Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Thực trạng pháp luật về địa vị pháp luật về địa vị pháp lý của NHTM và liên hệ kinh nghiệm nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.68 KB, 62 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Cô Phạm Thị
Giang Thu cùng các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè đã động viên, tận tình giúp đỡ
tôi trong quá trình hoàn thành Khóa luận này.
Hà Nội, ngày 28 tháng 3 năm 2013
Tác giả khóa luận
Hồ Thị Hồng Hà
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong Khóa luận tốt nghiệp là trung thực. Những kết luận khoa học của Khóa luận
không sao chép trong bất kì công trình nào khác.
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng Nhà Nước
NHĐT Ngân hàng đầu tư
HĐTV Hội đồng thành viên
HĐQT Hội đồng quản trị
TCTD Tổ chức tín dụng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
NHTM là một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của hệ thống tài
chính quốc gia. Hoạt động của các NHTM thể hiện sâu sắc nhất những diễn biến
của thị trường tiền tệ nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Ngoài ra, nhìn vào
hoạt động của hệ thống các NHTM, chúng ta có thể nhìn thấy sự vận hành chính
sách tiền tệ của mỗi quốc gia trong từng thời kì cũng như sự hưng thịnh hay trên đà
suy vong của nền kinh tế quốc gia đó.


Ở Việt Nam, sau thời kì đất nước gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO,
hệ thống các NHTM phát triển mạnh mẽ, trở thành chỗ dựa đáng tin cậy và không
thể thiếu của các thành phần kinh tế, đóng góp lớn lao vào việc thúc đẩy sự phát
triển toàn diện và đồng đều của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những
mặt tích cực, trong quá trình hoạt động, hệ thống các NHTM Việt Nam còn gặp
phải nhiều khó khăn do hệ thống các quy phạm pháp luật về NHTM còn nhiều hạn
chế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của
NHTM rất có ý nghĩa trong thời kì này. Thêm vào đó, ở Việt Nam, hệ thống các
NHTM hình thành muộn và sự phát triển của hệ thống này khá non trẻ so với hệ
thống các NHTM của các quốc gia phát triển khác trên thế giới. Vì vậy chúng ta cần
tiếp thu và học hỏi những kinh nghiệm của các quốc gia đi trước để hoàn thiện pháp
luật về NHTM, tạo ra môi trường phát triển lành mạnh cho hệ thống NHTM.
Tất cả những vấn đề trên đã thôi thúc tác giả mong muốn tìm hiểu về thực
trạng pháp luật về địa vị pháp lý của NHTM đặc biệt là sau khi Luật TCTD 2010 ra
đời. Đó là nguyên do tác giả chọn đề tài: “Thực trạng pháp luật về địa vị pháp luật
về địa vị pháp lý của NHTM và liên hệ kinh nghiệm nước ngoài”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ về mặt lý luận địa vị pháp lý
của NHTM thông qua việc xem xét việc thành lập, tổ chức và hoạt động, tổng thể
các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho loại hình tín dụng này. Trên cơ sở
xem xét các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các NHTM, chỉ ra
1
những mặt đã đạt được, những mặt còn tồn tại và liên hệ kinh nghiệm nước ngoài
để đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần thực thi pháp luật một cách hiệu quả
trong thực tiễn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Khoá luận dựa trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về
tiền tệ - ngân hàng; thực tiễn quá trình hình thành và hoạt động của NHTM trong
thời gian qua để luận giải những vấn đề thuộc chế định Địa vị pháp lý của NHTM.
Ở mức độ khoá luận tốt nghiệp, tác giả tập trung vào nghiên cứu những quy

định của pháp luật về NHTM tại các các văn bản luật và văn bản dưới luật. Với mục
tiêu đó, khoá luận được kết cấu thành 2 chương:
Chương I : Những vấn đề lý luận chung về địa vị pháp lý của NHTM
Chương II: Thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của NHTM và liên hệ kinh
nghiệm nước ngoài
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận chủ yếu dựa vào phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, kết hợp giữa lí luận và
thực tiễn để nghiên cứu. Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng để khái
quát hoá, đánh giá nhận định về các vấn đề pháp lý điều chỉnh việc thành lập, tổ
chức và hoạt động của NHTM. Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu các
quy định về địa vị pháp lý của NHTM ở Việt Nam so với các quốc gia khác. Ngoài
ra còn có sự kết hợp giữa lí luận và thực tiễn thông qua điều tra, khảo sát từ đó làm
rõ bản chất của vấn đề trong phạm vi khoá luận nghiên cứu.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔ HÌNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của ngân hàng thương mại
2
NHTM có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế cũng như xã hội. NHTM là
định chế trung gian tài chính đã xuất hiện lâu đời và phổ biến nhất hiện nay. NHTM
đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1782. Lịch sử hình thành và phát triển của
NHTM gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Các NHTM
xuất hiện trong nền kinh tế với tư cách là các nhà tổ chức trung gian, nhận tiền gửi
của các tổ chức kinh tế có dư thừa và trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các đơn vị kinh
tế có nhu cầu, tức là luân chuyển vốn một cách gián tiếp. Các NHTM có phạm vi
hoạt động rộng rãi vì nó cung cấp các dịch vụ tài chính cho tất cả các lĩnh vực của
nền kinh tế và các tầng lớp dân cư. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm NHTM trên thế giới, tuỳ thuộc vào cách tiếp cận cũng như do sự khác biệt về

tính chất và mục tiêu của NHTM trên thị trường tài chính cũng như do sự khác biệt
về pháp luật, phong tục tập quán, truyền thống của mỗi quốc gia.
Theo quan điểm ở Hoa Kì, NHTM là một công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên
cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài
chính[21].
Theo quan điểm ở Pháp, đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa:
NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc
của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài
nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính[11].
Theo quan điểm ở Việt Nam, khoản 3 Điều 4 Luật TCTD 2010 định nghĩa
NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Như vậy, tóm lại, trên cơ sở các quy định của luật các TCTD 2010 và các văn
bản pháp luật hiện hành về NHTM, có thể hiểu một cách tổng quát: NHTM là một
tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là
huy động tiền gửi dưới các hình thức khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn
vốn huy động này và vốn chủ sở hữu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho
vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư
vấn và một số dịch vụ khác cho các chủ thể trong nền kinh tế theo quy định của
pháp luật hiện hành.
3
Từ khái niệm chung về NHTM, ta có thể nêu ra những đặc điểm đặc trưng để
có thể nhận diện NHTM như sau:
Thứ nhất, NHTM kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. NHTM tìm kiếm lợi
nhuận bằng cách cung ứng các dịch vụ trung gian trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng,
qua đó khách hàng phải trả cho ngân hàng các khoản lệ phí, dịch vụ phí. Đặc trưng
này làm cho NHTM khác với loại hình ngân hàng chính sách xã hội, bởi ngân hàng
chính sách xã hội thực hiện các hoạt động như cho sinh viên hay các hộ gia đình
nghèo vay không nhằm mục đích lợi nhuận mà để giúp nhà nước thực hiện các
chính sách, các chương trình nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

