Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ ÁN. PHÁP
LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ ÁN
7
1.1. Khái quát về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại toà án
7
1.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án
13
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT CÁC TRANH
CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN CẤP
PHÚC THẨM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở MỘT SỐ
TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
23
2.1. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại tòa án cấp phúc thẩm
23
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án cấp phúc thẩm ở một số tỉnh
miền núi phía Bắc
39
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI
HÀNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TỊA ÁN CẤP PHÚC THẨM
63
3.1. Ngun tắc hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại tịa án cấp phúc thẩm
63
3.2. Phương hướng hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại tòa án cấp phúc thẩm
64
3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại tòa án cấp phúc thẩm
65
3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm ở một số tỉnh miền
núi phía Bắc
71
KẾT LUẬN
75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLTTDS
: Bộ luật Tố dụng Dân sự
HĐXX
: Hội đồng xét xử
HTND
: Hội thẩm nhân dân
KDTM
: Kinh doanh, thương mại
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TCKDTM
: Tranh chấp kinh doanh, thương mại
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
WTO
: Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Tình hình giải quyết TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm tại TAND
42
bảng
2.1
các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn từ 2014 đến năm 2018
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
Tên hình
Trang
Biểu đồ tình hình thụ lý giải quyết các tranh chấp KDTM
41
hình
2.1
theo thủ tục phúc thẩm giai giai đoạn 2014 -2018
2.2
Biểu đồ thể hiện hoạt động thụ lý giải quyết tranh chấp
KDTM tại ba tỉnh Hịa Bình, Điện Biên, Sơn La giai đoạn
2014-2018
43
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong quá trình đổi mới hoạt động tư pháp, hoạt động của Toà án xét xử các
vụ án kinh doanh, thương mại (KDTM) đã đạt được những bước tiến quan trọng.
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, các tranh chấp về KDTM ngày càng
đa dạng và phức tạp. Mặt khác, khi nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), nhiều quan hệ kinh tế cũng mang những diện mạo sắc thái mới. Tương
ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các tranh chấp kinh doanh,
thương mại (TCKDTM) ngày càng phức tạp và xẩy ra ngày càng nhiều.
Ở Việt Nam, các bên có tranh chấp thường lựa chọn hình thức giải quyết
TCKDTM bằng tố tụng tư pháp tại Toà án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ
có hiệu quả các quyền và lợi ích của mình khi khơng thành cơng trong việc sử dụng
cơ chế thương lượng, hoà giải, trọng tài. Toà án là một thiết chế của Nhà nước; hoạt
động của Toà án là một hoạt động đặc biệt và mang tính kỹ năng nghề nghiệp cao.
Hoạt động xét xử của Tồ án phải đảm bảo cơng minh, nhanh chóng, chính xác và
kịp thời, tránh tình trạng tồn đọng án, giải quyết án kéo dài, gây phiền hà, tốn kém
cho các bên có tranh chấp. Do vậy, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về giải
quyết TCKDTM tại Toà Kinh tế được nhiều người quan tâm. Đồng thời, việc giải
quyết tranh chấp này cịn góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của các bên có tranh
chấp, đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh, hấp dẫn.
Trong quá trình tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các quy định về công tác xét xử phúc
thẩm các vụ án KDTM được xây dựng trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước về đổi mới hoạt động tư pháp. Cùng với sự phát triển của đất nước trong
giai đoạn hội nhập toàn diện, việc tiếp tục hồn thiện chính sách, cơ chế giải quyết
tranh chấp các vụ án KDTM là nhằm đáp ứng các yêu cầu của đất nước trong tình
hình mới.
Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân (TAND) trong hoạt động xét xử
phúc thẩm các vụ án KDTM là sự thể chế hố chủ trương, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và cải cách tư
pháp ở nước ta. Trong quá trình xét xử những tranh chấp về KDTM giữa các tổ
2
chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh, hoạt động xét xử phúc thẩm của Tồ Kinh tế
có vai trị vơ cùng lớn. Việc quy định vai trị, trách nhiệm của TAND trong hoạt
động này là một bước tiến lớn, đạt được nhiều thành tích đáng kể cũng như phát
huy được hiệu quả trong thực tiễn.
Trong những năm qua, việc Toà án xét xử phúc thẩm các vụ án KDTM về
cơ bản đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy
định pháp luật trong hoạt động xét xử phúc thẩm các vụ án KDTM của TAND ở
một số tỉnh miền núi phía Bắc chưa chưa đạt được kết quả mong muốn. Vẫn còn tồn
tại nhiều nhược điểm, bất cập và gặp những khó khăn, vướng mắc. Hoạt động xét
xử phúc thẩm các vụ án KDTM tại một số tỉnh miền núi phía Bắc địi hỏi phải có sự
đổi mới, đáp ứng với u cầu trong tình hình mới. Do đó, học viên đã lựa chọn vấn
đề "Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ở Toà án cấp phúc thẩm Thực tiễn thi hành ở một số địa phương" làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học
Luật của mình. Đây là một việc làm cần thiết và cấp bách góp phần phát hiện những
hạn chế trong việc giải quyết TCKDTM ở cấp phúc thẩm của TAND. Đồng thời với
việc chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong q trình xét xử phúc thẩm các vụ án
KDTM, tác giả luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của TAND
trong xét xử phúc thẩm các vụ án KDTM nói chung và tại TAND một số tỉnh ở
miền núi phía bắc nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều cơng trình, bài viết nghiên cứu
về vấn đề thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết TCKDTM theo những khía
cạnh khác nhau, thí dụ như:
Giáo trình Luật thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2017;
Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2017; "Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường Toà án" của
Nguyễn Vũ Hoàng, Nxb Thanh niên, năm 2013
Có một số bài đăng tạp chí chun ngành Luật học, như: "Giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2016" của
Viên Thế Giang, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2015. Trong bài báo này, tác
giả phân tích các quy định về giải quyết TCKDTM theo pháp luật hiện hành, trong
đó, có việc giải quyết các TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm ở nước ta.
3
Trong bài báo "Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh theo Bộ
luật Tố tụng dân sự và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành", Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 6/2017, tác giả Phan Chí Hiếu chỉ rõ việc giải quyết TCKDTM
theo thủ tục phúc thẩm được Toà án giải quyết trong trường hợp nào, các căn cứ
pháp lý và pháp luật áp dụng trong thực tế.
