I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
HONG TH CM ANH
địa vị pháp lý của nhà đầu t- n-ớc ngoài
Trong lĩnh vực chứng khoán theo pháp luật việt nam
và pháp luật n-ớc ngoài
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2015
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
HONG TH CM ANH
địa vị pháp lý của nhà đầu t- n-ớc ngoài
Trong lĩnh vực chứng khoán theo pháp luật việt nam
và pháp luật n-ớc ngoài
Chuyờn ngnh: Lut Quc t
Mó s: 60 38 01 08
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: TS. Lấ VN BNH
H NI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
HOÀNG THỊ CẨM ANH
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ....................8
1.1.
Khái niệm, vai trò của nhà đầu tư nước ngoài .........................................8
1.1.1.
Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài .................................................................8
1.1.2.
Vai trò của nhà đầu tư nước ngoài ..............................................................11
1.2.
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài ..............................................12
1.2.1.
Khái niệm và nguyên tắc xác định ..............................................................12
1.2.2.
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán ...........17
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN .....................19
2.1.
Theo Pháp luật Việt Nam .........................................................................19
2.1.1.
Các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh địa vị pháp lý của
nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam ..................19
2.1.2.
Các chính sách và bảo đảm đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài trên
thị trường chứng khoán ...............................................................................22
2.1.3.
Quy chế pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng
khoán Việt Nam ..........................................................................................28
2.2.
Theo Pháp luật nước ngoài .......................................................................63
2.2.1.
Vấn đề đầu tư nước ngoài của các quốc gia trên thế giới ...........................63
2.2.2.
Địa vị pháp lý của Nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
theo Pháp luật một số nước .........................................................................67
Chương 3: THỰC TIỄN VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM .......................85
3.1.
Thực tiễn về vấn đề địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam...............................................85
3.2.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề địa vị
pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
tại Việt Nam ...............................................................................................96
3.2.1.
Các giải pháp thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường
chứng khoán Việt Nam................................................................................99
3.2.2.
Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề
địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán ....101
KẾT LUẬN ............................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................111
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HNX
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
HOSE
Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
NĐTNN
Nhà đầu tư nước ngoài
SGDCK
Sở giao dịch chứng khoán
TTCK
Thị trường chứng khoán
TTLKCK
Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam
UBCKNN
Ủy ban chứng khoán Nhà nước
DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ
Số hiệu
bảng/biểu đồ
Tên bảng/biểu đồ
Trang
Bảng 3.1: Bảng tổng hợp kết quả đánh giá khả năng tiếp cận thị
trường của Việt Nam
86
Bảng 3.2: Cổ phiếu có tỷ lệ sở hữu nước ngoài khoảng 49% tính đến
ngày 6/1/2014
92
Bảng 3.3: Cổ phiếu có tỷ lệ sở hữu nước ngoài khoảng 30-49% tính đến
ngày 6/1/2014
Biểu đồ 3.1: Biểu đồ về tình hình cấp mã số giao dịch cho NĐTNN
93
86
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thế giới đã trải
qua nhiều thời kỳ thăng trầm. Đến nay, thị trường chứng khoán của các quốc gia
đang phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, theo đó số lượng lên đến
hơn 160 sở giao dịch, chất lượng hoạt động của thị trường ngày càng đáp ứng cho
số đông những nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Có thể thấy, thị trường chứng khoán là bộ phận cấu thành không thể thiếu
của nền kinh tế, đó là bức tranh phản ánh sâu sắc và rõ ràng sự phát triển nền kinh
tế của quốc gia. Trong việc đánh giá tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến
sự phát triển của thị trường chứng khoán thì yếu tố đầu tiên phải kể đến là môi
trường pháp lý, thứ hai là hàng hoá trên thị trường và thứ ba là tình hình chính trị,
sự hiểu biết của công chúng về thị trường chứng khoán. Bởi vậy, thị trường chứng
khoán không thể vận hành và phát triển mạnh nếu không có một khuôn khổ pháp lý
cần thiết cho tổ chức và hoạt động của thị trường.