Thứ hai, NHTM là doanh nghiệp đặc biệt vì đối tượng kinh doanh của ngân
hàng là tiền tệ, phạm vi kinh doanh của ngân hàng là các dịch vụ phát sinh trong
lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Đặc trưng riêng này giúp phân biệt NHTM với các
doanh nghiệp kinh doanh thông thường khác. Trước hết, NHTM cũng là một doanh
nghiệp, vì NHTM hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận giống như các doanh
nghiệp khác. Tuy nhiên, đối tượng kinh của NHTM là đối tượng đặc thù, đó là tiền.
Tiền đồng thời vừa là phương tiện kinh doanh, vừa là mục đích kinh doanh của
NHTM. NHTM không tham gia vào quá trình sản xuất mà nằm ngoài quá trình sản
xuất, NHTM thực hiện huy động vốn và cho vay, cung ứng dịch vụ, thực hiện các
hoạt động ngân hàng nhằm thúc đẩy và lưu chuyển các dòng tiền tệ phục vụ cho
việc giao dịch, thanh toán , phát sinh hàng ngày trong nền kinh tế. Các NHTM có
khả năng tạo tiền từ các nghiệp vụ kinh doanh của mình thông qua các công cụ lãi
suất, tỉ giá. Vì vậy, NHTM là một mắt xích góp phần ổn định chính sách tiền tệ
quốc gia, đặc biệt là đối với các quốc gia đang chuyển đổi nền kinh tế để tham gia
hội nhập khu vực và quốc tế như Việt Nam.
Thứ ba, NHTM là TCTD có thể thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác, nó không bị hạn chế phạm vi thực hiện nghiệp vụ
kinh doanh ngân hàng như các TCTD phi ngân hàng. Điểm khác biệt rõ ràng nhất
giữa NHTM và các TCTD phi ngân hàng là NHTM có thể nhận tiền gửi của cá
nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng còn các
TCTD phi ngân hàng thì không được thực hiện các hoạt động này theo quy định của
4
pháp luật hiện hành.
Thứ tư, NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh tổng hợp, theo định hướng đa
năng. NHTM được phép kinh doanh tất cả các hoạt động ngân hàng và những hoạt
động khác có liên quan như bảo hiểm, chứng khoán,…theo quy định của pháp luật.
1.1.2 Phân loại Ngân hàng thương mại
Theo quy định của Luật các TCTD năm 2010, NHTM bao gồm các loại hình
sau: NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, NHTM liên doanh, NHTM 100% vốn nước
ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại VIệt Nam. Như vậy, ta có thể nhận

thấy, tại Việt Nam, các NHTM được phân loại dựa trên tiêu chí về cấu trúc vốn.
NHTM nhà nước là NHTM do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập, thuộc sở hữu
của nhà nước, được tổ chức hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Tuy
nhiên, do các NHTM nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng nên
còn được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện các chính sách kinh tế của Nhà nước.
NHTM cổ phần là ngân hàng được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.
Vốn do các cổ đông đóng góp, trong đó có các doanh nghiệp Nhà nước, TCTD, tổ
chức khác, và cá nhân cùng góp vốn theo quy định của NHNN. Loại hình ngân
hàng này hiện tại nhỏ hơn NHTM Nhà nước về qui mô nhưng về số lượng thì nhiều
hơn và ngày càng tỏ ra năng động và nhanh chóng đổi mới công nghệ nhằm mục
tiêu hội nhập.
NHTM liên doanh là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên Việt
Nam và bên nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. NHTM liên doanh là một
pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam, hoạt động theo giấy phép thành
lập và theo các quy định liên quan của pháp luật.
NHTM 100% vốn nước ngoài là ngân hàng được lập theo pháp luật nước
ngoài, được phép mở chi nhánh tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam.
Loại hình này xuất hiện ngày càng nhiều kể từ khi Việt Nam đổi mới và hội nhập
kinh tế.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là đơn vị phụ thuộc vào
ngân hàng nước ngoài, hoạt động theo giấy phép mở chi nhánh và pháp luật Việt
Nam, được ngân hàng mở chi nhánh đảm bảo chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa
vụ và cam kết của chi nhánh tại Việt Nam. Khi thực hiện giao dịch với khách hàng
tại Việt Nam, chi nhánh ngân hàng nước ngoài này không có tư cách pháp nhân độc
5
lập, mà thực hiện các giao dịch theo sự ủy quyền của ngân hàng nước ngoài mà
ngân hàng này phụ thuộc.
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1.2.1 Khái niệm địa vị pháp lý của ngân hàng thương mại

