Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

những “câu nói thời danh” của các triết gia hy lạp cổ đại trình bày những điểm tương đồng với triết học phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.77 KB, 24 trang )

DDttt

Tiểu luận học kỳ III : Môn Dẫn Nhập Triết Học Phương Tây
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

-----------------------------------------------------

TIỂU LUẬN MƠN TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

ĐỀ TÀI
những “câu nói thời danh” của các triết gia Hy lạp Cổ đại. Trình
bày những điểm tương đồng với triết học Phật giáo

Người hướng dẫn khoa học: NS.TS.TN. Hương Nhũ

TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2022.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC
VIỆN
PHẬT
GIÁOVIỆT
VIỆT NAM
NAM TẠI
CHÍCHÍ
MINH
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO
TẠITP.HỒ
TP. HỒ


MINH

-----------------------------------------------------

TÊN TÁC GIẢ:
PHÁP DANH:
LỚP ĐTTX: KHÓA VI
MSSV: TX

ĐỀ TÀI
những “câu nói thời danh” của các triết gia Hy lạp Cổ đại. Trình bày những điểm
tương đồng với triết học Phật giáo

Tiểu luận học kỳ III : Môn Dẫn Nhập Triết Học Phương Tây

Người hướng dẫn khoa học: NS.TS.TN. Hương Nhũ

TP.Hồ Chí Minh , Năm 2022.


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
................................................................................................................................
..........
2. Phạm vi đề tài
................................................................................................................................
..........
3. Cơ sở dữ liiệu
................................................................................................................................

..........
4. Phương pháp nghiên cứu
................................................................................................................................
..........
5. Bố cục tiểu luận
................................................................................................................................
..........
B. NỘI DUNG
C. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Triết học phương Tây đề cập đến những tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế
giới phương Tây. Về mặt lịch sử, thuật ngữ này đề cập đến tư duy triết học trong văn
hóa phương Tây, bắt đầu với triết học Hy Lạp trong thời kì tiền-Socrates với những
đại biểu như Thales và Pythagoras, và cuối cùng phát triển với phạm vi trên toàn cầu.
Từ "philosophy" bắt nguồn từ chữ Hy Lạp cổ đại philosophía (φιλοσοφία) với nghĩa
đen là "tình u trí tuệ" (φιλεῖν philn, "u" và σοφία sophía, "trí tuệ"). Một cách
tường minh hơn, triết học có thể được định nghĩa là: "những nỗ lực của con người
nhằm nghiên cứu một cách hệ thống các cấu trúc căn bản nhất của tồn bộ trải nghiệm
mà ta có, nhằm đạt được những niềm tin rõ ràng về mặt khái niệm, được xác nhận về
mặt kinh nghiệm và nhất quán về mặt tư duy nhất có thể."Trong lịch sử, phạm vi của
triết học bao gồm tất cả những nỗ lực nhằm đạt tới trí tuệ, tức bên cạnh những vấn đề
triết học như cách mà ta hiểu hiện tại, nó cũng chứa đựng kiến thức của những bộ môn
mà nay được coi là khoa học như vật lý, toán học và thiên văn học. Chẳng hạn, cuốn
sách Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên của Newton nay được coi là một
tác phẩm về vật lý chứ không phải triết học. Triết học, theo cách hiểu hiện đại hơn,
thường đề cập đến các vấn đề thuộc vào ba lĩnh vực chính là nhận thức luận (ví dụ,

"Con người có thể nhận thức được những gì?"), siêu hình học ("Bản chất tối hậu của
hiện thực là gì?") và luân lý học ("Tiêu chí gì đánh giá một hành động là tốt hay
xấu?"). Bên cạnh đó, một số chủ đề khác như logic, chính trị-xã hội và tơn giáo cũng
có thể coi là thuộc về triết học.Nền triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một
bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng của triết học phương tây. Một giai đoạn lịch sử
khởi nguyên tiềm tàng của triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết
học phương tây sau này. Nền triết học trung cổ là khoảng lặng của những phách nhạc
thời gian trải qua hàng ngàn năm. Rồi mới được thăng hoa lên những nốt thăng cung
bậc là thời kỳ phục hưng. Đây là giai đoạn quan trọng bừng dậy sau dấu lặng mà
khoảng trắng quá dài. Từ những âm ba của những nốt nhạc thăng trầm đó mà ta có cả
nền triết học cận và hiện đại như nay. Trong bản nhạc giao hưởng đầy tính bác học của
triết học phương tây, mà khúc dạo đầu lại rực rỡ âm sắc trang hồng đó là những
trường phái triết học Hy Lạp cổ đại, nó bức ra khỏi những nốt nhạc trời đầy màu sắc
thần linh để khảy lên bằng chính đơi tay của người phàm tục. Do vậy học viên chọ đề
tài Phân tích và bình luận những “câu nói thời danh” của các triết gia Hy lạp Cổ đại.
Trình bày những điểm tương đồng với triết học Phật giáolàm đề tài nghiên cứu.


2. Phạm vi đề tài, Phương pháp nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong giai đoạn triết học Hy lạp cổ đại. Với
phương pháp nghiên cứu là phương pháp lịch sử và đối chiếu. Bài nghiên cứu quy mô
như một bài thu hoạch nên các vấn đề được đề cập mang tính khái quát.
Học viên dựa vào bài giảng của giáo thọ trên lớp và tham khảo một số tài liệu liên
quan làm tư liệu
3. Bố cục tiểu luận:gồm 03 chương

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1- Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
1.1 Về tự nhiên

Hy Lạp cổ đại chính là cái nơi của nền triết học phương Tây. Đây là quốc gia rộng lớn
có khí hậu ơn hịa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng (Balcans), miền ven biển
phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực.
Bắc , Nam và Trung bộ.Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù
phú, có thành phố lớn như Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng
bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đơng của
bán đảo Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát
triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa
Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu Á là đầu mối giao
thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như
vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nơ lệ có một nền cơng
thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có nhiều
triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ.
1.2 - Về kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vơ cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả và lòng
nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở
rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.Thế kỷ VIII – VI BC, đây là thời kỳ quan
trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng
sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng
nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã
kéo theo phân công lao động trong nông nghiệp, giữa nghành trồng trọt và ngành chăn
nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét. Sự
phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII BC là lực
đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận. Engels đã nhận
xét: “Phải có những khả năng của chế độ nơ lệ mới xây dựng được một quy mô phân
công lao động lớn lao hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất
nước Hy Lạp giàu có. Nếu khơng có chế độ nơ lệ thì cũng khơng có quốc gia Hy Lạp,
khơng có khoa học và cơng nghiệp Hy Lạp”.(1)
1.3 - Về chính trị - xã hội



Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nơ lệ. Lao động bị phân hóa thành lao
động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi
nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành phố cổ
hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại.Thành bang Athen nằm ở vùng
đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một
trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu.
Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nơ dân chủ
Athen.
Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông
nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã
xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô
lệ.Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc
chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của
thành Athen. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính
trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nỗi
dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác nhau,
khơng có ngơn ngữ chung, khơng có quyền hạn, không được tham gia vào các hoạt
động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía Bắc Hy Lạp đã đem qn
xâm chiếm tồn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II BC, Hy Lạp một lần nữa bị rơi vào
tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy
Lạp chinh phục về văn hóa.Engels đã nhận xét “khơng có cơ sở văn minh Hy Lạp và
đế quốc La Mã thì khơng có Châu Âu hiện đại được” [2]. Vì điều kiện kinh tế, nhu
cầu bn bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước phương
Đông trở nên thường xun. Chính vì thế tầm nhìn của họ cũng được mở rộng, những
thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả
các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón nhận, “Những
người Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu khơng hiểu biết gì về Ai Cập”.Trong thời đại này
Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán lạn với những thành tựu rực

rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn minh phương
Tây hiện đại.Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất
phong phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc
sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng
tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ đại.[3]Về nghệ thuật, đã để lại các cơng trình
kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị.Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp
luật và được thực hiện khá nghiêm tại thành bang Athen.Về khoa học tự nhiên, những
thành tựu toán học, thiên văn, vật lý… được các nhà khoa học tên tuổi như Thalés,
Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra. Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di
sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
2. Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và cũng là điểm
xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc trưng sau:
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nơ thống trị.
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật duy tâm, biện chứng - siêu hình, vơ thần - hữu thần.


- Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực
khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể
thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
Đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác, hoang sơ.
- Coi trọng vấn đề về con người.
Triết học cổ Hy Lạp mang tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Tách ra khỏi
yếu tố thần linh thống trị con người từ xưa, đỉnh cao của triết học cổ Hy Lạp là triết
gia Socrate. Ông đã đề cập đến thân phận con người. Đa phần các triết gia có xu
hướng hướng ngoại thì Socrate quay về hướng nội, ông đã đề cập đến đạo đức con
người.
CHƯƠNG 2:
Những triết gia lừng danh của Hy Lạp cổ đại
2.1. Parmenides (510 TCN – 560 TCN)

