh học …
Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào các môn LLCT ở các trường đại học và cao đẳng ở
nước ta hiện nay có vai trị hết sức quan trọng, điều này được thể hiện:
Một là, trang bị cho sinh viên hiểu biết cơ bản về các vấn đề mơi trường: tính hạn chế của tài
nguyên thiên nhiên và khả năng chịu tải của môi trường, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên,
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của
vấn đề bảo vệ môi trường đối với bản thân con người và xã hội. Nắm được các quan điểm cơ bản

của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, đường lối của Đảng về môi
trường và bảo vệ môi trường.
Hai là, hình thành cho sinh viên - những chủ nhân tương lai của đất nước thái độ, cách đối xử
thân thiện với mơi trường, có ý thức trách nhiệm và tự giác tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi
trường sống.
Ba là, có kỹ năng, phương pháp hành động hiệu quả nhằm bảo vệ môi trường, nâng cao năng
lực trong việc lựa chọn phong cách sống thích hợp với việc sử dụng một cách hợp lý và khôn ngoan
các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Từ đó, sinh viên có thể tham gia hiệu quả vào việc phòng ngừa và
giải quyết các vấn đề môi trường cụ thể tại nơi ở và làm việc.
Đối với Trường Đại học Tài nguyên và Mơi trường Thành phố Hồ Chí Minh, vấn đề tích hợp
giáo dục bảo vệ môi trường vào các môn LLCT lại càng thực sự cần thiết bởi vì sứ mạng của Nhà
trường là đào tạo nguồn nhân lực cho ngành tài nguyên môi trường và xã hội, phục vụ cho mục tiêu
phát triển bền vững của đất nước. Sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường sẽ trở thành những nhà
quản lý, những người ra quyết định, những cán bộ kỹ thuật, nghiên cứu, tham gia vào quá trình phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, họ sẽ tham gia các hoạt động thực tiễn mà ít nhiều có
liên quan đến mơi trường sống. Do đó, cơng tác giáo dục bào vệ môi trường cho sinh viên của
Trường sẽ góp phần quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
68


Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018
3.2. Giải pháp tích hợp giáo dục bảo vệ mơi trƣờng vào các mơn Lý luận chính trị tại Trƣờng
đại học Tài nguyên và Môi trƣờng Thành phố Hồ Chí Minh
Tại Trường Đại học Tài ngun và Mơi trường Thành phố Hồ Chí Minh, thấy rõ vai trị quan
trọng của giáo dục bảo vệ môi trường đối với sinh viên giảng viên đã chủ động thực hiện tích hợp
giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các môn học LLCT. Việc thực hiện được chúng tôi tiến hành
bằng các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, giảng viên căn cứ vào nội dung môn học, bài học, từng phần kiến thức cụ thể của
các mơn LLCT để thực hiện việc tích hợp giáo dục môi trường.
Đối với môn “Nh ng nguyên lý c ản của Chủ nghĩa Mác - Lê nin” là môn học đầu tiên