Thuật ngữ địa vị pháp lý dùng để chỉ địa vị của một chủ thể dưới góc độ pháp
luật. Địa vị pháp lý có thể hiểu được là “tổng hợp các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt
động của mình”[15].
Để hiểu rõ hơn về thuật ngữ địa vị pháp lý, luật sư Nguyễn Ngọc Bích đã dùng
hình ảnh "khối đá vuông có cây dù ở trên"[16] để ví về địa vị pháp lý, theo đó khối
đá vuông là địa vị, còn cây dù chính là quyền lợi và nghĩa vụ, một người muốn lấy
cây dù thì phải đứng trên khối đá vuông. Hay nói cách khác, địa vị pháp lý chính là
nền tảng để xác định quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỗi chủ thể. Muốn tìm ra địa
vị pháp lý thì phải xác định được mối tương quan pháp lý của các bên trong giao
dịch hay quan hệ. Địa vị pháp lý thể hiện vị trí, vai trò của chủ thể trong mối quan
hệ pháp luật, đồng thời, thông qua địa vị pháp lý ta có thể phân biệt được chủ thể
quan hệ pháp luật này với chủ thể quan hệ pháp luật khác.
Khái niệm địa vị pháp lý của NHTM chưa được định nghĩa một cách cụ thể rõ
ràng, đầy đủ và thống nhất trong các văn bản pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, có thể
hiểu tổng quát địa vị pháp lý của NHTM là tổng thể các quyền hạn, nghĩa vụ và
trách nhiệm của NHTM mà pháp luật quy định sao cho phù hợp với vị trí, vai trò và
chức năng được nhà nước giao cho trong quá trình hoạt động kinh doanh. Xác định
địa vị pháp lý của NHTM thực chất là xác định tư cách chủ thể, năng lực pháp luật
và năng lực hành vi của nó.
Từ khái niệm trên, ta có thể nhận thấy, nội hàm địa vị pháp lý của NHTM
được phản ánh và thể hiện ở những phương diện sau:
- Các quy phạm pháp luật quy định tư cách pháp lý của NHTM
- Các quy phạm pháp luật quy định thủ tục thành lập, phá sản, giải thể và
thanh lý NHTM
6
- Các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức, quản lý, điều hành NHTM
- Các quy phạm pháp luật quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của NHTM
- Các quy phạm pháp luật quy định về hoạt động của NHTM
1.2.2 Cơ cấu pháp luật hiện hành điều chỉnh địa vị pháp lý của ngân hàng

thương mại
Cơ cấu pháp luật điều chỉnh về địa vị pháp lý của NHTM là tổng thể các quy
phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại nhất định, được phân thành các nhóm quy
phạm pháp luật điều chỉnh cùng loại quan hệ xã hội như: các quy phạm pháp luật
quy định về tư cách pháp lý của NHTM; các quy phạm pháp luật quy định thủ tục
thành lập và giải thể NHTM; các quy phạm pháp luật về tổ chức, quản lý, điều hành
NHTM; các quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của NHTM, các
quy phạm pháp luật quy định về hoạt động của NHTM. Các quy phạm pháp luật
điều chỉnh về địa vị pháp lý của NHTM được chứa đựng chủ yếu trong hệ thống các
văn bản pháp luật về ngân hàng và một số văn bản có liên quan khác. Hiện nay, ở
Việt Nam, hệ thống các văn bản pháp luật về ngân hàng gồm có luật và các văn bản
dưới luật, các văn bản này phải thống nhất với nhau về nội dung và hiệu lực pháp
lý. Trong đó, luật được ban hành bởi quốc hội, là văn bản có giá trị pháp lý cao
nhất. Các văn bản dưới luật là những văn bản như nghị định, thông tư, được bởi
hành bởi các cơ quan có thẩm quyền như Chính phủ, NHNN để hướng dẫn thực
hiện và quy định rõ hơn các quy định trong luật.
Các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tư cách pháp lý của NHTM chủ yếu
được quy định tại Luật các TCTD năm 2010. Ngoài ra, do NHTM cũng là một tổ
chức kinh thực hiện hoạt động kinh doanh, nên quy định về tư cách pháp lý của
NHTM còn được quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự.
Các quy phạm pháp luật quy định thủ tục thành lập và giải thể NHTM được
quy định tại chương II, chương VIII Luật các TCTD năm 2010, Luật NHNN năm
2010 và tại thông tư 40/2011/TT – NHNN quy định về việc cấp giấy phép và tổ
chức, hoạt động của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện
của TCTD, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
Các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức, quản lý, điều hành NHTM được
quy định chủ yếu tại chương III Luật các TCTD năm 2010. Thêm vào đó, do
7
NHTM cũng là một doanh nghiệp, vì vậy, việc tổ chức, quản lý, điều hành NHTM
cũng phải tuân theo các quy định tại Luật doanh nghiệp.

Các quy phạm pháp pháp luật về quyền và nghĩa vụ của NHTM được quy định
tại chương I Luật các TCTD năm 2010 và nằm trong một số các văn bản pháp luật
có liên quan khác.
Các quy phạm pháp luật về hoạt động của NHTM được quy định tại chương
IV Luật các TCTD năm 2010 và tại một số các thông tư hướng dẫn như sau:
- Thông tư 40/2011/TT-NHNN quy định về việc cấp giấy phép và tổ chức,
hoạt động của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của
TCTD, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
- Thông tư 21/2012/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay, đi vay; mua,
bán có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
- Thông tư 32/2012/TT-NHNN/TT-NHNN về việc quy định lãi suất tối đa đối
với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài
- Nghị định 57/2012/NĐ-CP về chế độ tài chính đối với TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài
- Thông tư 14/2012/TT-NHNN quy định lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng
đồng Việt Nam của TCTD, chi nhánh ngân hàng đối với khách hàng vay để đáp ứng
nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế
- Thông tư 04/2012/TT-NHNN quy định về nghiệp vụ nhận ủy thác và ủy thác
của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
- Thông tư số 7/2013/TT-NHNN quy định về việc kiểm soát đặc biệt đối với
TCTD
Như vậy, Luật các TCTD năm 2010 và Luật NHNN năm 2010 là hai đạo luật
ngân hàng có hiệu lực pháp lý cao nhất, trong đó, chủ yếu là Luật các TCTD năm
2010 điều chỉnh các vấn đề chung về địa vị pháp lý của NHTM. Ngoài ra, địa vị
pháp lý của NHTM còn được quy định ở các thông tư, nghị định hướng dẫn và một
số các văn bản pháp luật có liên quan khác. Việc áp dụng các văn bản đối với
NHTM tuân theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng văn bản pháp luật chuyên ngành.
1.2.3 Yếu tố chi phối địa vị pháp lý của ngân hàng thương mại
Các quy định về địa vị pháp lý của NHTM là một trong những công cụ được