Parmenides được biết đến như là học trò của Pythagoras – một triết gia nổi tiếng khác
của Hy Lạp cổ đại. Các tác phẩm thơ và tư tưởng của Parmenides dường như luôn
chịu ảnh hưởng đáng kể từ Xanophanes, đến nỗi các sử gia phải băn khoăn rằng, có
nên coi ơng là học trò của Xanophanes. Trong số các nhà triết học tiền Socrates,
Parmenides được liệt kê vào danh sách những người quan trọng nhất.Tác phẩm duy
nhất của Parmenides được mọi người biết đến là bài thơ có tiêu đề “On Nature” (“Bàn
về tự nhiên’). Trong bài thơ này, ông đã cố gắng làm sáng tỏ 1 câu hỏi lớn: Là nó, hay
khơng phải là nó? Thật sự mà nói, những nỗ lực của ơng trong việc giải mã bí ẩn triết
học này đã dẫn đến một tuyên bố khá nghịch lý chứ không phải là một câu trả lời thỏa
đáng. Parmenides cho rằng ta nhận định được tất cả các sự vật là vì chúng có tồn tại.
Chúng ta khơng thể hình dung sự khơng tồn tại, khơng hình dung được là khơng có.
Quan niệm về tồn tại của Parmenides mang tính siêu hình, nhưng nó lại là đóng góp
lớn của ông cho nền triết học sau này.
2.2.Anaxagoras (500 TCN – 428 TCN)
Một nhân vật quan trọng khác của thời kỳ tiền-Socrates là Anaxagoras. Ông sinh ra tại
Clazomenae, là một triết gia, một nhà khoa học có sức ảnh hưởng lớn, người đã sống
và giảng dạy tại Athens trong gần 30 năm. Quan điểm triết học của ông phần nhiều
xoay quanh bản chất của sự vật. Cũng giống như hầu hết các triết gia Hy Lạp cổ đại
khác, tư tưởng của ông tương phản và động chạm tới các tư tưởng đương thời. Niềm
tin mới mẻ đó đã khiến Anaxagoras phải đối mặt với những hậu quả nguy hiểm cả đến
tính mạng.Anaxagoras được ghi cho là người đầu tiên mang triết học đến Athens. Đây
cũng chính là nơi mà sau này triết học phát triển đến đỉnh cao và tác động vào xã hội
cho tới hàng trăm năm sau. Ông dành nhiều thời gian của mình để giải thích bản chất
của tự nhiên – lấy vũ trụ như là một khối khơng phân định cho đến khi nó được xác
định trong một phần tinh thần mà ơng gọi là ‘nous’. Ơng tin rằng trong thế giới vật lý,
vạn vật đều có chứa một phần của tất cả mọi thứ khác. Không có gì là tinh khiết hồn
tồn, riêng chỉ có “nous” (tức là trí tuệ) là đơn giản có quyền hạn tối cao và khơng hịa
lẫn với một vật nào. Trí tuệ tự nó tồn tai. Nếu nó khơng tự nó tồn tại, mà hòa lẫn với



một cái khác thì hỗn hợp sẽ cản trở, do vậy nó khơng thể điều khiển được một vật nào
nữa. Nó là một vật nhẹ nhất và thuần khiết nhất, có trí thức đầy đủ về tất cả và có sức
mạnh vĩ đại nhất. Trí tuệ điều khiển tất cả những gì có linh hồn.
2.3. Anaximander (610 TCN – 546 TCN)
Anaximander sinh ra tại Miletus, là một học trò nổi tiếng và là người kế tục của
Thales. Ông được xem là triết gia đầu tiên đã ghi chép lại những nghiên cứu của mình.
Ơng cũng là một nhân vật nổi tiếng trong lĩnh vực sinh học và địa lý buổi sơ khai.
Hơn nữa, ơng đã dựng nên hình ảnh đầu tiên về thế giới trong một vũ trụ mở, gạt bỏ
khái niệm về một vũ trụ đóng, và điều này đã giúp ông trở thành nhà thiên văn học
đầu tiên trong lịch sử nhân loại.Anaximander tiếp tục phát triển các quan điểm triết
học của người thầy Thales – đưa ra một ‘Arche’ hoặc một ngun lý mà ơng tin đó là
cơ sở của tất cả vũ trụ. Nhưng không giống như Thales, Anaximander cho rằng cơ sở
này đã có một ‘Apeiron’ (một chất không giới hạn) hoạt động như khởi nguồn cho tất
cả mọi thứ. Chính khởi nguồn này đã tạo nên những điểm trái ngược trong thế giới
như nóng và lạnh, sáng và tối,… Rất có thể phần lớn các tác phẩm của ông đã bị cắt
ngắn, đặc biệt là khi rơi vào tay các triết gia thế hệ tiếp theo. Thế nhưng Anaximander
vẫn thực sự là một trong những bộ óc vĩ đại nhất của Hy Lạp thời kỳ cổ đại.
2.4. Empedocles (490 TCN – 430 TCN)
Empedocles là một trong những nhà triết học quan trọng nhất trong thời kỳ tiền
Socrates. Xuất sắc hơn nữa là những bài thơ của ông đã tạo nên một sức ảnh hưởng vô
cùng lớn tới các nhà thơ thế hệ sau, bao gồm cả những người như Lucretius.
Empedocles nổi tiếng nhất là nhờ khởi xướng cho thuyết nguồn gốc vũ trụ tạo bởi bốn
nguyên tố cổ điển. Thuyết này nói rằng tất cả các vấn đề về cơ bản đều bao gồm bốn
yếu tố chính: đất, khơng khí, lửa và nước. Mặc dù một số sử gia cho rằng lý thuyết
trên là một nỗ lực để phủ nhận thuyết “vạn vật quy nhất” của Parmenides, thế nhưng
đây vẫn trở thành một trong những lý thuyết sớm nhất về phân tử vật lý, được mặc
nhiên công nhận.Empedocles chỉ đơn giản là phủ nhận sự hiện diện của bất kỳ khoảng
trống hoặc không gian rỗng nào, do đó quan niệm này mâu thuẫn với tư tưởng triết
học của Parmenides. Ông đưa ra ý tưởng về các động lực đối lập cùng hình thành nên
thế giới – cụ thể là: Ái tình là nguyên nhân của hòa hợp, và xung đột là nguyên nhân

của chia ly. Empedocles cũng đi vào nghiên cứu và trở thành người đầu tiên đưa ra
một khoản mục về sự phát triển tiến hóa các lồi.
2.5.Zeno (490 TCN – 430 TCN)
Vào thời điểm mà hầu hết các triết gia Hy Lạp cổ đại đang xem xét kỹ lưỡng suy luận
và kiến thức của mình để giải thích bản chất vốn có của tự nhiên. Zeno Elea lại dành
thời gian để làm sáng tỏ các các khúc mắc, nghịch lý về chuyển động và đa nguyên.
Giá trị của ông nằm ở chỗ ông là người đã cố gắng để tìm một lời giải thích chi tiết
cho những mâu thuẫn hiện diện trong thế giới vật chất, rất lâu trước khi logic phát
triển.Zeno tiếp tục mở rộng và bảo vệ các hệ tư tưởng triết học mà ông học được của
Parmenides, những tư tưởng đã gặp phải nhiều sự phản đối từ số đơng dư luận tại thời
điểm đó. Ơng cũng đưa ra nhiều nghịch lý của mình, trở thành đề tài gây tranh cãi sôi


nổi giữa các thế hệ triết gia sau này. Đa phần các đối số đương đại về nghịch lý của
ông được sử dụng nhằm dẫn tới sự phân chia thời gian và khơng gian vơ hạn – ví dụ
như nếu có một khoảng cách thì sẽ phải có một nửa của khoảng cách đó và tương tự.
Zeno là nhân vật đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại đã tìm ra các khái niệm
về tồn tại vơ cực.
2.6. Pythagoras (570 TCN – 495 TCN)
Cũng là một nhà triết học Hy Lạp tiền Socrates, Pythagoras được biết đến nhiều hơn
trong lĩnh vực tốn học chứ khơng phải triết học. Trong thực tế, ông nổi tiếng với các
định lý về hình học mang tên mình. Ơng là một trong những cái tên quen thuộc nhất
của xã hội tiền Socrates. Nhưng đó chưa phải là tất cả, những gì chúng tơi biết về ơng
cịn đáng ngạc nhiên hơn. Ơng được coi là người đã sáng lập ra một trường phái triết
học được nhiều người ủng hộ đi theo.Ở trường phái này, Pythagoras đã cố gắng để tìm
thấy một sự hịa hợp lẫn nhau giữa cuộc sống thực và các khía cạnh thực tiễn của triết
học. Các quan điểm của ông không hồn tồn khơ cứng như những gì chúng ta vẫn
nghĩ về triết học, nhưng nó cũng bao gồm một số vấn đề chung như “Những nguyên
tắc sống”, “Thực phẩm để ăn hàng ngày”, tương tự như vậy. Pythagoras cho rằng thế
giới là một sự hịa hợp hồn hảo và hướng việc giảng dạy của mình vào mục đích làm

thế nào để sống một cuộc sống hài hòa.
2.7. Socrates (469 TCN – 399 TCN)
Socrates đã đem lại một cái nhìn hồn toàn mới về việc ứng dụng triết học vào đời
sống hàng ngày một cách thiết thực – Điều mà phần lớn các cách tiếp cận của triết học
tiền Socrates đã khơng làm được.Khơng đi theo lối mịn bản thể luận triết học của các
bậc tiền bối. Với luận đề nổi tiếng: “Con người, hãy tự nhận thức chính mình”,
Socrates quyết định lựa chọn một con đường riêng, ông chú ý tới vấn đề con người,
mà trọng tâm trong bản tính con người là đạo đức. Theo Socrates, triết học không phải
là hiện tượng tư biện, chỉ luận bàn những vấn đề chung khơng liên quan gì đến cuộc
sống thường nhật, trái lại, nó là phương tiện dạy con người cách sống hay cần phải
sống như thế nào. Theo nghĩa đó, triết học trước hết phải là tri thức hay sự hiểu biết
của con người về con người, tri thức ấy nhất thiết phải là tri thức về cái thiện. Nếu đạo
đức là hành vi đối nhân xử thế đẹp thì đạo đức đó khơng là gì khác ngồi tri thức, do
vậy, “tri thức là đức hạnh”.Triết học Socrates khơng có một mục đích nào khác ngồi
việc hướng tới con người với những suy tư, trăn trở đời thường của nó. Ông thực sự
“là một trong số những khuôn mặt nổi bật nhất nhưng cũng bí ẩn nhất trong lịch sử
triết học”.
2.8. Plato (427 TCN – 347 TCN)
Ông là một học trò chịu ảnh hưởng rõ rệt từ cách tiếp cận triết học của người thầy
Socrates. Thế nhưng trong khi Socrates khơng ngừng bận rộn với việc giải thích triết
học chỉ dựa trên lý luận về con người, Plato lại đưa ra hướng đi của mình bằng cách
kết hợp hai cách tiếp cận chính: siêu hình học tiền Socrates thần học tự nhiên với thần
học đạo đức Socratic. Triết học của Platon là một hệ thống triết học duy tâm khách
quan lớn và đầu tiên trong lịch sử triết học đã đạt đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt


để.Trong vật lý, ông đồng ý với nhiều quan điểm của trường phái Pytago. Hầu hết các
tác phẩm của ông – đặc biệt là tác phẩm nổi tiếng nhất “The Republic” – dường như là
sự pha trộn giữa các khía cạnh khác nhau của đạo đức, triết học chính trị và siêu hình
của những người khác, làm thành một triết lý có hệ thống, có ý nghĩa và có thể áp

dụng.
2.9. Aristotle (384 TCN – 322 TCN)
Aristotle là triết gia có sức ảnh hưởng lớn nhất trong số các mơn đệ của Plato. Cách lý
giải sự vật của ông thường dựa trên những điều đã học được từ trải nghiệm thực tế, kết
hợp với những cách tiếp cận khác nhau học hỏi từ người thầy Plato. Aristotle đã
chứng tỏ bản thân vừa là một nhà văn giàu trí tưởng tượng, vừa là một học giả đầy
sáng tạo. Ông ghi lại tất cả các các quan điểm của mình trong tất cả các lĩnh vực ông
nghiên cứu.Vào thời điểm khi mà các kiến thức chun mơn của con người vẫn cịn ở
mức độ quá tổng quát, Aristotle đã phá vỡ sự đồng hố kiến thức tổng thể, phân chia
nó thành các loại khác nhau như đạo đức học, sinh học, toán học và vật lý – mơ hình
phân loại này vẫn được sử dụng cho tới ngày hôm nay. Aristotle thực sự là một nhân
vật chủ chốt trong triết học Hy Lạp cổ đại. Sức ảnh hưởng và tác động của ông không
chỉ vượt ra ngoài giới hạn của Hy Lạp cổ đại, mà còn vượt ra cả giới hạn của thời
gian.
2.10. Thales (620 TCN – 546 TCN)
Thales được xếp vào vị trí đầu bảng trong danh sách này vì ơng là điểm then chốt
trong triết học Hy Lạp cổ đại – nơi mà từ đây, các thế hệ tiếp theo của nhiều nhà tư
tưởng, nhà lý luận, biện chứng, vật lý học và triết học siêu nổi tiếng sẽ phát triển và
thành danh. Các nhà sử học coi Thales như là cha đẻ của triết học Hy Lạp cổ đại. Phần
lớn tư tưởng của Thales được truyền lại thông qua những miêu tả của Aristotle –
người đã chỉ ra rằng Thales là nhà triết học đầu tiên nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản
trong triết học như căn nguyên của vấn đề. Thales cũng được cho là người đã sáng lập
ra trường phái triết học tự nhiên.Là một triết gia, Thales hiếm khi giới hạn nghiên cứu
của mình trong một lĩnh vực hạn chế giữa biển kiến thức sẵn có. Ơng đã rất đam mê
và tích cực tìm hiểu các khía cạnh khác nhau của kiến thức như triết học, tốn học,
khoa học, địa lý, và cả những khía cạnh khơng tên khác. Ơng cũng được cho là người
đã phát triển một tiêu chuẩn rõ ràng để đưa ra giả thuyết tại sao trong sự vật lại diễn ra
những thay đổi. Ông cho rằng nước là thành phần cơ bản của thế giới. Thales là triết
gia được kính trọng bậc nhất trong xã hội Hy Lạp cổ đại.
CHƯƠNG 3

những “câu nói thời danh” của các triết gia Hy lạp Cổ đại tương đồng với triết
học Phật giáo
3.1. Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”
Heraclit cho rằng Lửa là khởi nguyên của thế giới, lửa tạo ra từng sự vật cụ thể hàng
ngày gần gũi cho đến những hành tinh xa lắc. “Thế giới này chỉ là một đối với mọi


cái, không phải do thần thánh hay do con người tạo ra nhưng nó mãi mãi đã, đang và
sẽ là ngọn lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy và mức độ của
những cái đang lụi tàn”.Lửa là cơ sở làm nên sự thống nhất của thế giới. “Thế giới chỉ
là một ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”. Các hiện tượng tự nhiên như
nắng mưa, các mùa,…theo ông không phải là những hiện tượng thần bí mà chỉ là
những trạng thái khác nhau của lửa. “Cái chết của lửa chỉ là sự ra đời của khơng khí,
cái chết của khơng khí chỉ là sự ra đời của nước. Nước sinh ra từ cái chết của đất,
khơng khí sinh ra từ cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí”. Thế giới
vận động theo trật tự mà ơng gọi là logos: logos khách quan và logos chủ quan quan
hệ với nhau như là quan hệ giữa khách thể và nhận thức. Và như vậy thì sự phù hợp
với logos khách quan là tiêu chuẩn để đánh giá tư duy con người. Đây là một đóng
góp có giá trị của Heraclit cho phép biện chứng sau này. Kinh Lửa CháyAdittapariyaya Sutta (SN 35.28).Vài tháng sau khi giác ngộ, Ðức Phật giảng bài pháp nầy
cho 1,000 tu sĩ theo phái thờ thần lửa đồi Gayasisa. Qua lối giảng siêu việt của Ngài,
Ðức Phật đã dùng ví dụ về lửa cháy (lửa tham, sân, si) để dạy về tâm xả ly đối với các
cảm thọ qua sáu căn. Sau khi nghe bài giảng nầy, tồn thể thính chúng đắc quả A-lahán. "Này các tỳ kheo, tất cả đều bốc cháy. Và những gì đang bốc cháy như thế ? Mắt
đang bốc cháy. Các hình tướng vật chất đang bốc cháy. Tri thức thị giác đang bốc
cháy. Sự tiếp xúc giữa mắt và các hình tướng vật chất đang bốc cháy. Cảm giác phát
sinh do sự tiếp xúc với các hình tướng vật chất, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù
đấy khơng phải là đớn đau cũng khơng phải là thích thú, thì giác cảm ấy vẫn đang bốc
cháy. Này các tỳ kheo, vậy những thứ ấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói
rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn lửa của hận thù,
từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua,
của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn đau, của buồn phiền,

của tuyệt vọng."Này các tỳ kheo, tai đang bốc cháy. Âm thanh do tai tiếp nhận đang
bốc cháy. Tri thức thính giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc với những gì do tai tiếp nhận
được đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh từ sự tiếp xúc với những gì tai tiếp nhận được
đang bốc cháy, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng
khơng phải là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn đang bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc
cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa
của dục vọng, từ ngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc
cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn,
của ta thán, của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng."Này các tỳ kheo, mũi đang
bốc cháy. Mùi đang bốc cháy. Tri thức khứu giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc giữa mũi
và mùi đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với những gì do mũi tiếp
nhận, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng khơng phải
là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc cháy từ những ngọn
lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn
lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự
sinh, của già nua, của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn đau,
của buồn phiền, của tuyệt vọng."Này các tỳ kheo, lưỡi đang bốc cháy. Vị đang bốc
cháy. Tri thức vị giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc giữa lưỡi và vị đang bốc cháy. Cảm
giác phát sinh do sự tiếp xúc với những gì lưỡi tiếp nhận, dù đấy là thích thú hay đớn
đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn
bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ


ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của
ảo giác ; những thứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnh tật, của
cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt
vọng."Này các tỳ kheo, thân xác đang bốc cháy. Các vật thể sờ mó được đang bốc
cháy. Tri thức xúc giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc giữa thân xác và các vật thể sờ mó
được đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với những gì do thân xác tiếp
nhận được, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy khơng phải là đớn đau cũng khơng

phải là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc cháy từ những
ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ
ngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của
sự sinh, của già nua, của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn
đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng."Này các tỳ kheo, Tư duy đang bốc cháy. Các vật
thể tâm thần đang bốc cháy. Tri thức tâm thần đang bốc cháy. Sự tiếp xúc của tư duy
với các vật thể tâm thần đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với những
gì tư duy tiếp nhận được, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy khơng phải là đớn
đau cũng khơng phải là thích thú, thì giác cảm ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc
cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa
của dục vọng, từ ngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc
cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn,
của ta thán, của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.
"Này các tỳ kheo, nếu biết nhìn tất cả mọi thứ theo phương cách đó, thì một đệ tử sáng
suốt sẽ phải kinh tởm mắt, kinh tởm những hình tướng vật chất, kinh tởm tri thức thị
giác, kinh tởm sự tiếp xúc của mắt với những hình tướng vật chất, kinh tởm cảm giác
phát sinh do sự tiếp xúc với các hình tướng vật chất, dù đấy là thích thú hay đớn đau,
dù đấy khơng phải là đớn đau cũng khơng phải là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn đang
bốc cháy. Liên quan đến lửa có một ghi chú như sau: Ở trong kinh trường bộ bài kinh
số 33 Kinh phúng tụng đức Phật có đề cập đến 3 loại lửa. Thứ nhất là lửa của cha mẹ.
Từ pali là āhuneyyaggi. Āhuneyya nghĩa là những người xứng đáng nhận sự cúng
dường dâng tặng đối với những vật dụng được mang lại từ nơi xa. Những người như
vậy được gọi là cha mẹ cho nên cha mẹ được gọi là những người xứng đáng thọ nhận
những vật dụng từ phương xa mang lại do những người con của mình mang lại, và nếu
như những người con khơng có tơn trọng cha mẹ, có những hành động bất hiếu với
cha mẹ thì cha mẹ có thể trở thành ngọn lửa. Vì sao, vì những người con đó phạm
những điều bất hiếu, cho nên do nghiệp của mình có thể bị đoạ xuống địa ngục, và bị
lửa địa ngục thiêu đốt.Cách dùng āhuneyyaggi này là cách dùng tu từ theo nghĩa đen
āhuneyyaggi có nghĩa là lửa cha mẹ, như vậy cha mẹ là lửa hay sao. Thực ra không
phải, ở đây chỉ là cách dùng tu từ, đó là cha mẹ phải được sự cung kính bởi những

người con, nhưng nếu những người con bất hiếu có những hành động bất hiếu, xấu ác
đối với cha mẹ, thì chính những nghiệp họ làm có thể đoạ xuống địa ngục, bị lửa thiêu
đốt. Vì vậy mà cha mẹ được ví như ngọn lửa, nếu như khơng khéo rất là nguy hiểm.
Và ở trong chú giải cũng có những minh chứng rất rõ ràng, đó là một người thanh niên
tên là ….. vì bất kính với mẹ mình đã dùng chân đá mẹ và do nghiệp bất kính bất hiếu
đó đã đoạ xuống địa ngục, bị lửa địa ngục thiêu đốtLoại lửa thứ hai đó là gahapataggi
( gahapati+aggi ). Gahapati có nghĩa là gia chủ, aggi có nghĩa là lửa. Nghĩa đen rằng
là lửa của gia chủ. Gia chủ ở đây là người đứng đầu trong gia đình. Theo truyền thống
thời xưa và một vài nơi thời nay, gia chủ là những người chồng, những người chủ chốt