trong các môn LLCT được giảng dạy tại Trường. Mục tiêu tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường ở
phần triết học Mác - Lênin nhằm cung cấp cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về mối quan hệ tác
động qua lại giữa con người với tự nhiên, hiểu rõ các quy luật của tự nhiên là hoàn toàn khách quan,
ý nghĩa của việc bảo vệ tự nhiên của con người đối với sự vận động và phát triển của xã hội. Rất
nhiều nội dung có thể liên hệ tích hợp bảo vệ mơi trường, đặc biệt là các nội dung: mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức; hai nguyên lý và ba quy luật, sáu cặp phạm trù cơ bản của Phép biện
chứng duy vật; tồn tại xã hội và ý thức xã hội; con người và bản chất của con người. Sau mỗi nội
dung lý luận trên giảng viên cần đi sâu tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở phần ý nghĩa
phương pháp luận. Đối với Phần Kinh tế chính trị Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học, giảng
viên lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường ở một số nội dung, đặc biệt là phần “những hạn chế của
Chủ nghĩa tư bản”, đi sâu phân tích hạn chế hủy hoại tài nguyên thiên nhiên và gây ô nhiễm môi
trường của Chủ nghĩa tư bản đối với nhân loại. Từ đó liên hệ làm rõ thêm tội ác của Chủ nghĩa đế
quốc, đó là đi khai thác kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, triệt hạ sự sống ở các nước thuộc địa (trong
đó có tội ác của Thực dân Pháp, Đế quốc Mỹ đối với đất nước ta), hiện nay đối với đất nước ta cần
phê phán và xử phạt với những hoạt động khai thác các nguồn lợi tự nhiên một cách thái quá, phá
vỡ sự cân bằng của tự nhiên.
Ví dụ: Thông qua nội dung “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến”, giảng viên lồng ghép quan
điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ thống nhất hữu cơ, hỗ trợ lẫn nhau, không tách rời
nhau giữa tự nhiên và con người đến mức “thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự
nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với tự nhiên, vì con người là một
bộ phận của tự nhiên” [2]. Xét về mặt nguồn gốc phát sinh, con người được sinh ra từ môi trường tự
nhiên, xét về cấu trúc của thế giới, con người là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Để tồn tại và
phát triển con người tiến hành lao động sản xuất, “giới tự nhiên là cái cung cấp những vật liệu cho
lao động”, còn lao động biến những vật liệu đó “thành của cải” [3]. Trong q trình lao động sản
xuất con người tác động vào môi trường tự nhiên, làm thay đổi các yếu tố cầu thành của mơi trường
thì sớm hay muộn sẽ ảnh hưởng tới mơi trường sống. Bởi lẽ, không phải con người tác động, cải
biến môi trường tự nhiên mà môi trường tự nhiên cũng tác động ngược trở lại một cách mạnh mẽ
đối với con người như Ph. Ăngghen đã cảnh báo: “Chúng ta cũng không nên quá tự hào về những
thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần
giới tự nhiên trả thù lại chúng ta. Thật thế, mỗi một thắng lợi, trước hết là đem lại cho chúng ta

những kết quả mà chúng ta hằng mong muốn, nhưng đến lượt thứ hai, lượt thứ ba, thì nó lại gây ra
những tác dụng hồn tồn khác hẳn, không lường trước được, những tác dụng thường hay phá hủy
tất cả những kết quả đầu tiên đó” [4]. Từ đó, Ăngghen cho rằng: “Những sự việc đó đã nhắc nhở
chúng ta từng giờ, từng phút rằng chúng ta hoàn tồn khơng thống trị được giới tự nhiên như một kẻ
xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản
thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta
nằm trong giới tự nhiên”5. Giảng viên phân tích làm rõ về những thảm họa liên tiếp về môi trường,
69


The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018
những tác động của biến đổi khí hậu, những khó khăn do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên
nhiên trong những năm gần đây đã chứng minh những phân tích và cảnh báo của Ph. Ăngghen là
hồn tồn chính xác. Từ những phân tích đó để thấy được sự cần thiết phải bảo vệ môi trường tự
nhiên là một tất yếu khách quan, có ý nghĩa sống cịn đối với con người và xã hội lồi người.
Đối với mơn “Tư tư ng Hồ Chí Minh”, giảng viên làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vai
trị đặc biệt quan trọng của tự nhiên đối với sự phát triển của xã hội và con người, chỉ rõ con người
phải có hiểu biết về tự nhiên, phải biết sử dụng tiết kiệm tài nguyên, phải biết chăm sóc, giữ gìn mơi
trường sống, coi đó là kế lâu dài để phát triển xã hội trong hiện tại và tương lai. Điều đó cho thấy
những tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề này rất gần với quan niệm hiện đại về phát triển bền
vững. Trong sinh hoạt hàng ngày, thông qua những việc làm nhỏ của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln thể hiện rõ mong muốn xây dựng một môi trường sống trong lành cho các thế hệ tương lai.
Thông qua các câu chuyện kể, bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mơi trường và bảo vệ
mơi trường, giảng viên giáo dục sinh viên về trách nhiệm của cá nhân trong việc bảo vệ môi trường
hiện nay. Giảng viên có thể tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ mơi trường trong các nội dung: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới.
Ví dụ: thơng qua nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, giảng viên tích hợp giáo dục bảo
vệ mơi trường trong quan điểm của Hồ Chí Minh về việc gìn giữ, bảo vệ và xây dựng một môi
trường sống. Cuối năm 1959, khi cả nước đang chuẩn bị bước vào thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm

lần thứ nhất, tiến hành cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, Bác Hồ đã phát động phong trào "Tết
trồng cây gây rừng". Điều Người mong muốn là: Từ một lời kêu gọi, một phong trào thi đua, dần
dần "Tết trồng cây" sẽ trở thành một nếp sống mới, một phong tục, tập quán tốt đẹp trong nhân dân,
một kế hoạch dài lâu cho Đảng, cho Nhà nước. Vì vậy, Người chỉ rõ lợi ích thiết thực của việc trồng
cây xanh là: "Làm cho phong cảnh đất nước ngày càng tươi đẹp hơn, khí hậu điều hồ hơn, cây gỗ
đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của nhân dân ta" [5]. Bác
làm một bài tốn nhỏ nói về lợi ích kinh tế của việc trồng cây như sau: "Nếu mỗi thanh niên một
năm trồng ba cây, tám triệu thanh niên miền Bắc sẽ trồng được 24 triệu cây. Nếu bán rẻ ba đồng
một cây, sau 5 năm sức lao động của thanh niên bỏ ra sẽ thu được số tiền lớn, có thể xây dựng được
8 nhà máy cơ khí loại khá" [6]. Hưởng ứng phong trào "Tết trồng cây" do Chủ tịch Hồ Chí Minh
phát động, nhà nhà trồng cây, người người trồng cây, phong trào phát triển mạnh mẽ trên đất nước
ta. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, Người căn dặn: “Sau khi tôi qua
đời,… Tôi yêu cầu thi hài tơi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”. Tơi mong rằng cách “hỏa táng”
dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại khơng tốn đất.
Bao giờ ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn” [7]. Người chính là một tấm gương sáng về
giữ gìn mơi trường sống trong sạch, lành mạnh.
Đối với môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, giảng viên có thể tích hợp,
lồng ghép đường lối, chủ trương của Đảng về bảo vệ môi trường từ các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ
thị, như Chị thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 25-6-1998 về Tăng cường công tác bảo vệ mơi
trường trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày
15/11/2004 Bộ Chính trị (Khóa IX) Về bảo vệ mơi trường trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 về Chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; các Văn kiện qua các kỳ Đại hội của
Đảng, đặc biệt là vấn đề bảo vệ môi trường theo tinh thần Đại hội XII của Đảng.
Ví dụ: Trong nội dung Chương 4: đường lối về cơng nghiệp hóa, giảng viên lồng ghép nội
dung phát triển bền vững theo đường lối mới của Đảng ta hiện nay. Từ việc đánh giá thành tựu, hạn
chế trong công tác bảo vệ môi trường, Đại hội XII của Đảng đề ra phương hướng, nhiệm vụ và giải
70



Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018
pháp cụ thể để phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm tới, đó là: “Phát triển hài hòa giữa chiều rộng
và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh
tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ mơi trường, chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu” [8]. Mục tiêu tổng quát cho phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường trong thời gian
tới là “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường”
[9]. Từ mục tiêu đó, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đến phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường biển:
“Đẩy nhanh điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường biển, đảo. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng
khoa học, công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc khai thác hiệu quả, bền vững các
nguồn tài nguyên biển” [10].
Thứ hai, để tích hợp giáo dục bảo vệ mơi trường vào các mơn LLCT hiệu quả ngồi việc địi
hỏi giảng viên phải nắm kỹ nội dung lý luận để tích hợp, cịn phải có kiến thức cơ bản về mơi
trường như các thành phần cơ bản của môi trường tự nhiên, ô nhiễm môi trường, các hiện tượng
thiên nhiên như thời tiết, khí hậu, mưa axit, hiệu ứng nhà kính, … Bên cạnh đó cần có hiểu biết sâu
về các vấn đề môi trường cụ thể của đất nước như: hiện trạng môi trường, ô nhiễm môi trường,
nguyên nhân gây ô nhiễm mơi trường, tài ngun khống sản ở Việt Nam hiện nay.
Thứ a, tích hợp giáo dục bảo vệ mơi trường được thiết kế phù hợp với các chuyên ngành học
tập của sinh viên tại Trường Đại học Tài nguyên và mơi trường Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay,
Trường đào tạo 17 ngành bậc đại học, việc tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy các môn
LLCT cũng phải gắn với nội dung của các chuyên ngành đào tạo chung của Trường. Thực hiện tốt
điều này, sinh viên sẽ thấy được sự cần thiết của việc học tập các mơn LLCT, đồng thời tích cực
vận dụng những kiến thức chuyên ngành được học của mình vào nội dung các mơn LLCT.
Thứ tư, trong q trình giảng dạy tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường giảng viên nên sử dụng
phối hợp các phương pháp giảng dạy tích cực kết hợp với phương tiện dạy học hiện đại. Tại Trường
Đại học Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh, phương pháp dạy học tích cực được
thể hiện ở sự kết hợp giữa phương pháp thuyết trình với các phương pháp hiện đại như nêu vấn đề,
thảo luận nhóm, đóng vai, tình huống, phương pháp dạy học theo dự án, theo hợp đồng. Các giảng
viên LLCT tại trường đã thường xuyên kết hợp phương pháp thuyết trình với bài giảng điện tử, nhờ
đó nội dung bài học vừa được giảng giải, vừa được minh họa sinh động bằng những sơ đồ, hình ảnh
tư liệu, phim tư liệu về các nội dung tích hợp mơi trường liên quan đến từng nội dung LLCT cụ thể,

nhờ đó khơi dậy sự hứng thú của sinh viên khi nghe giảng. Phương pháp thuyết trình khi kết hợp
với các phương pháp hiện đại làm cho q trình học tập khơng cịn mang tính một chiều theo kiểu
“thầy đọc, trò chép” mà theo kiểu thuyết trình hai chiều, sinh viên được bày tỏ chính kiến của mình
về vấn đề mơi trường và bảo vệ môi trường.
Qua thực tế cho thấy khi giảng viên sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực kết hợp với
phương tiện dạy học hiện đại đã bước đầu đem lại hiệu quả, được người học đánh giá cao hơn. Kết
quả 3 tiết học trơi đi nhanh chóng, sinh viên thấy được những ý nghĩa của môn học, hào hứng với
việc học tập. Thơng qua q trình học tập các mơn LLCT sinh viên hình thành được nhiều kỹ năng
mềm quan trọng để bảo vệ môi trường. Người giảng viên cảm thấy phấn khởi, yêu nghề hơn. Tuy
nhiên, để thực hiện được thành cơng địi hỏi sự thay đổi ở cả người dạy và người học:
Về phía người dạy địi hỏi phải chuẩn bị rất nhiều về mặt nội dung, phương pháp giảng dạy.
Giảng viên phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, biết cách sử dụng và phối hợp giữa các phương
pháp dạy học, biết sử dụng các thiết bị cơng nghệ thơng tin vào dạy học.
Về phía người học phải biết tự học, chuẩn bị nội dung trước khi đến lớp, có ý thức và trách
nhiệm đối với bản thân mình và tập thể.

71


The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018
4. KẾT LUẬN
Dưới góc độ của giảng viên trực tiếp giảng dạy một số nội dung của chương trình LLCT,
bản thân tác giả có một vài nhận xét về hiệu quả ứng dụng tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào
các môn LLCT bằng các giải pháp trên như sau:
Đối với người học, thứ nhất, về mặt kiến thức: bước đầu sinh viên đã có những kiến thức cơ
bản về khoa học mơi trường và bảo vệ môi trường. Hiểu một cách cơ bản các quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về bảo
vệ môi trường, thực trạng tài nguyên thiên nhiên của nước ta. Sinh viên đã biết sử dụng những kiến
thức của các môn LLCT lý giải về các hiện tượng môi trường. Thứ hai, về mặt thái độ: Sinh viên có
thái độ đúng đắn, nhiệt tình hưởng ứng các hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường được tổ chức