8
nhà nước sử dụng để thực hiện công việc quản lí nhà nước đối hệ thống NHTM tại
chính quốc gia mình. Tuy nhiên, các quy định này không thể được ban hành một
cách tùy tiện, chủ quan bởi các quy định của pháp luật có thể thúc đẩy, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển nhưng cũng có thể kìm hãm sự phát triển của hệ thống
NHTM nói riêng và nền kinh tế quốc gia nói chung. Việc xác định địa vị pháp lý
của NHTM chịu sự chi phối của các yếu tố khách quan và chủ quan như sau
a) Yếu tố chủ quan chi phối địa vị pháp lý của NHTM
Thứ nhất: vị trí, vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Ở Việt Nam trước kia, trong thời kì nền kinh tế được vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, kinh tế quốc doanh là thành phần kinh tế chủ yếu, giữ vai trò
quan trọng nhất trong nền kinh tế, bởi vậy, các NHTM, đặc biệt là các ngân hàng
không thuộc sở hữu nhà nước có vai trò mờ nhạt, bị kìm hãm sự phát triển. Sau đó,
công cuộc đổi mới đất nước diễn ra, từ đó đến nay, để phát triển một nền kinh tế
còn lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém về nhiều mặt so với các quốc gia khác trên thế
giới, chúng ta cần có rất nhiều vốn. Trong đó, tín dụng ngân hàng là nguồn vốn
quan trọng, chủ động để phát triển nguồn vốn trong nước. Do vậy, các NHTM lại có
vai trò, vị trí quan trọng hơn bao giờ hết với nền kinh tế đất nước.
Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, NHTM có các vị trí, vai trò như sau:
- NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Thực tế cho thấy, để phát triển
kinh tế các đơn vị kinh tế cần phải có một lượng vốn lớn đầu tư cho hoạt động sản
xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Nhưng điều khó khăn hơn lợi ích là cần có
người đứng ra tập trung tiền nhàn rỗi ở mọi nơi mọi lúc và kịp thời cung ứng cho
nơi cần vốn. Bằng vốn huy động được trong xã hội thông qua hoạt động tín dụng,
NHTM đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách
kịp thời cho quá trình sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống NHTM và đặc biệt
là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất, cải
tiến máy móc, công nghệ để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và

9
chất lượng sản phẩm cho xã hội.
- NHTM là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường. Bước sang cơ chế thị
trường, các nhà máy, xí nghiệp với công nghệ lạc hậu trước đây cần một lượng vốn
lớn để thay đổi công nghệ với các dây chuyền sản xuất hiện đại, năng suất cao, thực
hiện chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Tuy nhiên, điều đó không thể
được thực hiện bằng vốn tự có của các doanh nghiệp vốn dĩ đã rất ít ỏi. Bên cạnh
đó, tín dụng ngân hàng còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng
cường nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp. Một vấn đề luôn là mối lo thường
trực của các doanh nghiệp. Một khía cạnh khác đòi hỏi sự có mặt của tín dụng ngân
hàng đối với doanh nghiệp, đó là ngân quỹ để dành cho việc đào tạo đội ngũ lao
động phù hợp với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật - công nghệ cao. Đặc biệt
trong điều kiện nước ta vẫn còn thiếu nhiều những chuyên gia đầu ngành, những
cán bộ có năng lực và những công nhân lành nghề.
- NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Nhận thức
được tầm quan trọng của kinh tế quốc tế, sự hội nhập kinh tế quốc gia với thế giới
đem lại những lợi ích kinh tế to lớn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền
vững. Một trong các điều kiện quan trọng góp phần thúc đẩy sự hội nhập nền kinh
tế quốc gia với nền kinh tế thế giới đó là nền tài chính quốc gia. Nền tài chính quốc
gia là cầu nối với nền tài chính quốc tế thông qua hoạt động của NHTM trong các
lĩnh vực kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ
ngoại hối và các nghiệp vụ khác. Đặc biệt là các hoạt động thanh toán quốc tế, buôn
bán ngoại hối, quan hệ tín dụng của các NHTM một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đã
tác động góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu và thông qua đó
NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động
của nền tài chính quốc tế.
Như vậy, NHTM có vai trò chủ đạo đối với nền tài chính nói riêng và nền kinh
tế quốc gia nói chung. Với vai trò như vậy, nội dung các quy định pháp luật xác
định địa vị pháp lý của NHTM bị chi phối bởi ý chí của Nhà nước trong việc thực
hiện vai trò chủ đạo của NHTM đối với nền kinh tế - tài chính quốc gia.

Thứ hai: do tính đặc thù của hoạt động ngân hàng.
10
Hoạt động ngân hàng khác với các hoạt động kinh doanh thông thường khác
bởi đối tượng kinh doanh là tiền tệ và cung ứng dịch vụ thanh toán. Hoạt động ngân
hàng ảnh hưởng và chi phối tới các lĩnh vực kinh tế - xã hội, giúp nhà nước điều tiết
lượng tiền mặt trong lưu thông phù hợp với quy luật lưu thông tiền tệ, đảm bảo điều
kiện không thiếu tiền nhưng cũng không thừa tiền quá mức. Đồng thời, hoạt động
ngân hàng cũng nâng cao khả năng sự dụng hiệu quả đồng vốn trong nền kinh tế:
với chức năng huy động vốn nhàn rỗi và cấp tín dụng lại cho nền kinh tế đã làm
tăng khả năng và hiệu quả sử dụng đồng vốn trong nền kinh tế, qua đó thúc đẩy các
quan hệ kinh tế phát triển lành mạnh và tích cực. Tuy nhiên đây cũng là những hoạt
động mang tính rủi ro cao, chịu sự chịu sự tác động của các quy luật mang tính nhạy
cảm như: quy luật lây lan, tâm lý đám đông (Ví dụ: tình trạng rút tiền hàng loạt ở
một số ngân hàng như Á Châu ACB năm 2003), quy luật tương hỗ (có mối quan hệ
chặt chẽ với các thị trường tài chính, tiền tệ), quy luật cung cầu
Với những đặc thù riêng biệt của hoạt động ngân hàng, các quy phạm pháp
luật về địa vị pháp lý của NHTM không thể được đưa ra một cách tùy tiện, mà phải
phù hợp với các đặc thù riêng biệt của ngành ngân hàng, giúp các NHTM phát huy
được thế mạnh, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh, ngày càng có một môi trường
kinh doanh công bằng, lành mạnh.
b) Các yếu tố khách quan chi phối địa vị pháp lý của NHTM
Thứ nhất: cơ chế quản lí kinh tế của nhà nước
Dưới góc độ pháp lý, cơ chế quản lí kinh tế là toàn bộ hệ thống quy phạm
pháp luật của Nhà nước quy định về quản lí và điều hành nền kinh tế. Để góp phần
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, Nhà nước cần có cơ chế quản lí kinh tế thích
hợp với từng thời kỳ. Trong các cơ chế quản lí kinh tế khác nhau thì địa vị pháp lý
của các doanh nghiệp sẽ được quy định khác nhau. Hiện nay, cơ chế quản lí kinh tế
ở Việt Nam là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước vẫn có vai
trò trong việc quản lí nền kinh tế đất nước, tuy nhiên Nhà nước không quản lí kinh
tế theo kế hoạch mà điều tiết kinh tế ở tầm vĩ mô. Điều đó có nghĩa là Nhà nước tạo

ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho mọi doanh nghiệp hoạt động và các
11
doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về quá trình hoạt động của mình. NHTM
cũng nằm trong hệ thống các doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế của quốc
gia. Vì vậy, các quy phạm pháp luật xác định địa vị pháp lý của NHTM phải phù
hợp với cơ chế quản lí kinh tế hiện tại, đảm bảo đầy đủ các điều kiện về tài sản, tư
cách chủ thể, quyền và nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh độc lập.
Thứ hai: sự phát triển của nền kinh tế và của thị trường tài chính Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, các NHTM có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển của thị trường tài chính Việt Nam nói riêng và nền kinh đất nước nói
chung. Tuy nhiên, vì các NHTM cũng là một mắt xích nằm trong thị trường tài
chính và nền kinh tế đất nước nên các NHTM cũng chịu tác động, ảnh hưởng chung
từ sự phát triển của thị trường tài chính và nền kinh tế đất nước. Do đó, pháp luật về
địa vị pháp lý của NHTM cũng chịu sự chi phối của sự vận động, phát triển của thị
trường tài chính và của nền kinh tế đất nước. Điều này thể hiện rõ nhất trong giai
đoạn sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế đất
nước phát triển mạnh mẽ, thị trường tài chính có những bước tiến mới thì pháp luật
về địa vị pháp lý của NHTM đã được đổi mới hoàn toàn để tạo ra hành lang pháp lý
vững chắc cho sự phát triển của hệ thống NHTM.
Tóm lại, việc nghiên cứu mô hình NHTM và lí luận về địa vị pháp lý của
NHTM cho phép rút ra những kết luận sau:
Thứ nhất, NHTM vừa là một TCTD, vừa là một loại hình doanh nghiệp với
những đặc điểm riêng biệt, đóng vai trò quan trọng tất yếu, không thế thiếu đối với
sự phát triển của thị trường tài chính và nền kinh tế mỗi quốc gia.
Thứ hai, pháp luật về địa vị pháp lý của NHTM được quy định trong các văn
bản pháp luật như Luật các TCTD năm 2010 và các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên,
các quy định trong các văn bản này phải chịu sự chi phối của các yếu tố khách quan
và chi quan khác nhau.
CHƯƠNG 2
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1 TƯ CÁCH PHÁP LÝ
12
Địa vị pháp lý của NHTM được thể hiện qua nhiều yếu tố, trong đó, tư cách
pháp lý là một bộ phận cấu thành quan trọng, thể hiện khả năng tự chủ của NHTM
trong hoạt động kinh doanh. Trong Bộ luật dân sự của chúng ta không có định
nghĩa về tư cách pháp nhân, mà chỉ quy định những đặc điểm để một tổ chức được
xem là pháp nhân. Theo đó, tại Điều 84 Bộ luật dân sự năm 2005, một tổ chức kinh
tế được coi là một pháp nhân khi đạt đủ những điều kiện sau:
“1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.”
Trước hết, có thể khẳng định NHTM là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Bởi
NHTM mang đầy đủ những đặc điểm để một tổ chức được coi là pháp nhân:
Thứ nhất, NHTM là doanh nghiệp kinh doanh phải được thành lập một cách
hợp pháp, dưới sự cho phép của NHNN. Chỉ khi được NHNN cấp giấy phép hoạt
động, các NHTM mới có thể được thành lập và bắt đầu hoạt động kinh doanh. Hơn
nữa, việc thành lập NHTM còn phải tuân thủ theo trình tự luật định và đáp ứng đủ
các điều kiện nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ hai, NHTM là tổ chức có mô hình cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Mô hình cơ
cấu tổ chức của NHTM được quy định tại các văn bản pháp luật , theo đó, các
NHTM được tổ chức theo mô hình tổ chức của các công ty như công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn với các cơ quan quản trị và điều hành như HĐQT, ban
kiểm soát, ban điều hành.
Thứ ba, NHTM có tài sản riêng, độc lập với tổ chức, cá nhân khác và NHTM
tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình.
Thứ tư, NHTM trong quá trình kinh doanh có tư cách là một chủ thể độc lập,
có quyền nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. NHTM có thể trở

thành nguyên đơn, bị đơn trong quan hệ tố tụng.
Như vậy, qua những phân tích trên, có thể thấy, NHTM là một tổ chức kinh
doanh độc lập, có đầy đủ tư cách của một pháp nhân kinh tế.
2.2 QUY CHẾ THÀNH LẬP VÀ CHIA TÁCH, GIẢI THỂ, PHÁ SẢN
13
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.2.1 Quy chế thành lập ngân hàng thương mại
NHTM là các doanh nghiệp đặc thù, thực hiện công việc kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ, hoạt động kinh doanh của các NHTM luôn gắn liền với sự phát triển
hưng thịnh của nền kinh tế mỗi quốc gia, hơn nữa, hoạt động ngân hàng lại là các
hoạt động kinh doanh có nguy cơ rủi ro cao, một sự đổ vỡ trong hệ thống ngân hàng
có thể lan tỏa, ảnh hưởng đến toàn bộ các ngân hàng còn lại trong hệ thống NHTM.
Chính vì tính phức tạp và đặc thù như vậy, ngành nghề kinh doanh NHTM thuộc
nhóm các ngành nghề có điều kiện kinh doanh, cần phải có sự điều chỉnh và quản lí
của nhà nước. Kể từ năm 2006 đến nay, đã có ít nhất 7 văn bản liên quan tới việc
thành lập, quản lý hoạt động ngân hàng được ban hành. Điều này chứng tỏ lĩnh vực
này biến động rất phức tạp và việc kiểm soát thị trường này là khá khó khăn với cơ
quan quản lý, cần phải có sự sửa đổi, bổ sung liên tục. Tuy nhiên, hiện nay các quy
phạm pháp luật về thủ tục thành lập NHTM đã được quy định một cách rõ ràng, cụ
thể và ngày càng có xu hướng được siết chặt hơn, để nhằm mục tiêu tạo ra một hệ
thống các NHTM vững mạnh, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Các tổ chức, cá nhân muốn thành lập NHTM, trước tiên phải có được giấy
phép thành lập và hoạt động của NHTM, được cấp bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền là NHNN. Để được NHNN cấp giấy phép thành lập và hoạt động NHTM,
các tổ chức cá nhân nộp hồ sơ xin giấy phép thành lập và hoạt động NHTM phải đạt
được những điều kiện được quy định tại Luật TCTD 2010 và Thông tư 40/2011/TT-
NHNN như sau:
Về vốn điều lệ, vốn pháp định: các NHTM sẽ được cấp giấy phép thành lập và
hoạt động khi đạt điều kiện vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp
định. Điều đó có nghĩa là số vốn do các chủ sở hữu thực cấp hoặc vốn đã được các