trong gia đình. Thường có những trách nhiệm với vợ với con của mình, thường làm
cơng việc để tạo ra những vật chất như là nhà cửa, áo quần,.. để nuôi vợ và con. Cho
nên những người chồng được gọi là gahapati. Và đối với những người vợ nếu như
không có sự tơn trọng, kính trọng đối với chồng của mình, cũng như có những hành
động bất kính hay mạ lị đối với chồng của mình, giống như là đã giỡn với ngọn lửa.
Nếu như những hành động đó nó lớn có thể khiến cho người vợ đó đoạ địa ngục và bị
lửa địa ngục thiêu đốt. Cho nên những người chồng, người gia chủ ở trong nhà được
ví như gahapataggi nghĩa là lửa gia chủ. Như ở trong kinh có trường hợp cơ Malika đã
bất kính xem thường chồng của mình và sau đó đã bị đoạ xuống địa ngục và bị lửa địa
ngục thiêu đốt.Loại lửa thứ ba được đề cập trong bài kinh phúng tụng là lửa của Sa
môn. Từ pali là dakkhiṇeyyaggi (dakkhiṇeyya+aggi). Dakkhiṇeyya nghĩa là xứng
đáng thọ nhận sự cúng dường cao thượng. Ở trên đời, những người đoạn trừ bát tà
đạo, phát triển bát chánh đạo, thực hành giới định tuệ để đạt được A ra hán đạo hay
những người đang thực hành đang thuyết giảng về giới định tuệ, về bát chánh đạo là
những người xứng đáng thọ nhận sự cúng dường cao thượng. Đây là muốn nói đến
các vị xuất gia chân chánh, cho nên những vị xuất gia chân chánh được ví như ngọn
lửa gọi là lửa của sa mơn. Lửa của Sa môn ở đây cũng là một nghĩa tu từ. Sa mơn
được ví như ngọn lửa vì sao, vì những người phạm tội đến những vị sa môn, xem
thường bất kính với những vị xuất gia chân chính giống như ngọn lửa thiêu đốt. Ngọn

lửa ở đây là những quả xấu người đó phạm phải những lỗi lầm, những tội lỗi đến
những vị sa môn, vị xuất gia tu hành chân chánh. Ở trong kinh có một ví dụ minh
chứng đó là cơ gái Revatī là một người khơng có tín tâm nơi Tam bảo, cho nên khi
thấy chồng của mình làm cốc liêu dâng cúng đến chư Tăng, và ngày dâng cúng cũng
trai tăng, cúng dường vật thực và những món vật dụng cần thiết đến chư tăng thì cơ ta
đã đến nơi đó, đã đạp đổ những vật thực những vật dụng cúng dường đến chư Tăng
vào thời bấy giờ và sau đó cơ ta bị đoạ xuống địa ngục và bị lửa địa ngục thiêu đốt.
Nơi mà xảy ra sự việc này đó là ở bên Ấn Độ đặc biệt là ở một ngôi làng gần Bodh
Gaya, có một nhà mà bây giờ vẫn cịn. Nơi đó đã xảy ra sự việc của cơ Revatī này.Cho
nên đối với những đệ tử của Phật nếu như thờ lửa, cung kính đối với lửa thì phải cung
kính các bậc cha mẹ, cung kính chồng của mình, cung kính các bậc Sa mơn xuất gia tu
hành chân chính. Lửa ở đây được sử dụng với nghĩa tu từ, mang ý nghĩa đến kết quả
nhiều hơn là nguyên nhân. Vì nếu phạm phải những sai lầm đối với các bậc cha mẹ,
đối với chồng của mình, những bậc ân nhân, các bậc Sa mơn xuất gia tu hành chân
chính thì kết quả sẽ khơng tốt và có thể dẫn đến đoạ xuống địa ngụcCho nên tất cả
chúng ta có thể thẩm sát và hiểu hai việc thờ lửa: thờ lửa đối với các đạo sĩ thờ lửa
thời đức Phật và sự thờ lửa ở trong giáo pháp của đức Phật thì sự thờ lửa nào cao
thượng hơn. Đối với các đạo sĩ thờ lửa thì khơng những họ đảnh lễ mà họ còn cúng
dường lửa bằng cách rưới các loại dầu thơm, bơ, tinh chất với nguyện vọng nhờ lửa
mà có thể thiêu đốt những bất thiện nghiệp, tội lỗi ở trong họ ..Và sau khi đức Phật
quan sát căn cơ của những vị đạo sĩ này, ngài đã thấy rằng những người đạo sĩ này
vốn là những người thờ lửa, liên quan đến lửa, cho nên đức Phật đã có một bài pháp
thoại liên quan đến lửa khiến cho họ có thể dễ hiểu hơn, hiểu sâu hơn, qua đó có thể
giải thốt và giác ngộ .Và trước khi đức Phật thuyết bài pháp thoại, ngài đã chọn một
vị trí đó là Gayāsīsa. Gayā có nghĩa là con voi, sīsa có nghĩa là cái đầu. Gayāsīsa có
nghĩa đầu con voi, nghĩa là nơi có khối đá có hình dáng giống như đầu con voi, nơi đó
có một thảm đá rất là rộng có thể ngồi được 1.000 người.Cho nên vào thời đức Phật có


một vị tỳ khưu trẻ là đệ tử của ngài Sariputta, đức Phật ngài đã quan sát và thấy được

hoàn cảnh hiện tại cũng như quá khứ của vị tỳ khưu trẻ này, nên ngài đã dạy phương
pháp là quán bất tịnh. Vì là đệ tử của ngài Sariputta cho nên trước đó cũng học được
phương pháp tu tập từ ngài Sariputta. Trước khi gặp đức Phật đã tu tập với ngài
Sariputta suốt ba tháng. Sau ba tháng tu tập với ngài Sariputta, vị tỳ khưu trẻ đã xin
đến đảnh lễ đức Phật. Trước khi đến gặp đức Phật, vị tỳ khưu đã tu tập dưới sự chỉ dẫn
của ngài Sariputta với đề mục quán bất tịnh. Khi đến gặp và đảnh lễ đức Phật, đức
Phật quan sát vị tỳ khưu trẻ và thấy rằng cái đề mục bất tịnh khơng có phù hợp với vị
tỳ khưu trẻ đệ tử của ngài Sariputta, và ngài cũng khơng nói đề mục này thích hợp hay
khơng thích hợp mà ngài chỉ hướng dẫn đề mục thiền Kasiṇa thiền biến xứ màu vàng
và khuyên vị tỳ khưu trẻ tu tập theo đề mục biến xứ màu vàng này. Và chỉ trong một
thời gian ngắn, vị tỳ khưu trẻ đã chứng đắc được thiền.Vì sao đức Phật dạy tỳ khưu trẻ
quan sát đề mục màu vàng, vì ngài thấy trong quá khứ vị tỳ khưu trẻ này tiền kiếp là
một người thợ làm vàng, luôn gần gũi đến vàng. Cho nên trong kiếp này trở thành vị
tỳ khưu đức Phật ngài đã dạy phương pháp đề mục màu vàng. Vì liên quan đến quá
khứ như vậy, nên vị tỳ khưu trẻ nhìn màu vàng liền phát sinh định tâm vì màu vàng rất
quen thuộc với vị đó ở trong quá khứ .Và bây giờ cũng vậy, đức Phật đã quan sát quá
khứ của những vị đạo sĩ này, và biết rằng ở trong quá khứ, những đạo sĩ này vào thời
đức Phật Nārada cũng có những tà kiến này, cũng là những người có tà kiến thờ cúng
lửa ba lần, cho nên Ngài đã quyết định giảng bài kinh Ādittapariyāya bài kinh bốc
cháy. Để bắt đầu bài kinh đức Phật dạy rằng Sabbaṃ , bhikkhave, ādittaṃ Này các tỳ
khưu tất cả các pháp trong tam giới bị thiêu đốt bởi mười một loại lửa khác nhau.Từ
pali Sabbaṃ có nghĩa là tất cả, tất cả ở đây có nghĩa là các pháp: danh pháp và sắc
pháp hay ngũ uẩn ở trong tam giới, dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Tất cả các pháp
hữu vi như là danh pháp, sắc pháp hay ngũ uẩn ở trong tam giới bị thiêu đốt bởi 11
loại lửa khác nhau. Khi phân tích ra thì đó là mắt, sắc, tai, mũi, lưỡi, …Thường các
chúng sinh ở trong tam giới đặc biệt là dục giới và sắc giới là những chúng sinh có
ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức, cho nên khi chúng ta nghe chữ Sabbaṃ và quan sát
lại chính mình thì đó chính là ngủ uẩn ở trong mỗi người. Và đức Phật bắt đầu thuyết
chi tiết hơn với câu Cakkhu ādittaṃ mắt bị thiêu đốt.Mặc dù chúng ta có người có học
vi diệu pháp có người không học vi diệu pháp nhưng ở đây ta thử quan sát lại khi nghe

mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thì chúng ta có nhìn thấy, có hiểu được những gì hay
khơng. Chúng ta có hiểu mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là gì. Và khi nhìn ra bên ngồi có
sáu cảnh trần sắc thanh hương vị xúc pháp. Khi tiếp xúc với sáu cảnh trần này, sáu
giác gian tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý như là sáu cửa để đón nhận sáu cảnh trần ở bên
ngồi.Và như vậy mỗi cửa ở trong thân của mỗi người đều tiếp nhận những đối tượng
tương quan như là mắt tiếp nhận hình ảnh, màu sắc; tai tiếp nhận âm thanh, mũi tiếp
nhận mùi, lưỡi tiếp nhận vị, thân tiếp nhận vật xúc chạm qua thân và ý tiếp nhận
những ý tưởng, tư tưởng, hình ảnh,.. xuất hiện ở trong tâm.Và như vậy khi sáu giác
quan tiếp xúc với sáu trần cảnh như vừa mới đề cập sẽ làm phát sinh sáu thức nghĩa là
sáu sự nhận biết đối với sáu trần cảnh. Và bây giờ ta thử quan sát lại đó là khi mắt
nhìn thấy sắc (hình ảnh, màu sắc) sẽ khởi sinh lên nhãn thức. Nghĩa là sự nhận biết
hình ảnh qua con mắt. Đó là ba pháp sẽ có mặt khi mắt nhìn thấy sắc. Và khi ba thứ
này hợp lại gọi là phassa (xúc). Và như vậy thì cũng có sáu xúc, nhãn xúc là sự tiếp
xúc của mắt, sắc và nhãn thức. Tương tự như vậy nhĩ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý
xúc. Và khi có sự tiếp xúc của mắt, sắc và nhãn thức tạo ra thọ hay cảm giác.Và như