Các luận án Tiến sĩ Luật học sau đây cũng có những kết quả nghiên cứu về
hoặc liên quan đến đề tài: "Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường
Toà án ở Việt Nam" của Nguyễn Thị Kim Vinh, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003;
"Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu
lực xét xử của Toà án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân" đề tài NCKH cấp MS: 95-98-048/ĐT, đề tài cấp nhà nước do TS. ng
Chu Lưu làm chủ nhiệm, hồn thành năm 2006; "Tính độc lập của Toà án - Nghiên
cứu pháp lý về khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến
nghị đối với Việt Nam" luận án Tiến sĩ của Tơ Văn Hồ, Trường Đại học Tổng hợp
Lund, Thuỵ Điển, năm 2007. "Đổi mới và tổ chức hoạt động của các cơ quan tư
pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam" luận án Tiến sĩ của
Trần Huy Liệu, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005.
Một số luận văn Thạc sĩ Luật học cũng công bố các kết quả nghiên cứu
về/liên quan đến thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết TCKDTM, thí dụ
như: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Toà án nhân dân cấp huyện" của Vũ Đức Hoàng, Khoa Luật, Đại học Quốc
Gia Hà Nội, năm 2009; "Thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay" của Hoàng Tố Nguyên, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013... Các đề tài luận văn tiến sĩ, thạc sĩ nêu trên đã
giải quyết một cách hợp lý và thoả đáng nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, trong đó
có vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nói chung cũng như tạo lập
khn khổ pháp lý điều chỉnh việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
cho các chủ thể kinh doanh, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động xét xử của
Toà án đối với việc giải quyết các TCKDTM.
Với luận văn thạc sĩ Luật học "Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại bằng phương thức Toà án từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam (2016), tác giả Đỗ Thị
Thương (Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) đã
4
nêu được những vấn đề lý luận cũng như thực trạng pháp luật và thực tiễn giải
quyết TCKDTM bằng tố tụng tư pháp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Đồng thời, tác
giả luận văn cũng đưa ra định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết
TCKDTM bằng tố tụng tư pháp tại tỉnh Quảng Nam.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã góp phần quan trọng vào việc hồn thiện
hệ thống pháp luật của Việt Nam về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm trong thời gian qua. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu trên đều chưa đưa ra được các giải pháp để hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả của hoạt động giải quyết TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm.
Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết TCKDTM tại Toà
án đang tiếp tục được đặt ra và có nhu cầu giải quyết hoặc chưa được cập nhật trong
pháp luật hiện hành. Đây là vấn đề cấp thiết được đặt ra trong tiến trình hồn thiện
hệ thống pháp luật tố tụng dân sự nói chung, hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng ở
nước ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra phương hướng và các giải pháp
cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCKDTM ở Toà án cấp phúc thẩm;
đồng thời, nêu ra các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật về
giải quyết TCKDTM ở Toà án cấp phúc thẩm ở một số tỉnh miền núi phía bắc.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận về
việc Toà án giải quyết các TCKDTM; nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động
giải quyết TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm; nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành về giải quyết TCKDTM ở Toà án cấp phúc thẩm.
4. Đối tượng, phạm vi của việc nghiên cứu đề tài
Pháp luật về giải quyết TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm là một lĩnh vực
tương đối rộng và phức tạp thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác
nhau. Trong khuôn khổ một đề tài luận văn thạc sĩ, tác giả khơng có tham vọng giải
quyết tồn bộ và trọn vẹn các vấn đề pháp lý của lĩnh vực này, mà đi sâu vào một số
khía cạnh sau: Vai trò của TAND trong các quy định trong pháp luật dân sự nói chung,
cũng như các quy định có liên quan chức năng, nhiệm vụ của ngành Toà án; từ đó
đánh giá vai trị của Tồ án nhân dân trong công tác giải quyết TCKDTM theo thủ
tục phúc thẩm. Tác giả đi sâu phân tích vai trị của TAND thông qua các quy định
5
của pháp luật tố tụng dân sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS)
năm 2015 và có sự so sánh, đối chiếu với các quy định trong giai đoạn trước đây.
Tác giả luận văn nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về
giải quyết TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm tại TAND ở một số tỉnh miền núi phía
Bắc nhằm chỉ ra những hạn chế và khó khăn trong q trình áp dụng. Tác giả luận
văn cũng đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hồn thiện pháp luật, nâng cao
vai trị của Toà án trong giải quyết TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm ở một số tỉnh
ở miền núi phía Bắc nói riêng và cả nước nói chung trước yêu cầu mới của công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn trong những vấn đề lý luận về
vai trò của TAND trong giải quyết TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm và các quy
định của pháp luật về lĩnh vực này. Giới hạn khảo sát của đề tài là quá trình thực thi
pháp luật về giải quyết TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm của TAND một số tỉnh ở
miền núi phía Bắc từ năm 2014 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lênin kết hợp với tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Tác giả luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể thích
hợp, như: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh, đối chiếu, thống kê...
Tại chương 1 và chương 2 của luận văn, tác giả sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp, diễn dịch và quy nạp để nghiên cứu vị trí, vai trị của TAND trong
cơng tác giải quyết tranh chấp TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm thông qua các quy
định pháp luật hiện hành của Việt Nam.
Tại chương 2 và chương 3 của luận văn, tác giả sử dụng phương pháp so
sánh, đối chiếu, thống kê, phân tích số liệu, kết quả tổng kết và các quan điểm khác
nhau để rút ra kết luận, tìm hiểu nguyên nhân của các hạn chế và đưa ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCKDTM ở Toà án cấp phúc thẩm,
nhằm đáp yêu cầu hội nhập và phát triển đất nước, phù hợp với chiến lược cải cách
tư pháp ở nước ta hiện nay.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn trình bầy được một số vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh hoạt
động giải quyết TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm.
6
Luận văn phân tích, đánh giá, bình luận các quy định của pháp luật hiện
hành về việc Toà án giải quyết TCKDTM ở cấp phúc thẩm.
Luận văn trình bày được một số kết quả của việc giải quyết TCKDTM
trong thực tiễn ở một số tỉnh miền núi phía bắc.