cổ đông, các thành viên góp vốn thực góp và được ghi trong Điều lệ ngân hàng phải
bằng hoặc lớn hơn mức vốn tối thiểu mà pháp luật quy định để có thể được thành
lập một NHTM. Theo quy định mới nhất về mức vốn pháp định của NHTM tại
Nghị định số 10/2011/NĐ-CP ngày 26/1/2011 thì mức vốn tối thiểu để thành lập
NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, NHTM liên doanh, NHTM 100% vốn nước
14
ngoài là 3.000 nghìn tỷ đồng, mức vốn tối thiểu để thành lập chi nhánh ngân hàng
nước ngoài là 15 triệu USD. Có thể thấy, nhà nước đã tăng mức vốn pháp định để
thành lập NHTM lên cao hơn so với trước khá nhiều, quy định này là thích hợp với
xu hướng phát triển của ngành ngân hàng hiện tại, nâng cao năng lực cạnh tranh,
mở rộng quy mô hoạt động của các NHTM, chỉ có những NHTM có đủ năng lực tài
chính theo yêu cầu của pháp luật mới có thể được hoạt động.
Về cổ đông sáng lập NHTM: Chủ sở hữu của TCTD là công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên, cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là pháp nhân đang
hoạt động hợp pháp và có đủ năng lực tài chính để tham gia góp vốn; cổ đông sáng
lập hoặc thành viên sáng lập là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có đủ
khả năng tài chính để góp vốn. Điều kiện đối với chủ sở hữu của TCTD là công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên, cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập do
NHNN quy định. Ngoài ra, các điều kiện khác về cổ đông sáng lập là cá nhân, tổ
chức còn được quy định cụ thể, chi tiết tại mục 2 thông tư 40/2011/TT-NHNN, ví
dụ như một NHTM phải có ít nhất 2 cổ đông sáng lập là tổ chức, cổ đông sáng lập
là doanh nghiệp không được là cổ đông chiến lược của TCTD khác và phải hoàn
thành nghĩa vụ thuế, bảo hiểm xã hội đến thời điểm nộp hồ sơ xin cấp phép, có vốn
chủ sở hữu tối thiểu 500 tỷ đồng trong 5 năm liền kề năm nộp hồ sơ xin cấp phép và
có lãi trong các năm này. Riêng với cổ đông sáng lập là NHTM thì phải có tổng tài
sản tối thiểu 100,000 tỷ đồng tại thời điểm nộp hồ sơ thay vì 50,000 tỷ đồng như
trước đây.
Về người quản lý, người điều hành, thành viên Ban kiểm soát: phải có đủ các
tiêu chuẩn, điều kiện về năng lực hành vi dân sự, về trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm, về vốn sở hữu, theo quy định tại Điều 50 của Luật TCTD 2010. Các quy

định pháp luật đối với người quản lý, người điều hành, thành viên ban kiểm soát
NHTM là cần thiết và hợp lý bởi công việc quản trị tại NHTM là công việc phức
tạp, có thể ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình hoạt động của NHTM, nên cần đặt ra
những yêu cầu cụ thể đối với người tham gia quản trị, điều hành NHTM.
Về điều lệ của NHTM: phải phù hợp với quy định của Luật các TCTD 2010 và
15
các quy định khác của pháp luật có liên quan. Nội dung của điều lệ phải tuân theo
Điều lệ mẫu được quy định tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC ngày 26 tháng 7 năm
2012 của Bộ Tài chính quy định về quản trị công ty áp dụng cho các công ty đại
chúng. Điều lệ sẽ có hiệu lực từ thời điểm Đại hội đồng cổ đông/HĐTV thông qua.
NHTM chỉ gửi đăng ký lên NHNN.
Về đề án thành lập, phương án kinh doanh của NHTM: phải khả thi, không gây
ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định của hệ thống TCTD; không tạo ra sự độc quyền
hoặc hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống TCTD.
Về các điều kiện khác: đối với NHTM 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài ngoài việc phải đáp ứng đủ các điều kiện vừa nêu trên còn phải
đáp ứng các điều kiện riêng biệt khác để được cấp giấy phép theo quy định tại
khoản 2 Điều 20 Luật TCTD 2010 và điều 10, mục 2 thông tư 40/2011/TT-NHNN,

Sau khi được cấp giấy phép kinh doanh, các NHTM phải tiến hành đăng kí
kinh doanh theo quy định của pháp luật. Thêm vào đó, NHTM phải công bố thông
tin trên phương tiện thông tin của NHNN và trên một tờ báo viết hằng ngày trong 3
số liên tiếp hoặc báo điện tử của Việt Nam ít nhất 30 ngày trước ngày dự kiến khai
trương hoạt động. NHTM phải khai trương và tiến hành hoạt động trong thời hạn 12
tháng, kể từ ngày được cấp Giấy phép; quá thời hạn này mà không khai trương hoạt
động thì NHNN thu hồi Giấy phép.
2.2.2 Thủ tục chia tách, giải thể, phá sản NHTM
Các quy định về thủ tục chia tách, giải thể, phá sản NHTM được quy định
riêng biệt, khác với thủ tục chia tách, giải thể, phá sản của các doanh nghiệp thông
thường nhằm tránh những hậu quả bất lợi có thể xảy ra cho nền kinh tế do sự kiện