vậy cũng có sáu thọ. Mỗi thọ có ba trạng thái lạc thổ, khổ thọ, phi lạc thọ, phi khổ thọ
nghĩa là trung tính hay là xả thọ. Khi mắt thấy sắc khởi sinh lên nhãn thức và khi sự
có mặt của con mắt, sắc và nhãn thức thì sẽ có thọ, thọ có khổ thọ, lạc thọ và xả thọ.
Khi nhìn thấy một vật một hình ảnh vừa lịng khả ái thì sẽ có lạc thọ, khi nhìn thấy
một vật, một hình ảnh một điều gì đó khơng vừa lịng khả ái thì sẽ có khổ thọ. Khi
nhìn thấy một vật khơng khơng hài lịng, khơng khơng khả ái thì sẽ tạo ra cảm giác xả.
Và khi khổ lạc và xả xuất hiện thì đã có sự có mặt của tham dục, sân hận và si mê.
Ngay lúc đó ngọn lửa đang bốc cháy, ngay lúc đó ngọn lửa đang thiêu đốt. Cho nên từ
pali gọi là āditta.Chữ Rāgaggi ở đây có nghĩa lửa tham, được sử dụng như lửa của cha
mẹ, của gia chủ, của sa môn vậy, cũng là cách dùng tu từ. Bởi vì một người khi có tâm
tham dục khởi sinh lên, nếu như tâm tham dục đó vượt quá mức khiến cho người đó
cảm thấy khó chịu trong hiện tại, thấy nóng bức ở trong hiện tại và trong kiếp sau
chính lửa đó sẽ khiến cho người đó bị đau khổ ở cõi địa ngục. Và trong phụ chú giải

còn một câu chuyện ở bên Sri lanka, đó là câu chuyện của một sư cơ trẻ tuổi, khi đi
vào cung thành nhìn thấy hình ảnh của một người nam và tâm của cơ đó bắt đầu khởi
sinh lên tham dục, suy nghĩ về việc thành lập gia đình với người nam, nhiều thứ nhiều
chuyện liên quan đến người nam sau đó. Vì tâm dính mắc tham dục suy nghĩ về người
nam như vậy cho nên khiến cho tâm của cơ ta bị nóng, bị thiêu đốt bởi lửa tham và
cuối cùng cô ta bị chết với tham dục đó.Vào thời đức Phật cũng có một vị tỳ khưu đến
nhà tín nữ để khất thực, cơ tín nữ này tên là Sirimā rất là đẹp, và do khơng có thu thúc
lục căn, cho nên vị tỳ khưu đã nhìn thấy và say đắm hình tướng của cơ gái đó. Và khi
trở về chùa đã khơng có ăn uống gì nữa do tâm tham dục đang thiêu đốt vị tỳ khưu đó.
Và vào thời nay cũng có nhiều trường hợp như vậy, khi hai người yêu nhau nhưng bị
cản trở bởi cha mẹ, bởi gia đình, vì một lý do nào đó, vì họ khơng có nhìn thấy nhau
nhưng tâm tham dục, tâm dính mắc vẫn thiêu đốt họ và kết quả cuối cùng là có người
uống thuốc độc chết, có người nhảy sơng tự tử,… là do lửa của tham dục thiêu
đốt.Trên cõi trời có một hạng chư thiên tên là manopadosika, loại chư thiên
manopadosika nghĩa là hạng chư thiên bị huỷ hoại bởi tâm sân, bởi tâm ganh tỵ. Có
một câu chuyện liên quan đến hạng chư thiên này được đề cập ở trong chú giải đó là ở
trên cõi trời thường các vị chư thiên họ đi lễ hội, múa hát,.. Có một vị thiên nam đi
trước với xe, với đoàn tuỳ tùng sau đó có một vị thiên nam thứ hai đi sau. Khi nhìn
thấy vị thiên nam đi trước vị thiên nam đi sau mới nói với đồn tuỳ tùng của mình là
ơng thiên nam ở phía trước dường như chưa bao giờ tham dự lễ hội hay sao mà tỏ vẻ
vui vừng quá lộ như vậy. Vị thiên nam đi sau nói như vậy với tâm đi sau với tâm ganh
tỵ, vị thiên nam phía trước nghe được đã dừng xe lại và nói với vị thiên nam đi sau
rằng việc của tơi thì liên quan gì đến ơng mà ơng lại nói như vậy, thì cũng khởi sinh
lên tâm sân đối với vị thiên nam đi sau và vì cả hai vị thiên nam đều khởi lên tâm sân
như vậy đã khiến cho họ bị thiêu đốt bởi tâm sân đó. Hai vị thiên nam này đều sân hận
với nhau nên sự sân hận càng tăng lên một cách khủng khiếp. Khi chúng ta quan sát
thấy rằng hai đống lửa mà tiếp xúc với nhau thì ngọn lửa sẽ bùng cháy dữ dội, nhưng
nếu như một ngọn lửa rơi vào một nơi có nước thì ngọn lửa đó sẽ bị dập tắt. Tương tự
như vậy, một người nổi sân mà người khác khơng có nổi sân thì tâm sân của người đó
tự động biến mất. Nhưng nếu như người kia nổi sân thì cả hai đều nổi sân và sự sân

hận cũng trở lên bùng cháy dữ dội. Đối với những vị chư thiên mà thuộc loại
manopadosika cũng tươntg tự như vậy. Khi tâm sân khởi sinh lên khiến cho cái tâm
vật (nơi nương tựa của tâm) bị nóng lên và khi tâm vật bị nóng lên, các dịng máu


chảy qua tim cũng nóng lên và từ đó làm cho người ta nóng lên bị thiêu đốt. Cịn đối
với hạng chư thiên manopadosika thì bị thiêu đốt mãnh liệt hơn vì tâm vật mà được
tạo ra bởi tứ đại của những hạng chư thiên này rất là yếu, vì vậy khi nổi sân lên có thể
khiến cho vị chư thiên đó đột tử hay nhẹ hơn nữa thì bất tỉnh nhân sự.Cũng giống như
một cây củi đang cháy, nếu như mình lấy que củi đó bỏ xuống nước, que củi đó khơng
có cháy được nữa, ngọn lửa bị dập tắt bởi nước. Đối với những vị chư thiên
manopadosika ở cõi người thực hành thiện pháp như bố thí, trì giới, hành thiền mới
được sinh lên làm chư thiên, nhưng những vị chư thiên này do tâm sân khiến cho họ
có thể đột tử. Và nhìn thấy như vậy chúng ta khi còn ở cõi người cũng nên thực hành
bố thí, trì giới hành thiền và nhờ phước này sinh lên làm chư thiên. Và khi làm chư
thiên cũng không nên nổi sân vì nếu làm chư thiên thuộc hạng manopadosika này có
thể dẫn đến đột tử bất kỳ khi nào.Các vị trưởng lão của phụ chú giải đã kể những câu
chuyện liên quan đến manopadosika nhưng mà trong chánh tạng.Pali cũng có một câu
chuyện của người thợ săn khi mà đi săn ở trong rừng, thấy một vị tỳ khưu. Ơng ta đã
nghĩ rằng nhìn thấy vị tỳ khưu này thì hơm nay sẽ khơng săn được gì rồi, cho nên ơng
ta đã có những thái độ và hành động như là đuổi con này con kia với tâm bất thiện,
với tâm sân với vị tỳ khưu. Và vì tâm sân đó ơng thợ săn này cũng bị thiêu đốt bởi lửa
sân và sau đó cũng bị đoạ vào địa ngục và bị lửa địa ngục thiêu đốt.Còn bị huỷ hoại
bởi lửa si thì như thế nào. Trong phụ chú giải có đề cập đến loại chư thiên tên là
Khittapadosika có nghĩa là hạng chư thiên bị huỷ hoại bởi sự ham vui chơi quên mình.
Mặc dù ở cõi người thực hành bố thí như trì giới hành thiền và được sinh lên làm chư
thiên, những có những hạng chư thiên thuộc hạng Khittapadosika có nghĩa rằng những
vị chư thiên bị đột tử vì ham vui chơi mà quên ăn, có những vị chư thiên họ thích vui
chơi mà đến nỗi quên ăn luôn. Đối với những vị chư thiên đó do sắc thân được sinh ra
bởi tứ đại rất là yếu, cho nên khi mà họ quên ăn có thể dẫn đến đột tử. Những hạng

chư thiên này thường có sắc thân gọi là kajasa là sắc thân hay sắc chất do tinh cha
huyết mẹ cấu tạo thành rất yếu, nó khơng giống như ở cõi người. Con người được sinh
ra bởi tinh cha huyết mẹ rất là thô, cho nên những sắc chất mà gọi là kajasa cũng
mạnh hơn các hạng chư thiên rất là nhiều. Chính vì vậy mà ở cõi người nếu nhịn ăn
nhịn uống bảy ngày sau đó ăn uống trở lại vẫn có thể sống tiếp. Nhưng với chư thiên
thuộc hạng Khittapadosika hạng chư thiên bị huỷ hoại bởi ham vui chơi, bởi tâm si.
Họ chỉ cần quên ăn một lần thôi là có thể bị đột tử. Cho nên những hạng chư thiên này
cũng được gọi là những vị chư thiên bị thiêu đốt bởi tâm si.Đó là sự trình bày của các
nhà phụ chú giải. Trong thời đại bây giờ cũng có những trường hợp ham chơi có thể
dẫn đến đột tử, có những người họ vui chơi ở ngồi bãi biển. Họ để cho gió xâm nhập
vào người, rồi họ quên ăn,… Chính sự quên ăn được biểu hiện bằng tâm si đó cũng có
thể khiến cho họ đột tửTrên đây là sự thiêu đốt bởi lửa tham, lửa thân, lửa si qua cửa
con mắt. Đối với các cửa giác quan tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng như những ngọn lửa
khác là lửa sanh lửa già lửa chất, sầu, bi khổ ưu não có thể thiêu đốt chúng sinh. Và
với đề tài này ngài sẽ giảng tiếp vào chủ nhật tuần sauVà mỗi chúng ta khi mới thức
dạy cho đến khi đi ngủ, thỉnh thoảng cũng bị lửa tham, lửa sân, lửa si thiêu đốt.
Nhưng là một đệ tử của Phật, thực hành giáo pháp của đức Phật, ta có những phương
pháp để ngăn chặn những loại lửa này thiêu đốt. Đó là thực hành chánh niệm trên hơi
thở vào, hơi thở ra. Nếu một ngày có thể an trú, chánh niệm trên hơi thở vào hơi thở ra
5 phút, 10 phút thì trong 5 phút, 10 phút đó những ngọn lửa tham, lửa sân, lửa si có
thể dập tắt. Và nếu như đạt đến Thánh đạo thánh quả những ngọn lửa tham, sân, si,


sanh lão tử,.. mới có thể dập tắt hồn tồnVà bây giờ để dập tắt ngọn lửa tham, lửa
sân, lửa si ta sẽ thực hành chánh niệm trên hơi thở vào hơi thở ra. Khơng những có thể
dập tắt được những ngọn lửa tham sân si mà cịn có thể làm cho sức khoẻ mọi người
khoẻ mạnh hơn, làm cho tâm mọi người được sáng suốt hơn. Cho nên bây giờ chúng
ta sẽ bắt đầu thực hành chánh niệm trên hơi thở vào, hơi thở ra. Chúng ta ngồi lưng
thẳng, giữ cổ thẳng đứng một cách tự nhiên, nhắm mắt và chú tâm đến hơi thở vào,
hơi thở ra. Quan sát hơi thở vào hơi thở ra ở tiếp xúc ở lỗ mũi từ đầu đến cuối hơi thở.