trong các môn học LLCT. Mặt khác sinh viên tích cực tham gia các hoạt động, các hội thi có chủ đề
về mơi trường và bảo vệ môi trường do các tổ chức trong Nhà trường tổ chức. Thứ ba, về hành vi:
bước đầu sinh viên đã có những hành vi bảo vệ mơi trường rất tốt như giữ gìn vệ sinh lớp học, ký
túc xá, biết phân công trực vệ sinh, tác phong gọn gàng, lịch sự khi đến lớp, sử dụng tiết kiệm điện,
nước, hạn chế sử dụng bao túi nilon, ưu tiên sử dụng sản phẩm thân thiện với mơi trường. Bên cạnh
đó, sinh viên của Trường đã trở thành lực lượng xung kích tham gia rất tích cực cơng tác tun
truyền giáo dục các tầng lớp nhân dân chung tay bảo vệ mơi trường thơng qua các hoạt động ngoại
khóa thường niên do Đoàn trường tổ chức.
Đối với người ạy: Giảng viên đã tạo được sự tương tác hơn với sinh viên trong quá trình
giảng dạy, làm sinh động bài giảng của mình. Thơng qua việc tích hợp các giảng viên mở rộng thêm
kiến thức chuyên ngành về môi trường và bảo vệ mơi trường. Theo đó, giảng viên lý luận chính trị
cũng có thể tham gia vào hoạt động nghiên cứu khoa học (tham luận hội thảo, bài đăng tạp chí,…)
dưới góc độ các chính sách về mơi trường và bảo vệ mơi trường.
Như vậy, tích hợp giáo dục bảo vệ mơi trường vào các mơn LLCT mục đích chính là dạy
người học biết cách ứng xử và hành động vì môi trường. Để thực hiện hiệu quả hơn nữa trong thời
gian tới theo tác giả cần:
Đối với giảng viên các môn LLCT: quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục bảo vệ môi trường
trong giảng dạy, xem đây là một nội dung quan trọng. Muốn thực hiện tốt, giảng viên cần lập bảng
chọn lọc những nội dung có thể khai thác để tích hợp giáo dục bảo vệ mơi trường cho sinh viên. Từ
đó, giảng viên cần xây dựng nội dung tích hợp, hình thức tích hợp và phương pháp sử dụng cho phù
hợp với trình độ của sinh viên.
Đối với Khoa và Nhà trường: lập kế hoạch thường xuyên giám sát q trình dạy học tích
hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào các môn LLCT ở các lớp để bảo đảm tính thống nhất. Bên cạnh
đó Nhà trường tạo điều kiện cho giảng viên các môn LLCT tham gia các lớp tập huấn, hướng dẫn
về tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thị Nga - Cơ sở khoa học môi trường, Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ, Cần Thơ, 2010.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen - Tồn tập, tập 42, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.135.
3. C. Mác và Ph. Ăngghen - Tồn tập, tập 20, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.641
4. C. Mác và Ph. Ăng ghen - Toàn tập, tập 20, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.654.

5. Hồ Chí Minh - Tồn tập, tập 8, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1989, tr.532.
6. Hồ Chí Minh - Toàn tập, tập 9, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1989, tr.27.
72


Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018
7. Hồ Chí Minh - Tồn tập, tập 15, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 615
8. , 9, 10. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr.259, tr.270, tr.271.
INVESTIGATING THE INTEGRATIONS OF ENVIRONMENTAL EDUCATION INTO
POLITICAL THEORY SUBJECTS - A CASE STUDY AT THE HO CHI MINH
UNIVERSITY OF NATURAL RESOURCES AND ENVIRONMENT
M. A. Nguyen Thi Ngoc
Faculty of Law and Political theory Hochiminh City University of Natural Resources and
Environment, 236B Le Van Sy, Tan Binh, Ho Chi Minh City
ABSTRACT
From the fact of the processes of teaching and learning political theory subjects at the Ho Chi
Minh University of Natural Resources and Environment, the author learns that it is desperately
necessary to integrate environmental education into political theory subjects. The research suggests
some creative and effective ways of attaching environmental education to political theory such as:
instructors choose the appropriate content of environmental teaching, teachers should equyp
themselves with basic knowledge of environment and its related issue in Vietnam, the integrated
environmental content should be suitable to students‟ majors, teachers combine intensive methods
with the use of modern teaching instruments. As a result, students are provided with necessary
knowledge of environment and have the skills to make informed and responsible decisions in order
to protect the environment.
Key words: Integration, environmental education, political theory, student.

73




×