này gây ra bởi sự chấm dứt năng lực chủ thể của mỗi NHTM thường có những ảnh
hướng trực tiếp đối với đời sống kinh tế - xã hội do vai trò quan trọng của NHTM
đối với nền kinh tế.
Điểm khác biệt trong cơ chế chấm dứt năng lực chủ thể của NHTM so với các
loại hình doanh nghiệp khác thể hiện ở chỗ, trong trường hợp chấm dứt năng lực
chủ thể của NHTM dưới hình thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình
16
thức pháp lý, pháp luật quy định phải có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của
NHNN. Riêng đối với trường hợp chấm dứt hoạt động của NHTM bằng thủ tục phá
sản thì trước khi tiến hành thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản tại Toà án,
nhất thiết phải có văn bản của NHNN về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp
dụng các biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với NHTM. Đây là một trong những điều
kiện để Toà án thụ lý hồ sơ vụ phá sản NHTM. Thêm vào đó, để tạo điều kiện cho
việc xử lý phá sản một NHTM có thể được thực hiện nhanh chóng, hạn chế tác
động đến hệ thống NHTM, Luật các TCTD 2010 quy định: khi xử lý phá sản
TCTD, Toà án có thể áp dụng ngay thủ tục thanh lý tài sản sau khi NHNN đã có
văn bản chấm dứt áp dụng kiểm soát đặc biệt hoặc chấm dứt áp dụng, không áp
dụng các biện pháp phục hồi, mà NHTM vẫn lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy,
quá trình phục hồi theo trình tự phá sản các doanh nghiệp thông thường không cần
phải áp dụng đối với các NHTM đã được NHNN kiểm soát đặc biệt (thực chất là để
phục hồi) nhưng đã xác định không còn khả năng thanh toán.
2.3 HÌNH THỨC TỔ CHỨC VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.3.1 Hình thức tổ chức của ngân hàng thương mại
Về hình thức tổ chức, Điều 6 Luật các TCTD 2010 quy định NHTM được tổ
chức theo các hình thức pháp lý của Luật Doanh nghiệp (hoặc Luật Hợp tác xã), cụ
thể: ‘1. Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức
công ty cổ phần, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này; 2. Ngân hàng
thương mại nhà nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.” Như vậy, các quy

định về quản trị, điều hành, kiểm soát được phân loại theo hình thức pháp lý của
NHTM (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn).
Hình thức tổ chức của NHTM quyết định cơ cấu tổ chức quản lí của mỗi loại
hình NHTM nói riêng. Chính vì vậy, quy định pháp luật về hình thức tổ chức của
từng loại hình NHTM nêu trên là phù hợp với quy mô kinh doanh cũng như nhu cầu
về vốn lớn của các NHTM, đồng thời phù hợp với định hướng xây dựng hệ thống
17
NHTM ở nước ta hiện nay.
2.3.2 Cơ cấu tổ chức quản lí của ngân hàng thương mại
Mỗi loại hình NHTM được cơ cấu tổ chức khác nhau, tùy thuộc vào hình thức
tổ chức riêng, cụ thể:
NHTM cổ phần được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, do vậy, cơ cấu
tổ chức của các cơ quan trong bộ máy quản lý của NHTM cũng tương tự như cơ cấu
tổ chức của công ty cổ phần bao gồm đại hội đồng cổ đông, HĐQT, ban kiểm soát,
tổng giám đốc. Trong đó, đại hội cổ đông là cơ quan có quyền quyết định cao nhất,
đại hội đồng cổ đồng quyết định các thành viên của HĐQT để quản trị các hoạt
động của ngân hàng, và bầu ra ban kiểm soát để tiến hành kiểm soát các hoạt động
kinh doanh của NHTM. Tổng giám đốc hoặc giám đốc được HĐQT bổ nhiệm để
điều hành các hoạt động hằng ngày của NHTM cổ phần.
NHTM nhà nước, NHTM 100% vốn nước ngoài được tổ chức dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên, do vậy, cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong bộ máy quản lý của
NHTM cũng tương tự như cơ cấu tổ chức của công ty trách nhiệm hữu hạn, các cơ
quan trong bộ máy quản lý bao gồm: HĐTV, ban kiểm soát và tổng giám đốc.
Trong đó, HĐTV là cơ quan quyết định cao nhất, có toàn quyền nhân danh TCTD
để quyết định, thực hiện các quyền, nghĩa vụ của NHTM, trừ những vấn đề thuộc
thẩm quyền của chủ sở hữu, và có nhiệm kỳ không quá 5 năm. Tổng giám đốc
(giám đốc) được HĐTV bổ nhiệm một trong số các thành viên của mình hoặc thuê
tổng giám đốc, tổng giám đốc là người điều hành cao nhất của TCTD, chịu trách
nhiệm trước HĐTV về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.

Như vậy, mô hình tổ chức và quản lí NHTM ở Việt Nam là mô hình tổ chức
với hai cơ cấu quyền lực là cấp quản trị điều hành và cấp quản lý kinh doanh. Trong
đó, cấp quản trị điều hành bao gồm: HĐQT hoặc HĐTV gồm Chủ tịch HĐQT,
HĐTV và một số thành viên chuyên trách, làm việc theo chế độ tập thể. Về nguyên
tắc HĐQT, HĐTV thực hiện chức năng quản lý đối với mọi hoạt động của NHTM,
chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn; ban hành điều lệ, các cơ chế, qui chế tổ
chức và hoạt động của ngân hàng. Cấp quản lý kinh doanh gồm ban điều hành gồm
Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc, Kế toán trưởng và các phòng ban tham mưu
18
giúp việc tại hội sở chính. Cấp trực tiếp kinh doanh gồm các đơn vị hạch toán độc
lập, các chi nhánh hạch toán phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp và đơn vị hùn vốn
kinh doanh.
Cơ cấu tổ chức của các loại hình NHTM có phần giống với cơ cấu tổ chức của
các doanh nghiệp có cùng hình thức tổ chức. Tuy nhiên, do NHTM là loại hình
doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh tiền tệ và cung ứng dịch vụ ngân hàng
nên cơ cấu tổ chức hoạt động cũng có những điểm riêng biệt như HĐQT, HĐTV
phải thành lập các ủy ban chuyên trách để giúp HĐQT, HĐTV thực hiện chức năng
của mình, trong đó về quản lý chiến lược phải có ủy ban quản lý rủi ro và ủy ban
nhân sự. Ủy ban quản lý rủi ro có chức năng tham mưu cho HĐQT các vấn đề như
phân tích, đánh giá mức độ rủi ro trong các hoạt động của NHTM, quản lý rủi ro
toàn hệ thống. Ủy ban về vấn đề nhân sự có chức năng tham mưu cho HĐQT các
vấn đề liên quan đến nhân sự như xử lý các vấn đề về nhân sự phát sinh trong quá
trình tiến hành các thủ tục bầu, bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm người quản lí,
tuyển chọn và đào tạo nhân sự. Việc pháp luật quy định các NHTM phải thành lập
các ủy ban trên là hợp lý, giúp kiểm soát được các rủi ro, nâng cao năng lực kiểm
soát, nâng cao trình độ nghiệp vụ, tạo điều kiện bố trí sắp xếp tổ chức cán bộ hợp lí,
nâng cao hiệu quả công việc.
Ngoài ra, theo quy định pháp luật, ban kiểm soát của ngân hàng phải thành lập
kiểm toán nội bộ chuyên trách để thực hiện công việc kiểm toán nội bộ. Quy định
này là hợp lý và cần thiết bởi quy định thành lập kiểm toán nội bộ đã tạo ra cho ban