3.2. không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dịng sông”.
Heraclitus cho rằng mọi thứ luôn ở trong trạng thái biến động, ln thay đổi. Ơng cho
rằng “sự vận động liên tục chính là bản chất của thiên nhiên. Mọi vật đều vận động
trong mọi lúc, mọi nơi ngay cả trong bản thân sự vật và không bao giờ tồn tại vĩnh
viễn.”Chúng thay đổi cả đặc tính và hình thức. Câu nói: “Khơng ai tắm hai lần trên
một dịng sơng.” được Heraclitus đưa ra bởi lập luận đó. Xét trên câu nói này, chúng
ta nhận ra có ba yếu tố được nhắc đến. Thứ nhất là yếu tố con người. Tiếp đó, yếu tố
dịng sơng được diễn đạt cụ thể. Cuối cùng, một yếu tố tuy không được nhắc đến cách
rõ ràng, nhưng ta vẫn ngầm hiểu rằng nó vẫn có: yếu tố thời gian. Tư tưởng của
Heraclitus thuyết phục mọi người rằng tất cả vạn vật đều biến động và thay đổi. Vì
thế, ở đây các yếu tố con người, dịng sơng đều thay đổi, thậm chí kể cả yếu tố thời
gian cũng thay đổi.Thứ nhất, con người luôn ln thay đổi từ thể lý, tâm lý, tình cảm
và ý thức hệ. Con người cũng được thụ hưởng nhiều yếu tố khác của xã hội để hồn
thiện mình. Do đó, con người được lớn lên từng ngày. Con người được sinh ra, được
nuôi dưỡng, được tiếp thu kiến thức, được hồn thiện mình trong từng ngày sống. Con
người được thay đổi từng ngày nhờ các nhu cầu của cuộc sống, từ việc ăn uống, học
tập, trao đổi kiến thức, cho đến sự thay đổi của tinh thần từ căng thẳng sang thoải mái
hoặc ngược lại. Mỗi giây phút, mỗi ngày sống, con người đều thay đổi. Có người thay
đổi theo hướng tích cực, có người thay đổi theo hướng tiêu cực. Có người từ yếu đuối
trở nên mạnh mẽ. Có người từ lạc quan trở nên bi quan. Con người chúng ta hoàn
thiện hơn nhờ vào cách chúng ta được trao dồi kiến thức học tập, học thêm ngoại ngữ,
đi đến nhiều vùng đất mới, mở mang tâm trí đầu óc, tiếp thu nhiều tinh hoa văn hóa
của nhân loại. Chính những kinh nghiệm ấy đã thay đổi chúng ta bằng cách này hay
cách khác. Mặc dù con người chúng ta thay đổi, từ xấu thành tốt, từ xấu xí trở nên đẹp
đẽ hay ngược lại thì chúng ta vẫn ln ln là chính chúng ta.Kế đến, dịng sơng cũng
ln tn chảy khơng ngừng. Đã được gọi là dịng sơng thì nó ln ln chảy. Nó
khơng bị hạn chế chỉ để đọng lại một chỗ. Một dòng chảy từ thượng nguồn đem theo
nhiều phù sa màu mỡ để bồi đắp cho biết bao nhiêu vùng đất chúng chảy qua. Bên
cạnh đó, chúng cũng đem theo biết bao ơ nhiễm cho hạ nguồn. Có ưu điểm thì cũng có
nhược điểm. Dịng sơng ở đây được xem như xã hội vậy. Dịng chảy của xã hội qua

mọi thời đại đều có những ưu điểm cần được giữ gìn, tiếp thu và phát huy, cũng có
đâu đó những điều nhuốm bẩn (nhược điểm) cần được gạn bỏ để dòng nước được trở
nên sạch trong mà nuôi dưỡng, bồi đắp phù sa cho vùng hạ nguồn. Cho dù dịng chảy
có liên tục chảy và mang theo nhiều điều mới mẻ hay nhuốm bẩn cho dịng sơng đi
chăng nữa thì con sơng vẫn là chính nó. Tư tưởng của Heraclitus được nhắc đến một
lần nữa ở đây để chứng tỏ rằng cho dù con sơng hay vạn vật có thay đổi liên tục
nhưng nó vẫn ln ln là chính nó.Ngồi ra, thời gian cũng là một phạm trù cần đề
cập đến trong câu nói của Heraclitus. Cho dù một giây có trơi qua cách vơ ích, ta cũng
sẽ khơng bao giờ lấy lại được nó một lần nữa để làm cho nó trở nên có ích. Thời gian


một khi đã trơi qua thì sẽ khơng bao giờ trở lại được. Nó cũng là một yếu tố ln biến
đổi. Thời gian có thể được hiểu là thời đại, thế giới hiện tại hay xu hướng thế giới.
Thời gian đưa con người và xã hội vào vòng xoay của nó. Tại đó, thời gian đem đến
cho chúng ta tất cả những biến chuyển của thời đại. Mỗi giây phút trơi qua, vạn vật sẽ
hồn tồn thay đổi. Xu hướng và xã hội thay đổi, con người cũng bị cuốn theo những
thay đổi đó, những cách sống, văn hóa, cách suy nghĩ, cách đối nhân xử thế cũng bị
thay đổi. Những thay đổi của thời đại dù tốt hay xấu thì đều ảnh hưởng đến chúng
ta.Như vậy, cả ba yếu tố con người, dịng sơng và thời gian đều thay đổi liên tục. Do
đó, một con người khơng thể tắm hai lần trong cùng một dịng sơng với cùng một thời
điểm được. Bởi chưng, con người và dịng sơng ở mỗi thời điểm đều khác nhau và
biến chuyển luôn luôn. Tại mỗi thời điểm, con người cũng liên tục thay đổi, dịng
sơng cũng hồn tồn thay đổi bởi dịng chảy của nó ln chuyển động. Tất cả là vơ
thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niếtbàn tịch tịnh). Ba nguyên lý[1] này dựa trên toàn bộ cấu trúc của đạo Phật: Phật giáo
Nguyên thủy, Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa.Những tín đồ của Phật giáo
Đại thừa, chính họ đã xác nhận bằng sự tương phản với Phật giáo Tiểu thừa về sự
thành lập một nguyên lý cao siêu, đặc biệt hơn ngay trong chính họ, đó là niềm tin qua
lời phát biểu của Sarvam Tathātvam: “Tất cả là như vậy”. Song, nguyên lý này không
phải là tiêu điểm trong bất cứ sự mới lạ nào. Bởi vì, lý lẽ hợp nhất sẽ đưa đến kết luận
xác thực về ba nguyên lý trình bày ở trên, mà niết-bàn là tối thắng. Trong tất cả kinh

điển thường đề cập đến “Tất cả là khổ”, vấn đề này cũng được xem như là tiêu điểm
đầu tiên trong cuộc sống. Vì khơng có gì hơn hệ luận thứ nhất là ngun lý tối thượng,
cái mà tạo nên chân lý trong thế giới hiện tượng “Tất cả là vô thường”. Theo quan
điểm của các triết gia: “Bất cứ cái gì vơ thường đều dẫn đến khổ đau; Tự ngã cũng
như vậy”. Do đó, chúng ta sẽ khơng nhầm lẫn khi nhận biết rằng ba nguyên lý trên là
giáo lý căn bản của đạo Phật, mang nét đặc thù từ tất cả hệ thống tơn giáo trong lịch
sử nhân loại. Ngun lý có cùng nguồn gốc của Heraclitus[2] “tất cả là một dòng
chảy mạnh” (IIanta Pei) nghĩa là tất cả sự vật đều thay đổi trong trạng thái tương
xứng, lời phát biểu này liên quan đến thế giới hiện tượng, thừa nhận sự chứng thực
phong phú từ các nhà nghiên cứu khoa học hiện đại. Lời bình luận sắc bén về nguyên
lý này do Giáo sư Rhys Davids trình bày, một trong những tác phẩm nổi tiếng được
xuất bản gần đây của ông.Theo Phật giáo, những học giả kỳ cựu cho rằng “Không có
sự tồn tại mà chỉ có sự xứng hợp duy nhất, mỗi trạng thái riêng biệt của chúng sinh
không xảy ra cùng một lúc mà sinh diệt tương tục”. Tất cả các pháp bao gồm con
người, sự vật… chúng ta tìm thấy hình thái và đặc tính riêng biệt của chúng để cấu
thành một vật thể. Hơn nữa, trong mỗi cá nhân khơng có sự tương phản về mối liên
quan của vạn vật, các yếu tố hợp thành nó là sự thay đổi thường hằng và không bao
giờ giống nhau, vì hai sự vật sinh diệt tiếp liền nhau. Sự sắp xếp các yếu tố tương
xứng nhau, nghĩa là tương xứng mà khác biệt và khác biệt tương xứng có thể xảy ra
mà khơng có sự hủy diệt, sự xa lìa, điều mà khơng thể tránh được ở vài thời điểm hoặc
một lúc nào đó có thể hồn thành được. Trong thời đại hiện nay khơng có nhà khoa
học nào nghi ngờ về phép tắc của những vấn đề không thể phá hủy được để bảo tồn
năng lượng trong thế giới vật chất. Đạo Phật thừa nhận rằng, tác dụng của những quy
luật này trong thế giới thực thể như những bản kinh của Sarvāstivavādins, vì nó duy
trì tính bất diệt trong trạng thái bản thể của các pháp suốt ba thời kỳ: Quá khứ, hiện tại
và vị lai. Trong kinh Pháp Hoa nói, “các pháp vốn như vậy”.[4] Thật vậy, theo Phật