Luận văn cũng đưa ra phương hướng, một số giải pháp nhằm hồn thiện
pháp luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả hoạt động giải quyết TCKDTM theo thủ
tục phúc thẩm tại Toà án.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Toà án. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Toà án
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Toà án cấp phúc thẩm và thực tiễn thi hành tại một số tỉnh miền núi
phía Bắc
Chương 3: Hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án cấp phúc thẩm.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ ÁN. PHÁP LUẬT
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI
TOÀ ÁN
1.1. Khái quát về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại toà án
1.1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Toà án
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hố, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác. TCKDTM là những mâu thuẫn (bất đồng hoặc xung đột) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động KDTM.
Dưới góc độ pháp luật tố tụng hiện hành ở Việt Nam hiện nay, TCKDTM là tranh
chấp giữa các chủ thể cùng có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận.
Khi tham gia các quan hệ kinh tế, việc xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn là điều
khó tránh khỏi. Các bên có tranh chấp đều mong muốn tìm được biện pháp giải quyết
tranh chấp, đảm bảo tốt nhất quyền lợi, ít gây ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa
các bên, ít tốn kém về thời gian và tiền bạc. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh
chấp trong lĩnh vực KDTM. Những nguyên nhân đó là: Vi phạm chất lượng, số lượng,
chủng loại và giấy tờ tài liệu kèm theo hàng hoá; Đã nhận tiền đặt trước (đặt cọc)
nhưng không giao hàng; Tranh chấp do lỗi của bên mua đã nhận đủ hàng nhưng
khơng tiến hành thanh tốn hoặc tiến hành thanh tốn khơng đầy đủ tiền hàng; Khơng
ký hồn tất hồ sơ giao hàng, biên bản nghiệm thu lắp đặt, xác nhận tiền hàng v.v...
Trong thực tế có rất nhiều phương thức giải quyết các TCKDTM, thí dụ
như thương lượng, hồ giải (có hồ giải viên), tố tụng trọng tài và tố tụng tư pháp.
Mỗi phương thức đó đều có những ưu điểm và nhược điểm. Thực tiễn ở Việt Nam
cho thấy đa số các chủ thể có tranh chấp về KDTM lựa chọn tố tụng tư pháp để giải
quyết tranh chấp. Thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực
nhà nước, Toà án đưa ra phán quyết buộc các bên có tranh chấp phải thi hành, kể cả
bằng sức mạnh cưỡng chế. Việc Toà án giải quyết TCKDTM trực tiếp góp phần vào
8
việc nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật cho các chủ thể kinh doanh.
Giải quyết TCKDTM là việc các chủ thể kinh doanh, các thương nhân (bao
gồm các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh) lựa chọn các phương thức, loại
hình thích hợp mà pháp luật có quy định để khắc phục, loại trừ các TCKDTM đã
phát sinh, giải toả các mâu thuẫn, xung đột, bất đồng của các bên có TCKDTM, để
đạt được kết quả mà các bên có tranh chấp có thể chấp nhận được và tự nguyện
chấp hành.
1.1.2. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tịa án
Trong q trình hợp tác kinh doanh, việc xảy ra mâu thuẫn dẫn đến những
tranh chấp giữa các chủ thể trong quan hệ hợp đồng là điều khó tránh khỏi. Với bản
chất là một quan hệ pháp luật kinh tế, thương mại, đề cao tính tự nguyện, sự tự thỏa
thuận giữa các bên, khi xảy ra tranh chấp các bên cũng được tự thỏa thuận, thương
lượng giải quyết với nhau. Khi không thể tự giải quyết các TCKDTM, một hoặc hai
bên có quyền yêu cầu Tòa án là cơ quan tài phán nhà nước giải quyết các tranh chấp đó.
Theo tác giả luận văn, việc giải quyết TCKDTM tại Tòa án cần phải đáp
ứng được các yêu cầu sau:
1) Hoạt động giải quyết TCKDTM tại Tịa án được tiến hành thơng qua một
trình tự, thủ tục nhất định đảm bảo xét xử các vụ án KDTM một cách nhanh gọn, có
hiệu quả. Việc giải quyết những tranh chấp, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên
có liên quan, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa đã được BLTTDS và các văn bản
hướng dẫn thi hành quy định một cách cụ thể và thiết thực.
2) Hoạt động giải quyết TCKDTM tại Tòa án là hoạt động giải quyết những
mâu thuẫn trong lĩnh vực KDTM giữa các chủ thể có đăng ký kinh doanh, nhằm
bảo đảm quyền lợi chính đáng của các bên.
3) Các hành vi vi phạm pháp luật về hợp đồng KDTM là các hành vi của
các chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ
thể là khả năng mà pháp luật quy định cho chủ thể phải chịu trách nhiệm về hành vi
của mình. Theo quy định của pháp luật, chủ thể là cá nhân sẽ có năng lực này khi
đạt đến một độ tuổi nhất định và trí tuệ phát triển bình thường được ghi nhận theo
quy định của pháp luật. Đó là độ tuổi mà sự phát triển về trí lực và thể lực đã cho
phép chủ thể nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra
9
cho xã hội. Họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Đối với chủ thể là tổ
chức, chủ thể sẽ có khả năng này khi được thành lập hoặc được công nhận theo quy
định của Bộ luật Dân sự (BLDS) hiện hành.
4) Trong quá trình giải quyết TCKDTM tại Tịa án, phán quyết của Tịa án
mang tính bắt buộc thực hiện cao. Các bên có tranh chấp phải đối diện với các hậu
quả pháp lý nghiêm khắc nếu cố ý khơng thi hành các quyết định của Tịa án.
5) Bảo đảm việc giữ gìn uy tín, vị thế của các bên có tranh chấp và các yếu
tố bí mật trong kinh doanh. Đây là yêu cầu quan trọng đối với hoạt động giải quyết
TCKDTM, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trên thực tế.
6) Tòa án cần giải quyết TCKDTM một cách nhanh chóng, kịp thời, đảm
bảo hạn chế tối đa việc gián đoạn quá trình sản xuất, kinh doanh của các chủ thể
kinh doanh. Có giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng kịp thời mới bảo đảm
được sự tồn tại và phát triển vững mạnh của các chủ thể kinh doanh.