kiểm soát nhiều công cụ hơn để thực thi nhiệm vụ của mình một cách chủ động,
hiệu quả, qua đó góp phần tăng cường hiệu quả cho hoạt động kiểm soát nội bộ của
các NHTM hiện nay.
Đối với nhân sự trong bộ máy quản lý NHTM, pháp luật luôn đặt những yêu cầu
riêng biệt đối với các thành viên nằm trong bộ máy quản lý, bởi họ có vai trò quan
trọng đối với các hoạt động của NHTM. Điều khác biệt lớn nhất giữa người quản lý,
điều hành NHTM với người quản lý, điều hành doanh thông nghiệp thường là họ phải
nằm trong danh sách các thành viên ban quản lý NHTM, thành viên HĐQT , thành
viên HĐTV, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (giám đốc) được bầu, bổ nhiệm
đã được NHNN chấp thuận bằng văn bản sau khi NHTM gửi lên.
19
Để được NHNN chấp thuận trở thành thành viên HĐQT, HĐTV, ban kiểm
soát hay tổng giám đốc, các cá nhân phải đạt đủ các yêu cầu được quy định tại Luật
các TCTD năm 2010 như các quy định về năng lực pháp luật, về trình độ chuyên
môn, các quy định về tiêu chuẩn đối với thành viên độc lập của HĐQT. Đồng thời
Luật các TCTD năm 2010 còn có các quy định về các trường hợp không cùng đảm
nhiệm chức vụ (Điều 34) nhằm tránh xung đột lợi ích, lạm dụng quyền ảnh hưởng
của mình để ra những quyết định xung đột với lợi ích của NHTM.
2.4 QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Quyền và nghĩa vụ của NHTM là yếu tố phản ánh rõ nét nhất địa vị pháp lý
của NHTM theo quy định pháp luật hiện nay. Trước đây, các quyền của NHTM có
phần hạn chế hơn do pháp luật thời kì đó có các quy định khắt khe, hạn chế các hoạt
động của NHTM. Tuy nhiên, sự ra đời của luật TCTD năm 2010 và một số văn bản
hướng dẫn được ban hành thời gian gần đây đã trao nhiều quyền lợi hơn, mở rộng
quyền tự chủ hoạt động của NHTM. Các NHTM được quyền tự chủ trong hoạt
động kinh doanh, tự mình thực hiện và quản lí công việc, hoạt động kinh doanh của
ngân hàng và đồng thời phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình,
không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kinh doanh
của các NHTM. Việc giao quyền tự chủ hoạt động cho các NHTM là quy định tích
cực, nhằm nâng cao tính năng động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các ngân

hàng.
NHTM có đủ điều kiện theo quy định của luật TCTD năm 2010 và các quy
định khác của pháp luật có liên quan, đã được NHNN cấp giấy phép thì được thực
hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng, các hoạt động được coi là hoạt động ngân hàng
được quy định cụ thể tại khoản 12, Điều 4 Luật TCTD 2010, theo đó: “Hoạt động
ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp
vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua
tài khoản.”. Nói tóm lại, NHTM có quyền thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng
vừa nêu trên và hoạt động kinh doanh khác được ghi trong giấy phép NHNN cấp
cho NHTM, việc tiến hành các hoạt động này phải tuân theo các quy định tại luật
TCTD và theo hướng dẫn của NHNN. Các NHTM được hợp tác và cạnh tranh trong
hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật,
20
không được thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không
lành mạnh có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
Đi kèm với các quyền lợi, NHTM cũng phải thực hiện các nghĩa vụ tại Điều
10, Điều 14 Luật các TCTD năm 2010 nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của
mình như: tham gia tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật đối với
các khoản tiền gửi của khách hàng, tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền, bảo
đảm thanh toán đủ, đúng hạn gốc và lãi của các khoản tiền gửi, bảo mật các thông
tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng,…Các quy định về
nghĩa vụ của NHTM không chỉ bảo vệ quyền lợi và tài sản của khách hàng mà còn
giúp nâng cao sự minh bạch và uy tín, hạn chế gian lận trong hoạt động của mỗi
NHTM.
NHTM kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, vì vậy nên NHTM có đối tượng kinh
doanh khá nhạy cảm, bản thân tiền có thể tác động tới nền kinh tế của một quốc gia
đồng thời cũng có khả năng tác động xấu tới an ninh quốc gia nếu các ngân hàng
không kiểm soát chặt chẽ được các nguồn tiền bất hợp pháp được đưa sang Việt

Nam qua trung gian là ngân hàng nhằm mục đích rửa tiền hoặc nhằm tài trợ cho
hoạt động khủng bố. Do đó, các NHTM cũng có trách nhiệm phòng, chống rửa tiền,
tài trợ khủng bố như: Không được che giấu, thực hiện hoạt động kinh doanh liên
quan đến khoản tiền đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp; xây dựng quy
định nội bộ về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố; thực hiện các biện pháp
phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố; Hợp tác với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong việc điều tra hoạt động rửa tiền, tài trợ khủng bố.
Ngoài ra, NHTM cũng là các doanh nghiệp kinh doanh, vì vậy bên cạnh
những quyền và nghĩa vụ riêng biệt vừa nêu trên, NHTM cũng có quyền và nghĩa
vụ cơ bản của các doanh nghiệp theo quy định tại luật doanh nghiệp như quyền
tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu, quyền chủ động ứng dụng khoa
học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh,…
hay các nghĩa vụ như nghĩa vụ Bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy
định của pháp luật về lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và
21

×