giáo, tất cả sự vật khơng có điểm khởi đầu cũng khơng có điểm kết thúc. Chúng ta khó
nhận biết được: “Một vật phát xuất từ cái không hoặc cái khơng phát xuất từ một vật

nào đó và điều khơng thể xảy ra nếu có một vật tồn tại thì khơng thay đổi”. Trong kinh
Pháp Cú (bản kinh Pāli) nói: “Trong bầu trời khơng có biển cả mênh mơng, khơng có
hang động núi lớn, một nơi như thế khơng thể có sự sống, nơi mà con người có thể trú
ẩn và khơng ai có thể vượt qua sự chế ngự bởi cái chết”. Bởi vì sinh và tử là hai phạm
trù đối lập hoàn toàn, tử là sự thay đổi đột ngột và thậm chí làm xáo động tinh thần
của người chết cũng như những người đang hiện hữu trong cuộc sống hiện tại, sự thay
đổi này tùy thuộc vào sinh, lão, bệnh… Theo Phật giáo, đây là một trong những nỗi
thống khổ nhất của con người mà trong kinh điển thường đề cập đến. Bằng ngôn ngữ
chuyên môn trong Triết lý Phật giáo, đó là sự thay đổi liên quan đến cái chết ngụ ý sự
vô thường của vạn vật. Mặc khác, ý nghĩa về sát-na vô thường biểu thị sự khác nhau
giữa trạng thái sinh và trạng thái tử, giữa sự vật vô tri và vô giác… Trong Luận giải
Madhyātānugam [5] về giáo lý Duy Thức, ngài Vô Trước (Asaṅga) đã nói: “Tất cả
vạn vật được phát sinh ra do nhiều ngun nhân hợp lại thành, khơng có vật nào mà tự
nó tạo nên, khi sự kết hợp bị tan rã thì sự hủy diệt theo sau”. Như cơ thể con người
bao gồm bốn yếu tố (tứ đại): đất, nước, gió, lửa; khi tứ đại hợp thành thì ngấm ngầm
sự hủy diệt bên trong. Đó gọi là sự vô thường của một thực thể sinh diệt. Thực tế,
nguyên lý vô thường trong vũ trụ không đề cập đến thế giới thực thể mà chỉ đề cập
đến thế giới hiện tượng. Sự giải thích về nguyên lý này đã được trích dẫn ở trên, giải
thích có khuynh hướng phủ định hay hủy diệt hơn là hướng đến giải thích tuyệt đối.
Đây là điểm quan trọng, không nên để mất tầm nhìn của các nhà nghiên cứu kinh điển
Phật giáo. Nhưng tại sao nó được phép thỉnh mời ngay chính đức Phật xác định thế
giới hiện tượng một cách tiêu cực? Câu trả lời trở nên dễ dàng khi chúng ta nói đến sự
phản chiếu, vì mục tiêu của đức Phật không dựa trên trường phái Triết học mà vạch ra
con đường chứng đắc và cứu vớt chúng sinh. Thật vậy, nỗ lực tinh tấn là điều kiện cẩn
thiết của các vị đệ tử vào thời đức Phật còn tại thế. Thế giới hiện tượng luôn đè nặng
lên họ với sức áp bức của cơn ác mộng khủng khiếp và khó khăn về sự tranh đấu vì
cuộc sống trong ngọn lửa thiêu đốt. Vì thế, bằng sự giải thích tiêu cực về thế giới hiện
tượng, mục đích chính của đức Phật dường như để dẫn đạo sinh linh từ những cơn bão
tố và những cơn sóng dữ của đại dương để duy trì yếu tính bản thể, Niết-bàn tịch tịnh.
Mặc dù như vậy, nhưng bài bình luận tiêu cực về ngun lý vơ thường thì khơng thể

khơng có thuận lợi riêng của nó, “nó như vậy, nhưng khơng phải như vậy”, sự phủ
định ấy đáp ứng như một sự chỉ dẫn tuyệt đối. Như vậy, từ nguyên lý vô thường có thể
tạo ra nguyên lý thường hằng là niết-bàn tịch tịnh. Hơn nữa, trước khi ứng dụng ba
nguyên lý này, chúng ta đã diễn bày như một nền tảng căn bản của đạo Phật đối với
hiện tượng và thế giới bản thể một cách tương ứng. Chúng ta xác minh rằng nguyên lý
vô thường liên quan đến thế giới hiện tượng một cách riêng biệt; cịn ngun lý vơ ngã
thì có mối quan hệ cả ngun lý vơ thường lẫn thế giới hiện tượng; và nguyên lý
Niếtbàn tịch tịnh chỉ tùy thuộc vào thế giới bản thể.
3.3. Hãy tự hiểu chính mình.
Socrates (470-399 TCN) là một triết gia thời Hy Lạp cổ đại và là người khởi nguồn
chính cho tư tưởng phương Tây. Thơng tin về cuộc đời ơng ít được biết đến ngồi
những ghi chép của chính những học trị, trong đó có triết gia vĩ đại Plato.Ơng có câu
nói Hãy tự hiểu chính mình. Có hiểu mới có thương, dạo gần đây mình thấy mọi
người đề cập vấn đề yêu bản thân rất nhiều nhưng yêu thế nào và yêu ra sao vẫn còn


nhiều bối rối, thật ra muốn yêu bản thân được ta cần phải hiểu bản thân trước đã, nếu
không hiểu bản thân ta sẽ yêu bản thân sai cách và làm cho ta cảm thân lạc lõng trong
chính bản thân của mình. Khi ta chưa hiểu chính ta thì làm sao ta có thể hiểu người
khác, càng khơng thể u người khác được.Tầm quan trọng của việc thấu hiểu chính
bản thân mình lớn hơn những gì bạn vẫn tưởng.Đã bao giờ giữa dòng đời, bạn chợt
dừng lại và tự hỏi: "Tại sao mình thấy mệt mỏi đến vậy?". "Tại sao những việc này
ln lặp lại với mình"? Bạn cảm thấy bế tắc, thấy cuộc sống giống như một vịng tuần
hồn khơng lối thốt, và bạn chẳng thể làm gì ngồi việc bị động giơ đầu ra hứng
chịu. Ấy là vì, bạn khơng hiểu được bản thân mình.Nếu khơng hiểu được bản thân,
bạn sẽ chẳng thế thành cơng. Hiểu được chính mình chính là bước đầu của bất kì việc
gì và tồn bộ những thứ khác. Đây chính là điều đầu tiên bạn cần ý thức trước khi xác
định được những điều tiếp theo để hồn thiện bạn, bạn thích cơng việc như thế nào?
bạn có thể làm những gì để có được nó? Bao nhiêu đứa trong đám bạn của bạn mà bạn
khơng thật sự ưa, và có thể những điều bạn có thể tham gia để có thể gặp được những

điều mình thích.Cho đến khi bạn thật sự hiểu mình là ai ở mức độ căn bản nhất, bạn sẽ
mãi chỉ là người sống trong cuộc sống mà nó được thiết kế là để cho người khác, tất
cả yêu cầu thỏa mãn chẳng thể làm bạn cảm thấy tốt hơn, Thế nên dưới đây sẽ là
những điều bạn cần làm, dành cho những người chưa bao giờ hiểu “hiểu rõ bản thân”
nghĩa là gì.Chính vì lẽ đó, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu xem làm thế nào để thấu hiểu bản
thân mình hơn. Lão Tử từng giảng: “Kẻ biết người là người khơn, kẻ tự biết mình là
người sáng suốt”. Câu nói này đều chứng minh cho tầm quan trọng của việc thấu hiểu
chính mình, cũng giải thích rằng con người có thể đã khơng hiểu đúng về chính bản
thân mình. Giáo lý về Ngũ uẩn của Đức Phật là giáo lý nói về con người bởi vì Ngũ
uẩn hay năm uẩn là năm thành phần cấu tạo của con người, của cái con người bằng
xương bằng thịt thực sự
“Ngũ uẩn là gánh nặng,
Kẻ gánh nặng là người.
Mang gánh nặng ấy lên
Chính là khổ ở đời.
Cịn đặt gánh nặng xuống
Chính là lạc ở đời…”
Ngay trong câu mở đầu của Bát Nhã Tâm Kinh đã nói đến Ngũ uẩn trong câu: “Quán
Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ
nhất thiết khổ ách ”. Vậy Ngũ uẩn là gì ?Ngũ uẩn là một giáo lý rất quan trọng mà
Đức Phật đã giảng dạy tại vườn Lộc Uyển ngay từ những ngày đầu tiên trong quá
trình hoằng pháp của Người, cùng với các bài giảng về Tứ diệu đế và Mười hai nhân
duyên. Do vậy đã là phật tử thì không thể nào bỏ qua được việc am hiểu giáo lý Ngũ
uẩn. Ngũ uẩn hay năm uẩn là năm yếu tố gồm có sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành
uẩn và thức uẩn. Năm yếu tố đó nương tựa vào nhau để tạo thành con người gồm: thân
thể (yếu tố vật lý) gọi là sắc và các yếu tố về tinh thần, tâm lý gọi chung là danh như
thọ (cảm giác thọ nhận), tưởng (tri giác, ấn tượng), hành (hành xử tạo nghiệp) và thức
(ý thức, sự nhận biết). Giáo lý Ngũ uẩn có một tầm quan trọng trong đời sống người
học Phật. Một khi con người cứ bám víu vào năm uẩn, vào sắc, thọ, tưởng, hành,
thức, coi đó là ta, là của ta, là tự ngã của ta, thì sẽ xuất hiện sự đau khổ. Ý niệm về