Ngồi ra, để bảo đảm các quyền lợi chính đáng của các nhà kinh doanh,
việc Tòa án giải quyết TCKDTM phải đáp ứng một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc giải quyết TCKDTM phải được Tòa án thực hiện với chi phí
thấp nhất về tài chính và thời gian. Chi phí do các nhà kinh doanh bỏ ra để giải
quyết TCKDTM cũng là chi phí kinh doanh. Vấn đề đặt ra là phải hạn chế ở mức
thấp nhất các chi phí khơng mang lại hiệu quả kinh tế này. Tịa án giải quyết
TCKDTM cũng phải đáp ứng yêu cầu này, tạo niềm tin cho người kinh doanh.
Thứ hai, việc Tòa án giải quyết TCKDTM phải bảo vệ được uy tín của các
bên có tranh chấp trong thương trường. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, khơng
bên nào được đưa ra bất kỳ một thơng tin nào ngồi phạm vi giải quyết tranh chấp
hợp đồng KDTM, nhằm hạ thấp uy tín hay gây ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh của
đối tác trên thương trường, trước công luận, hay trước cơ quan giải quyết TCKDTM.
Thứ ba, việc giải quyết TCKDTM tại Tịa án phải bảo đảm các yếu tố bí
mật trong kinh doanh của các bên. Trong hoạt động kinh doanh, để có được thành
cơng, các chủ thể đều có những bí quyết riêng của mình; họ khơng muốn để người
khác biết. Quyền giữ bí mật trong kinh doanh của các bên được pháp luật bảo hộ.
1.1.3. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án
Phương thức giải quyết TCKDTM tại Tòa án là phương thức phù hợp với
10
cơ chế kinh tế với nhiều thành phần, đa dạng về loại hình doanh nghiệp, phong phú
về hình thức kinh doanh. Nó bảo đảm cho các thành phần kinh tế khi tham gia hoạt
động KDTM được đối xử bình đẳng với nhau trước pháp luật, đáp ứng được nhu
cầu giải quyết tranh chấp KDTM một cách có hiệu quả. Ở Việt Nam, sự xuất hiện
của phương thức này đã mang lại những ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội như sau:
Thứ nhất, phương thức này được sử dụng dựa trên sự thống nhất ý chí, sự
tự do thỏa thuận của các chủ thể tham gia hoạt động KDTM khi có phát sinh tranh
chấp giữa các chủ thể đó. Quy định này nâng cao và tơn trọng quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể tham gia hoạt động KDTM. Quyền này được quy định trong
Hiến pháp, đồng thời góp phần phát huy tính dân chủ, khách quan trong q trình tố
tụng dân sự nói chung.
Thứ hai, Tịa án giải quyết tranh chấp KDTM ln mang lại những lợi ích
thiết thực cho các nhà kinh doanh. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng để giúp các bên
có được sự cơng bằng đáp ứng được việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Tịa án đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp KDTM một cách nhanh gọn cho các
nhà kinh doanh, hạn chế được sự tốn kém về thời gian và tài chính là hai "yếu tố vàng"
trong kinh doanh, từ đó góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển được bền vững.
Thứ ba, phương thức này cũng là một trong những phương thức được Nhà
nước sử dụng để nhằm bảo vệ sự an tồn trong các hoạt động KDTM, góp phần
quản lý xã hội, quản lý kinh tế bằng pháp luật. Việc Tòa án giải quyết tốt các tranh
chấp KDTM là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, bởi nó sẽ tháo bỏ các trở
ngại trong kinh doanh, thiết lập lại sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau giữa các chủ thể
tham gia hoạt động KDTM.
Thứ tư, thông qua việc giải quyết tranh chấp trong KDTM sẽ cho thấy những
bất cập trong các quy định của pháp luật. từ đó có thể đưa ra phương hướng, giải pháp
cho việc hoàn thiện pháp luật, tạo hàng lang pháp lý cho hoạt động KDTM ngày càng
phát triển. Việc Toà án giải quyết TCKDTM một cách nhanh chóng kịp thời, chính
xác, nghiêm minh, đúng pháp luật đảm bảo các cho các phán quyết được thực thi
một cách nghiêm chỉnh đúng pháp luật. Điều này cũng bảo đảm việc hạn chế đến
mức tối đa sự gián đoạn trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể có tranh chấp.
1.1.4. Vai trị của Tịa án trong giải quyết tranh chấp
11
kinh doanh, thương mại
Tịa án có vai trị quan trọng trong việc giải quyết các TCKDTM. Vai trò
này được thể hiện ở những điểm như sau:
Một là, TAND nhân danh Nhà nước xét xử các vụ TCKDTM trong thực tế
đời sống xã hội nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của các bên có
tranh chấp.
Hai là, thơng qua hoạt động giải quyết TCKDTM, Tòa án thực hiện chức
năng bảo vệ pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp.
Pháp luật giải quyết tranh chấp trong KDTM trong nhà nước pháp quyền là hệ
thống những giá trị cao đẹp của xã hội dân chủ và mang trong mình những nguyện
vọng, quyền và lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Thông qua hoạt động giải quyết TCKDTM, TAND tiến hành hoạt động giải
thích pháp luật, tuyên truyền pháp luật, ngăn ngừa khả năng vi phạm pháp luật về KDTM.
Ba là, thực tiễn đã chứng minh rằng trong công tác xét xử TCKDTM,
TAND đã góp phần thúc đẩy q trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, buộc các
cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước phải tự nâng cao năng lực quản lý, trình độ
chun mơn và ý thức trách nhiệm, quản lý xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công
dân thực hiện đầy đủ các quyền tự do dân chủ của mình. Trong khi giải quyết các
TCKDTM, Tịa án đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tuân thủ các quy định
trong Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành, đảm bảo quyền và lợi
ích các chủ thể, phịng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể.