"thân thể tơi", "tình cảm tơi", "tư tưởng tơi", "tâm tư tơi", "nhận thức của tơi"... hình


thành một cái tơi ham muốn, vị kỷ, từ đó mọi khổ đau phát sinh. Mọi khổ đau, lo lắng,
sợ hãi, thất vọng, điên cuồng đều gắn liền với ý niệm về "cái tôi" và "cái của tôi" ấy.
Cho nên, Đức Phật đã chỉ rõ : "Khi nào người Phật tử không thấy rõ nguồn gốc sinh tử
khổ đau là do sự ham muốn tham lam cái thân năm uẩn thì người đó chưa hiểu được
Phật pháp".
Ngũ uẩn thường ngăn che trí tuệ sẵn có trong con người như những đám mây che lấp
ánh sáng mặt trời. Con người do những dục vọng luôn nảy sinh làm cho mê mờ,
không nhận thấy được cái ta chân thật, cái Phật tính tiềm ẩn trong mỗi con người. Con
người thường hay bám vào cái ta, cái của ta, đuổi theo dục vọng lại càng bị trói chặt
trong cuộc sống tội lỗi, khổ đau. Do đó, nếu khơng thấy rõ và khơng nắm vững giáo lý
ngũ uẩn thì chính ngũ uẩn làm cho con người luôn luôn đau khổ, trở thành gánh nặng
của con người.
Vì vậy, trong Kinh Tương Ưng Bộ[1], phẩm Gánh nặng có một bài kệ nói rõ điều này:
Ngũ uẩn là gánh nặng,
Kẻ gánh nặng là người.
Mang gánh nặng ấy lên
Chính là khổ ở đời.
Cịn đặt gánh nặng xuống
Chính là lạc ở đời .
Đặt gánh nặng xuống xong
Không mang thêm gánh khác.
Nếu nhổ khát ái lên
Tận cùng đến gốc rễ,
Không cịn đói và khát
Được giải thốt tịnh lạc
Cũng trong Phẩm Gánh nặng của bộ kinh này, Đức Phật đã giảng giải gánh nặng
chính là sự bám giữ các thủ uẩn : cái ta, cái của ta mà gây ra đau khổ. Vì thế, chính

ngũ uẩn là gánh nặng mà kẻ gánh cái gánh nặng ấy chính là con người có danh tính,
có địa vị chức tước. Việc mang gánh nặng lên chính là mang lịng tham ái, níu kéo,
chấp thủ cái ta, cái của ta. Việc đặt gánh nặng xuống tức là sự rời bỏ lòng tham, đoạn
diệt khát ái một cách hoàn toàn, là sự từ bỏ, sự xả ly mọi phiền muộn chấp trước, sự
giải thoát đi đến giác ngộ.Từ góc độ quan sát thân ngũ uẩn là gánh nặng đeo đẳng làm
cho chúng ta khổ, một số người chủ trương thoát ly thân ngũ uẩn, đoạn diệt ý tưởng,
xa lìa cảm thọ, trốn tránh cái khổ để tìm đến Niết bàn an vui. Đây là nhận thức sai lầm
lớn khơng thể chấp nhận được.Vì vậy, khi đã là Phật tử, việc học Phật cần phải nắm
vững giáo lý về Ngũ uẩn. Con người ta khơng ai thốt khỏi những nỗi đau, buồn giận,


những bế tắc về nội tâm, những trắc trở trong cuộc sống. Trong những trường hợp ấy,
người có trí tuệ thường ứng dụng những điều giáo lý mà Đức Phật đã dạy trong Tứ
diệu đế, Mười hai nhân duyên, Ngũ uẩn để cân bằng lại đời sống nội tâm của mình.
Tóm lại những ai muốn học hỏi, nghiên cứu và tu tập theo chánh pháp, không thể
không biết đến giáo lý Ngũ uẩn. Ðó là một trong những giáo lý vô cùng quan trọng và
phải được hiểu rõ một cách tường tận, chính xác để có thể tu tập rốt ráo cho có hiệu
quả. Và cũng chính vì vậy mà Đức Phật đã giảng giải rất rõ giáo lý Ngũ Uẩn ngay
trong những bài học đầu tiên trên bước đường hoằng pháp của Người.

C. KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc, nối
những bến bờ triết học sau này. Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại mang
đến cho nhân loại vẫn cịn ngun giá trị đó. Triết học Hy Lạp cổ đại chia làm ba thời
kỳ. Thời ky tiền Socrate, thời kỳ Socrate là thời kỳ cực thịnh, thời kỳ hậu Socrate.
Trong giai đoạn này có rất nhiều triết gia nổi bậc như: Thales, Anaximandre,
Heraclite, Pythagore, Xenophane, Parmenide, Zenon, Anaxagore, Empedocle,
Democrite, Socrate, Platon, Aristote…Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên gạch đầu
tiên xây nên toàn bộ ngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có thể thấy cả bề
mặt và bề trái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại. Điều đó làm

cho nó sáng rực rỡ trên vũ đài triết học nhân loại và trở nên bất hủ. Marx nói: “Dại dột
cho ai khơng thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”. Những triết gia đã đóng góp vào kho tàng
triết học ấy nổi bậc và ngời sáng là Socrate, triết gia đã sống và chết không phải cho
riêng mình.
Nếu nền triết học phương tây là bản nhạc giao hưởng vu vươn đầy màu sắc, âm hưởng
tuyệt vời. Thì triết học cổ Hy Lạp là khúc dạo đầu hoàn mĩ. Người nghệ sĩ tài ba đánh
lên những nốt nhạc dạo đầu ấy chính là nghệ sĩ Socracte, làm say mê lòng người với
những giai điệu quyến rũ, như cơ gái mười bảy đang xỏa tóc dưới ánh trăng vàng thơ
mộng. Bản giao hưởng của triết học phương tây có lúc trầm lúc bổng, có lúc lắng
đọng, là những khỏang lặng đến tê lòng người. Khúc dạo đầu của bản giao hưởng ấy
trầm hùng từ Thales rồi bay bổng âm điệu tuyệt vời của Socrate, vu vươn của Platon,
Aristote v.vv..đến khoảng lặng nghẹt thở của thời kỳ trung cổ, rồi nó lại thăng hoa lên
vào thời phục hưng. Rồi huy hoàng tráng lệ thời cận đại và hiện đại của
Schopanhaure, Hegel, Karl Marx….
Trong những nhà triết gia phương tây ví như những nghệ sĩ chơi đàn ấy, góp phần cho
bản giao hưởng triết học phương tây còn âm vang mãi, thì nghệ sĩ Socrate và khúc dạo
đầu của triết học Hy Lạp cổ đại bao giờ cũng lắng đọng trong lòng người với những
cảm xúc dịu dàng, yên ả. Dù thời gian có qua đi tiết đấu bản giao hưởng có cách tân
cách mấy thì khúc dạo đầu vẫn còn nguyên giá trị với thời gian.


CHÚ THÍCH
[1] Ha Thúc Minh, Triết học cổ Hy lạp La mã, nxb. Mũi Cà Mau, 1997.
[2]Triết Học , NXB CTQG H Nội, 1999, tr.178
[3] Nguyễn Ngọc Thu - Bùi Văn Mưa, Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp
TPHCM, 2003, tr.64.
[4] Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Ty, NXBTH TP. HCM, 2006, tr. 26
[5] Arixtốt, Siu Hình Học, nxb. Tư Tưởng, Mátxcơva, 1976, t.1, tr. 134.
[6] Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, NXB Tổng Hợp TP.HCM,
2006.

[7] -Nguyễn Ngọc Thu - Bùi Văn Mưa, Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng
Hợp TPHCM, 2003.
-Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, NXB Tổng Hợp TP.HCM,
2006.
-Bùi Văn Hóa, Triết học phương tây, tài liệu giảng dạy, ĐHKHXHNV.
[8] - Will Durant, Câu chuyện Triết Học, NXB QNĐN, 1994, tr. 78.
-Platon, Biện minh cho Socrate, Tuyển tập, t.1. M.1982. tr. 92.
-Ts. Đỗ Minh Hợp-Nguyễn Thanh-Nguyễn Anh Tuấn, Đại Cương Lịch Sử Triết Học
Phương Tây, NXB Tổng Hợp Tp HCM. Tr. 97-98.
[9] -Nguyễn Hóa, Triết học cổ hy lạp giảng yếu, nxb. Thanh Niên, Tr.64.
- william S.sahakan, Các Triêt Gia Vĩ Đại, Lâm Thiện Thanh, Tâm Duy Chân dijch, nxb. TpHCM, tr.132.
[10] Nguyễn hóa, triết học cổ hy lạp giảng yếu, nxb. Thanh Niên, tr.67.
[11] Thích Tơn Nghiêm ( dịch), Lịch Sử Triết Học Phương Tây, nxb. TpHCM, tr.142.
[12] Kinh Di Giáo.
[13] Giáo lý phần Tập đế, trong Tứ diệu đế.
[14] Tinh thần kinh Pháp Hoa, phẩm Thí Dụ.
[15] Nguyễn Hóa, triết học cổ Hy Lạp giảng yếu, Nxb – Thanh Niên, Trang 62.
[16] Sách Da Di Luật Giải.
[17] Bùi Văn Hóa, Triết học, ĐHXHVNV, 2005.
[18] Hà Thúc Minh, Triết học cổ đại Hy Lạp La Mã, nxb. Mũi Cà Mau, 1997, tr. 63.
9 Will Durant, Câu truyện triết học, nxb. QNĐN, 1994, tr. 21.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1-Nguyễn Hữu Trọng, Các Vấn Đề Triết Học, Viện ĐH Huế, 1962.
2-Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, nxb, Tổng Hợp TP.HCM, 2006.
3-Hà Thúc Minh-Minh Chi. Đại Cương Triết Học Phương Đông. Trường
ĐHTHTPHCM. 1994.
4-Nguyễn Ngọc Thu – Bùi Văn Mưa, Giáo Trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học, nxb,
Tổng Hợp TP.HCM, 2002.

5-Bộ GD – ĐT, Triết Học, nxb, CTQG, 1999.
6-Phạm Minh Lăng, Mấy Trào Lưu Triết Học Phương Tây, nxb, ĐH và TH Công
Nghệ, 1984.
7-Hà Thiên Sơn, Lịch Sử Triết Học, nxb, Trẻ, 2004.
8-Trần Thái Định, Triết Học Descartes, nxb VH, 2005.
9-SC. TN Hương Nhũ, Tài Liệu Tham Khảo tai HV TP. HCM, 2008.
10-Platon. Biện minh cho Socrate, Tuyển tập, t.1. M.1982
11- William S.Sahakan, MabelL, Sahakan, Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Châu
biên dịch, Triết Gia Vĩ Đại, nxb Tp. HCM
13-Phạm Kim Khánh dịch, Đức Phật và Phật Pháp, nxb. Tôn Giáo, 1998.
14- Will Durant, Câu chuyện Triết Học, nxb. QNĐN, 1994.



×