Bốn là, Tịa án góp phần thực hiện các cam kết quốc tế và giải quyết các
TCKDTM có yếu tố nước ngồi. Yêu cầu tuân thủ và vận dụng các cam kết quốc tế
của quốc gia không chỉ đến từ Nhà nước mà cịn đến từ cá nhân, tổ chức, trong đó
có cá nhân và tổ chức nước ngồi. Tịa án vừa là cơ quan trực tiếp áp dụng các cam
kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên vừa là cơ quan có trách nhiệm giám sát và
trực tiếp phân xử một hành vi pháp lý có vi phạm các cam kết mà Việt Nam đã ký
kết hoặc tham gia hay không.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, Toà Kinh tế đã đạt được những kết quả quan trọng với mục tiêu là nhằm bảo
đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động giải quyết TCKDTM, bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
1.1.5. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án theo thủ
12
tục phúc thẩm
Việc giải quyết TCKDTM tại Tòa án theo thủ tục phúc thẩm là giải quyết
những vụ việc mà bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật của TAND
cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTDS. Việc giải quyết
TCKDTM theo thủ tục phúc thẩm được thực hiện theo yêu cầu của đương sự hoặc
theo kháng nghị của Viện kiểm sát, TAND cấp trên và kháng cáo của đương sự.
Trong các hệ thống pháp luật, xét xử phúc thẩm là thủ tục của tòa án cấp trên xem
xét lại bản án bị kháng cáo của Tịa án cấp dưới khi nó chưa có hiệu lực pháp luật.
Xét xử phúc thẩm nhằm hai mục đích: một là, sửa các sai sót bản án sơ thẩm; hai là,
làm rõ và lý giải các quy định của pháp luật. Mặc dù các Tòa án cấp phúc thẩm đã
tồn tại từ hàng trăm năm nay, các nước theo hệ thống thông luật đã không quy định
quyền kháng cáo trong luật mãi cho đến thế kỉ XIX.
Không chỉ riêng đối với hoạt động xét xử phúc thẩm TCKDTM mà đối với
các tranh chấp, các hoạt động có liên quan nhằm giải quyết vụ việc dân sự thì hoạt
động xét xử phúc thẩm của Tòa án là một trong những hoạt động quan trọng đảm
bảo thực hiện quyền và lợi ích của đương sự. Đồng thời, việc Tịa án xét xử phúc
thẩm là việc thực hiện chức năng tôn trọng pháp luật của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, trong đó có Tịa án và Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong thực tế.
Tịa án có chức năng là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng xét xử đã được pháp
luật quy định. VKSND là cơ quan được giao nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp
trong thực tế. Trong quá trình xét xử các vụ án TCKDTM, nếu TAND hoặc VKSND
có sai sót trong khi thực hiện chức năng của mình trong quá trình áp dụng pháp luật,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự, thì việc xét xử phúc thẩm là điều
kiện quan trọng để có thể thực hiện tốt và đạt kết quả cao trên thực tế.
Trong hoạt động xét xử phúc thẩm của Tòa án, các chủ thể tham dự trong
quá trình xét xử phúc thẩm bao gồm: Thẩm phán, Thư ký của Tịa án, Kiểm sát
viên, các bên có tranh chấp, luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, người làm chứng, người giám định v.v...
Cơ chế, thủ tục xét xử phúc thẩm các TCKDTM được thực hiện theo quy
định của BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành. Phạm vi xét xử phúc thẩm
được Tòa án thực hiện căn cứ vào nội dung kháng cáo của đương sự và/hoặc kháng
nghị của VKSND đối với bản án, quyết định giải quyết TCKDTM đã được cấp sơ
13
thẩm thụ lý giải quyết trong thực tế.
Bộ luật Tố tụng dân sự (2015) và Thông tư số 02/2016/TTLT-VKSNDTCTANDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong
việc thi hành một số quy định của BLTTDS là tập hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể
trong quan hệ pháp luật giải quyết tranh chấp. Ở nước ta hiện nay, trong việc hoạch
định và tổ chức xây dựng các văn bản pháp luật, các nhà quản lý, nhà làm luật đều
rất quan tâm đến vấn đề giải quyết TCKDTM tại Tòa án theo thủ tục phúc thẩm.
Phạm vi và đối tượng điều chỉnh cụ thể đã được quy định trong các văn bản pháp
luật. Việc giải quyết TCKDTM theo BLDS, BLTTDS và các đạo luật chuyên ngành
đã được thực hiện một cách hài hồ và ngày càng mang tính khả thi cao.
1.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại tòa án
1.2.1. Hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại tại Tòa án
Từ trước đến nay, Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc giải quyết
TCKDTM theo thủ tục tư pháp tại Tòa án. Nhiều quốc gia trên thế giới cũng đã xây
dựng và ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực này. Những quy định về
hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động quyết TCKDTM tại Tòa án đã đáp ứng
khá tốt các yêu cầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Việc giải quyết TCKDTM tại Tòa án đã và đang trở thành vấn đề nhận
được nhiều sự quan tâm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tồn xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này cũng như để đáp ứng nhu cầu
phát triển của đất nước, pháp luật về giải quyết TCKDTM tại Tòa án đã được xây
dựng và ngày càng được sửa đổi, bổ sung một cách hoàn thiện hơn. Hệ thống văn
bản pháp luật về giải quyết TCKDTM tại Tòa án bao gồm một loạt các văn bản như
Hiến pháp (2013), BLDS (2015), BLTTDS (2015), các nghị quyết của Quốc hội,
các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), các
nghị định của Chính phủ, các thơng tư của TANDTC, của các bộ...
Hiến pháp cũng như các văn bản luật nói trên được xây dựng và ngày càng
hồn thiện, phù hợp hơn, đáp ứng u cầu chính trị, quá trình xây dựng kinh tế - xã
hội ở nước ta trong tình hình mới.
14
Trong BLTTDS (2015) các quy định từ Điều 285 đến 315 tại chương XVI
quy định về phạm vi của hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án dân sự nói chung và giải
quyết TCKDTM nói riêng tại Tịa án. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng của cơ chế
giải quyết TCKDTM trong thực tế. Đây là văn bản tố tụng về hình thức, tạo điều
kiện thuận lợi cho cơng tác quản lý nhà nước đối với hoat động giải quyết
TCKDTM tại Tịa án.
Một số nghị định, thơng tư hướng dẫn cũng đã được các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành nhằm hướng dẫn thi hành pháp luật về giải quyết
TCKDTM tại Tịa án. Có thể nêu ra một số văn bản chủ yếu sau:
- Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội
về việc thi hành BLTTDS (2015).
- Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDCT
hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 103/2015/QH13 về thi hành BLTTDS (2015).
Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban
hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự.
Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
hướng dẫn thi hành quy định của BLTTDS số 92/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi
kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương
tiện điện tử.
Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC của TANDTC,
VKSNDTC quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành quy
định của BLTTDS.
Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Tư
pháp, TANDTC, VKSNDTC quy định về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp
liên ngành trong thi hành án dân sự.
Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự.
Thông tư liên tịch 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC VKSNDTC,
TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định trong BLTTDS về kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Quyết định số 364/QĐ-VKSTC năm 2017 của VKSNDTC về Quy chế công
tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự.
15
Trong các văn bản nói trên, với tư cách là hệ thống pháp lý cơ bản với các
quy định của luật hình thức, BLTTDS (2015) với các quy định tại chương quy định
về thủ tục xét xử phúc thẩm từ chương XV đến chương XVII đã có các quy định
làm nền tảng cho hoạt động này trong thực tế. Ngoài ra, Thông tư liên tịch số
02/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC của TANDTC, VKSNDTC quy định việc phối
hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành quy định của BLTTDS (2015) trên
cơ sở đó đã ban hành các quy định về thực hiện xét xử phúc thẩm trong thực tế...
Hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn nêu trên của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đã giúp cho q trình áp dụng những quy định của pháp luật về
giải quyết TCKDTM tại Tòa án ở nước ta được thực hiện một cách đầy đủ, có hiệu
quả. Có thể nói cho tới nay, Việt Nam đã xây dựng và ban hành những quy định về
việc giải quyết TCKDTM tại Tòa án khá phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn ở nước ta.
Việc xây dựng nền tảng pháp lý cho việc thực thi pháp luật về giải quyết TCKDTM
tại Tòa án ở Việt Nam góp phần khơng nhỏ vào q trình xây dựng và phát triển,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta.
Cho tới nay, có thể thấy pháp luật đã có những quy định khá thống nhất và
xuyên suốt về việc giải quyết TCKDTM tại Tòa án. Với hoạt động ban hành các
văn bản pháp luật nêu trên, việc áp dụng những quy định của pháp luật về giải quyết
TCKDTM tại Tòa án ở Việt Nam đã được thực hiện một cách có hiệu quả hơn. Điều
đó góp phần tạo lập nền tảng pháp lý cơ bản cho việc thực thi pháp luật về giải
quyết TCKDTM tại Tịa án trong tiến trình phát triển đất nước. Điều này góp phần
khơng nhỏ nhằm ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật cũng như đề cao vai
trò của TAND trong giải quyết TCKDTM trong quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án
Trong xu thế cải cách hệ thống tư pháp, Tòa án ở Việt Nam đang có những
thay đổi mạnh mẽ về thẩm quyền cũng như thủ tục xét xử nhằm đảm bảo TCKDTM
được giải quyết nhanh chóng, cơng bằng và đúng pháp luật. Có một thực tế đang
tốn tại tại Việt Nam là hơn 95% các tranh chấp thương mại, đầu tư đã được Tòa án
các cấp xét xử.
Pháp luật về giải quyết TCKDTM tại Tịa án có các quy định cụ thể về
16
những vấn đề như sau:
Một là, đối tượng tranh chấp. Đối tượng tranh chấp được quy định tại Điều 30
BLTTDS1. Đây là nền tảng pháp lý cơ bản trong quá trình thực hiện giải quyết tranh
chấp. Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hoặc xung đột) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại.
Hai là, về chủ thể của các tranh chấp. Theo quy định hiện hành, chủ thể của
TCKDTM chủ yếu là thương nhân. Điều này xuất phát từ tính chất đặc thù của quan hệ
KDTM có thể được thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với
bên không phải là thương nhân. Một tranh chấp được coi là tranh chấp thương mại khi
có ít nhất một bên là thương nhân. Ngồi ra cũng có một số trường hợp, các cá nhân tổ
chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại, thí dụ như: tranh chấp
giữa cơng ty với thành viên công ty; tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất, giải thể, chia, tách công ty v.v…
Ba là, căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng
hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh
do các bên vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau. Tuy nhiên, cũng có thể
có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng khơng làm phát sinh tranh
chấp. Nội dung của tranh chấp thương mại là những xung đột về quyền, nghĩa vụ và
lợi ích của các bên trong hoạt động thương mại. Các quan hệ thương mại có bản
chất là các quan hệ tài sản, nên nội dung tranh chấp thương liên quan trực tiếp tới
lợi ích kinh tế của các bên.
Bốn là, các phương thức giải quyết TCKDTM đòi hỏi được giải quyết thỏa
đáng nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của
công dân, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại,
bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Hiện nay, tranh chấp thương mại được
giải quyết bằng các phương thức: thương lượng, hịa giải (có Hòa giải viên), tố tụng
trọng tài và tố tụng tư pháp. Mỗi phương thức có sự khác nhau về tính chất pháp lý,
nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành.
Năm là, trình tự thủ tục giải quyết của TAND về các TCKDTM được thực
hiện theo quy định của BLTTDS từ cấp sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục xem xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (giám đốc thẩm, tái thẩm, thủ tục đặc
1
. Xem điều 30 BLTTDS (2015)
17
biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC).
Sáu là, phương thức ra phán quyết của Tòa án tuân theo các quy định của
BLTTDS; Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện bởi cơ quan
thi hành án dân sự
Các căn cứ pháp lý cho việc Tòa án giải quyết các TCKDTM ở cấp phúc
thẩm là:
+ Kháng cáo của các bên có tranh chấp. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
kiển có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 của BLTTDS (2015). 2
+ Kháng nghị của VKSND theo quy định của Điều 278 BLTTD (2015).3
Việc kháng nghị phúc thẩm vụ án KDTM được tiến hành khi bản án hoặc
quyết định của Tồ án cấp sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng và việc khắc phục sai
lầm đó thuộc thẩm quyền quyết định của Toà án cấp phúc thẩm.
* Về chủ thể: Đương sự hoặc người đại diện đương sự có quyền kháng cáo
đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Thời hạn kháng cáo
là 15 ngày kể từ ngày Toà tuyên án hoặc ra quyết định.
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc trên một cấp có quyền kháng nghị
bản án cấp sơ thẩm; thời hạn kháng nghị là 15 ngày (đối với Viện kiểm soát cùng
cấp) hoặc 30 ngày (đối với Viện kiểm sốt cấp trên) kể từ ngày Tồ tun án hoặc ra
quyết định giải quyết các TCKDTM.
- Về địa vị pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia giải
quyết TCKDTM ở cấp phúc thẩm được thể hiện rõ dưới hai góc độ sau:
Một là, chủ thể kháng cáo bản án, quyết định của TAND: Điều 271,
BLTTDS (2015) quy định: "Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ
quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa
án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc
thẩm". Đương sự ở đây bao gồm cả người khởi kiện và người bị kiện. Đo đó, những
trường hợp dẫn tới việc xét xử phúc thẩm có thể là do người khởi kiện hoặc người
bị kiện kháng cáo. Người khởi kiện cần biết họ tham gia phiên tòa xét xử phúc thẩm
trong trường hợp nào để chuẩn bị những kỹ năng, tài liệu chứng cứ… cần thiết để
bảo vệ tốt nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối tượng kháng cáo bao
2
. Xem điều 271 BLTTDS 2015.
. Xem điều 278 BLTTDS 2015.
3
18
gồm: bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ
thẩm 4. Về nội dung kháng cáo, người có quyền kháng cáo có thể kháng cáo tồn bộ
hoặc một phần nội dung của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
Hai là, VKSND thực hiện quyền kháng nghị theo quy định tại Điều 271 của
BLTTDS (2015) khi VKSND thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần bản án,
quyết định của Tịa án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, cơng
bằng, đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của Tòa án. Kháng
nghị được đưa ra đối với những bản án, quyết định của Tịa án chưa có hiệu lực
pháp luật hoặc đã có hiệu lực nhưng trong q trình điều tra, truy tố, xét xử phát
hiện thấy có sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có tình tiết mới có thể làm
thay đổi cơ bản hay một phần quan trọng trong nội dung bản án, quyết định của Tịa
án mà Tịa án khơng biết được khi ra bản án, quyết định.
1.2.3. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
Theo tác giả luận văn, quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về
giải quyết TCKDTM tại Tòa án được thể hiện ở những giai đoạn sau:
1.2.3.1. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tịa
án trước năm 1994
Q trình chuyển đổi từ nền kinh tế hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần với định hướng xã hội chủ nghĩa dẫn đến việc
hình thành nhiều loại chủ thể kinh doanh khác nhau. Nhiều quan hệ kinh tế mới
được hình thành, các hoạt động kinh tế phát triển rất đa dạng và phức tạp. Hệ quả
của quá trình này là tranh chấp KDTM phát sinh ngày càng nhiều. Nghị định số
116/CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ quy định các chủ thể kinh doanh có quyền lựa
chọn cơ quan giải quyết tranh chấp KDTM.
Từ năm 1986 nước ta chính thức bước vào thời kỳ mở cửa, đổi mới tồn
diện. Cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam đề xướng trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm sáng tạo của cán bộ, nhân
dân ta, đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng.
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, Hiến pháp năm 1992 đã
được ban hành nhằm thay thế Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp năm 1992 quy định chế
4
. Xem điều 271 BLTTDS 2015.
19
độ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của cơng dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể
chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Nội
dung của bản Hiến pháp 1992 có nhiều điểm mới, thí dụ như khẳng định: Nhà nước
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân.
Tịa án có thẩm quyền giải quyết các TCKDTM giữa các chủ thể kinh tế,
giải quyết tranh chấp giữa công ty với thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các
tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Ngày 29-3-1992, Chủ tịch nước ký quyết định số 31-L/CTN ban hành Pháp
lệnh về giải quyết TCKDTM. Trong Pháp lệnh này có quy định trình tự thủ tục giải
quyết các TCKDTM theo thủ tục giám đốc thẩm. Cụ thể là:
Điều 59. Quyền kháng cáo, kháng nghị
1- Đương sự hoặc người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo bản
án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm
để yêu cầu Toà án trên một cấp xét xử phúc thẩm.
2- Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc trên một cấp có quyền kháng
nghị bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm.
Về cơ bản thì sự ra đời của PLGQTCKDTM đã làm cho việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ HĐTM nói chung, các tranh chấp KDTM nói riêng đã có sự
thay đổi căn bản theo hướng bảo đảm sự phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu
giải quyết tranh chấp KDTM trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
1.2.3.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
án từ năm 1994 đến trước năm 2005
Bộ luật Tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua ngày 25/6/2004 với 418
điều quy định về những vấn đề như: Những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự;
Trình tự, thủ tục khởi kiện các vụ án về tranh chấp dân sự (bao gồm cả các
TCKDTM); Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự tại Toà án; Thi
hành án dân sự; Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng; Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá
nhân, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức có liên quan nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công
20
minh và đúng pháp luật. Điều này thể hiện nỗ lực hội nhập to lớn của Việt Nam,
đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp trong quá trình phát triển của pháp luật về giải quyết
TCKDTM tại Tòa án ở Việt Nam. Có thể nói, sự ra đời của BLTTDS (2004), sửa
đổi bổ sung năm 2011 đã hình thành nền tảng pháp lý về giải quyết TCKDTM tại
Tòa án. Điều này đã làm cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTM nói
chung, các tranh chấp KDTM nói riêng đã có sự thay đổi căn bản theo hướng đáp
ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp KDTM trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam và bảo đảm sự phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trong BLTTDS, chế định phúc thẩm dân sự được quy định tại Phần thứ ba
gồm 3 chương (từ Chương XV đến Chương XVII), 39 điều luật (từ Điều 242 đến
Điều 281). Có thể nói, các quy định trong BLTTDS về thủ tục phúc thẩm dân sự đã
được kế thừa từ Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động.
Tuy nhiên, các quy định này đã có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như công cuộc cải cách hành chính, cải cách
tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.
Điều 242 BLTTDS (2004) khẳng định việc xét xử phúc thẩm là việc Toà án
cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tồ án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Việc BLTTDS quy định
về tính chất của xét xử phúc thẩm nhằm khẳng định phúc thẩm là một cấp xét xử và
là cấp xét xử thứ hai, được tiến hành sau thủ tục sơ thẩm nhằm mục đích giải quyết
đúng đắn, triệt để những tranh chấp và đảm bảo các quy định pháp luật thực hiện
một cách đúng đắn, nghiêm túc và triệt để.
1.2.3.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
án từ năm 2005 đến trước năm 2015 (từ khi có Bộ luật Tố tụng dân sự đầu tiên đến
trước khi có Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015)
Trong giai đoạn này, BLTTDS được Quốc hội thông qua ngày 25/6/2004
với 418 điều quy định về những vấn đề sau: Những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
dân sự; Trình tự, thủ tục khởi kiện các vụ án về tranh chấp dân sự (bao gồm cả các
TCKDTM. Trong thời gian hơn năm năm thi hành BLTTDS (2004) đã tiếp diễn
công cuộc cải cách tư pháp sâu rộng. Tuy nhiên, kết quả tổng kết thực tiễn phản ánh
chất lượng công tác giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại cịn nhiều hạn
chế; tình trạng khiếu kiện các bản án quyết định của Toà án ngày càng gay gắt.
21
Thực trạng này cho thấy cần có sự đánh giá khách quan vai trò của Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự, trong hoạt động tư pháp. Do đó, BLTTDS (2004), sửa đổi bổ
sung năm 2011 đã sửa đổi, bổ sung một số điều, thí dụ như: Điều 257 về thụ lý vụ
án để xét xử phúc thẩm; Điều 260 về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; Điều 262 về
chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu; Điều 264 về những người tham
gia phiên toà phúc thẩm; Điều 266 về hỗn phiên tịa phúc thẩm; Điều 271 về nghe
lời trình bày của đương sự, Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm.
Ngoài ra, BLTTDS đã bổ sung Điều 273a về phát biểu của Kiểm sát viên
tại phiên toà phúc thẩm; Điều 275 về thẩm quyền của Hội đồng xét xử (HĐXX)
phúc thẩm; Điều 277 về hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và
chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. Điều này đã nâng
cao vai trò của VKSND cũng như thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm
về cải cách tư pháp đã được xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã ghi rõ: "từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm tái thẩm theo hướng quy
định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy đinh rõ trách nhiệm của người ra
kháng nghị…; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ. Xây dựng cơ
chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định...5
1.2.3.4. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại từ năm
2015 đến nay (từ khi có Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành).
Từ khi BLTTDS (2015) với nhiều quy định tiến bộ được ban hành đến nay,
việc giải quyết TCKDTM tại Tịa án đã đạt được nhiều thành cơng. Tuy vậy, với sự phát
triển nhanh chóng, đa dạng của nền kinh tế, một số quy định về giải quyết TCKDTM tại
Tòa án đã khơng cịn phù hợp với tình hình mới, bộc lộ rõ những bất cập như: không
xác định rõ phạm vi xét xử, cũng như chủ thể được tham gia giải quyết tranh chấp tại
Tòa án; còn nhiều thiếu sót trong chế định về tố tụng dân sự, quy định vai trò hỗ trợ của
Tòa án quá mờ nhạt… Những lý do trên dẫn đến việc Nhà nước tiếp tục ban hành các
quy định về giải quyết TCKDTM tại Tịa án (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/6/2017).
BLTTDS (2015) đã có các quy định về giải quyết tranh chấp trong hoạt động KDTM
và một số quan hệ dân sự khác có ít nhất một bên tham gia hoạt động thương mại.
Những nhược điểm, bất cập của BLTTDS (2015) về giải quyết TCKDTM tại Tòa án
5
. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, Hà Nội.
22
đã cho thấy cần phải tăng cường hoàn thiện pháp luật về TTDS nói chung nhằm đáp
ứng yêu cầu của việc giải quyết các vụ án KDTM ngày càng có hiệu quả ở nước ta.
Mặc dù, các quy định về giải quyết TCKDTM tại Tòa án được xây dựng
trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết
TCKDTM tại Tòa án, kế thừa và phát triển các quy định pháp luật phù hợp đã đi
vào đời sống kinh tế xã hội, được đánh giá là bước phát triển mới của pháp luật Việt
Nam đối với vấn đề này. Nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật đã cho thấy một số quy
định hiện hành về giải quyết TCKDTM tại Tòa án đã bắt đầu bộc lộ những điểm
hạn chế, bất cập khi áp dụng vào thực tiễn.
Kết luận Chương 1
Giải quyết TCKDTM tại Tòa án là một chế định pháp lý quan trọng, là cơ
sở cần thiết trong việc thiết lập và hoàn chỉnh một hệ thống pháp luật về giải quyết
TCKDTM ở nước ta. Việc xác định đặc điểm, tính tất yếu, những yếu tố đảm bảo
trong việc giải quyết TCKDTM tại Tòa án trong lĩnh vực này góp phần vào việc
thiết lập các quy phạm pháp luật chặt chẽ nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp
luật về tố tụng tại Việt Nam. Đây là nhiệm vụ quan trọng đối với nước ta trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước, đảm bảo hài hoà giữa phát triển kinh tế và
bảo đảm quyền và lợi ích của các chủ thể kinh doanh ở Việt Nam. Đồng thời, việc
này còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể khi giải quyết tranh chấp
hợp đồng KDTM tại Tòa án. Việc này cũng góp phần quan trọng vào việc giải quyết
TCKDTM tại Tịa án ở nước ta trong q trình hội nhập và phát triển. Cùng với thời
gian thì những quy định giải quyết TCKDTM tại Tòa án đã được thay đổi nhằm phù
hợp hơn với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Hoạt động thi hành pháp luật là
quá trình đưa pháp luật vào đời sống, áp dụng những quy định trong văn bản vào
thực tiễn, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Chương 1 của luận văn đã phân tích một cách khái quát cơ sở lý luận của
việc giải quyết TCKDTM tại Tịa án ở nước ta hiện nay; đó là: Khái niệm và ý
nghĩa về tranh chấp hợp đồng KDTM; hệ thống văn bản pháp lý quy định đối với
vấn đề này trong thực tiễn áp dụng và lịch sử hình thành.
Trên cơ sở lý luận về giải quyết TCKDTM tại Tòa án ở Chương 1, tác giả
vận dụng thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam về giải quyết TCKDTM tại TAND
một số tỉnh ở miền núi phía Bắc theo thủ tục phúc thẩm, đánh giá tình hình thi hành