Tại thị trường chứng khoán của mỗi quốc gia đều có sự tham gia của một
chủ thể quan trọng có tác động rõ rệt đến thị trường – đó là Nhà đầu tư nước ngoài.
Các quốc gia trên thế giới đều có những chính sách ưu đãi và khuôn khổ pháp lý để
bảo vệ quyền lợi của nhóm chủ thể này nhằm thu hút vốn đầu tư.
Dựa trên kinh nghiệm quốc tế, tại Việt Nam, gần đây vấn đề mở rộng đầu tư
của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán đang ngày được chú trọng
và trở thành một trong những vấn đề tâm điểm được công chúng chào đón. Theo
ông Vũ Bằng – chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Việt Nam đang thể hiện
quyết tâm nâng hạng TTCK từ thị trường cận biên hiện nay lên mức thị trường mới
nổi sẽ tăng sức hấp dẫn với các nhà đầu tư quốc tế. Đặc biệt, Chính phủ vừa ban
hành Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
58/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán có hiệu
1
lực vào ngày 01/9/2015, trong đó có nội dung quan trọng là tăng tỷ lệ sở hữu của
NĐTNN lên đến 100%.
Đây là một tín hiệu rất đáng mừng vì việc tăng độ mở của TTCK thông qua
việc tăng tỷ lệ sở hữu của NĐTNN là biện pháp tăng cường các hoạt động đầu tư
nước ngoài vào TTCK Việt Nam, cũng như là động lực quan trọng để đẩy nhanh lộ
trình nâng hạng thị trường.
Tuy nhiên, để quy định về tăng tỷ lệ sở hữu của NĐTNN (nới room) nói
riêng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam nói chung được thực
hiện trên thực tế, Việt Nam cần sớm hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý
của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán. Đồng thời, xây dựng cơ chế
thu hút NĐTNN phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế thông qua chính
sách tài chính ưu đãi và đơn giản hóa thủ tục đầu tư.
Thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ, mới mẻ, chính bởi lẽ đó,
Pháp luật về chứng khoán của nước ta còn một số tồn tại nhất định cần sớm hoàn
thiện để phù hợp với sự vận động và phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng
và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Bởi vậy, chúng ta cần sàng lọc để loại bỏ
những nhược điểm, phát huy những ưu điểm trên cơ sở kinh nghiệm của các quốc
gia trên thế giới. Hiện nay, quy định về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại ảnh hưởng đến việc
thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán. Bởi vậy, cần thiết
phải có một/một số nghiên cứu có tính hệ thống về địa vị pháp lý của nhà đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam và so sánh với một số nước
điển hình trên thế giới, từ đó vận dụng những kinh nghiệm quốc tế vào thị trường
chứng khoán Việt Nam để bảo đảm quyền và lợi ích cho nhà đầu tư, mở rộng sự
tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút vốn cho thị trường.
Do đó, học viên quyết định chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của nhà đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán theo pháp luật Việt Nam và pháp luật
nước ngoài” làm luận văn Thạc sỹ luật học.
Khi chủ trương tăng tỷ lệ sở hữu của khối ngoại đã được pháp điển hóa như
2
hiện nay, vấn đề cấp bách đặt ra là cần phải xây dựng hành lang pháp lý để (i) triển
khai thực hiện trên thực tế; (ii) bảo đảm quyền lợi của NĐTNN nhằm thu hút vốn
đầu tư nước ngoài và (iii) quy định rõ nghĩa vụ pháp lý khi NĐTNN tham gia vào
TTCK Việt Nam để phòng ngừa thâu tóm, rút vốn ồ ạt hoặc các hệ quả khác ảnh
hưởng đến thị trường. Vì vậy, theo ý kiến chủ quan của tác giả luận văn, vấn đề địa
vị pháp lý của NĐTNN trong lĩnh vực chứng khoán vẫn tiếp tục là vấn đề được các
cơ quan có thẩm quyền cũng như thị trường dành nhiều sự quan tâm.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy
định của pháp luật hiện hành và thực tiễn về vấn đề địa vị pháp lý của NĐTNN
trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam và một số nước trên thế giới. Từ đó, phân
tích những kinh nghiệm quốc tế để vận dụng vào thị trường chứng khoán Việt Nam,
đưa ra những đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật của Việt Nam về địa vị pháp lý
NĐTNN trong lĩnh vực chứng khoán.
Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực chứng khoán tại một số nước trong phạm vi nghiên cứu như
Việt Nam, Brazil, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc.
- Phân tích những hạn chế, thiếu sót của các chính sách, quy định pháp luật
Việt Nam về địa vị pháp lý NĐTNN trong lĩnh vực chứng khoán trên cơ sở kinh
nghiệm quốc tế và thực tiễn áp dụng của Việt Nam.
- Đề xuất phương án nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề địa
vị pháp lý NĐTNN trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán là vấn
đề khá mới mẻ trong pháp luật Việt Nam. Hiện nay, vấn đề này đang được quy định
rải rác trong một số văn bản pháp luật như Luật Chứng khoán, Luật Đầu tư và một
số văn bản dưới luật.
3
Đến nay, chỉ có một số ít công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến
vấn đề này như:
- Hoàng Văn Thứ (2009), Địa vị pháp lý của nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học. Nghd: PGS.TS Phạm Duy Nghĩa.
- Lê Anh Tuấn (2010), Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh
vực chứng khoán, kinh nghiệm quốc tế và hướng hoàn thiện, luận văn thạc sỹ luật
học. Nghd: TS. Lê Văn Bính.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Báo cáo nghiên cứu về pháp luật đầu tư
của một số nước, báo cáo nghiên cứu.
- Và một số công trình nghiên cứu về Nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
chứng khoán của các tác giả công tác trong lĩnh vực chứng khoán hoặc học tập,
công tác trong các trường về kinh tế, tài chính. Tuy nhiên, những công trình nghiên
cứu này đề cập sâu về khía cạnh tài chính, chứng khoán chứ không đi sâu vào khía
cạnh pháp lý.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đề cập đến vấn đề đầu tư
nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng
Văn Thứ có phạm vi nghiên cứu bao phủ toàn bộ chủ thể “nhà đầu tư”, tức là gồm
cả nhà đầu tư trong và ngoài nước trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận văn
thạc sỹ của tác giả Lê Anh Tuấn nghiên cứu về riêng đối tượng “nhà đầu tư nước
ngoài”, nhưng thị trường nghiên cứu chỉ gói gọn trong thị trường chứng khoán Việt
Nam, chỉ có một phần rất nhỏ về chính sách thu hút đầu tư của thị trường chứng
khoán Ấn Độ. Còn Báo cáo nghiên cứu về pháp luật đầu tư của một số nước của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư có phân tích về pháp luật đầu tư của các nước Trung Quốc,
Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines nhưng trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
chứ không nghiên cứu trong lĩnh vực chứng khoán.
Chính bởi lẽ đó, luận văn có mục tiêu đi sâu nghiên cứu về địa vị pháp lý của
“nhà đầu tư nước ngoài” trong lĩnh vực chứng khoán tại “thị trường chứng khoán
Việt Nam và thị trường chứng khoán của một số nước trên thế giới như Brazil,
Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc nhằm so sánh, đánh giá, cụ thể hóa các
4
kinh nghiệm của thị trường chứng khoán nước ngoài để vận dụng linh hoạt vào thị
trường chứng khoán Việt Nam.
Hiện nay, theo tìm hiểu của học viên, chưa có công trình nghiên cứu nào hệ
thống hóa các quy định pháp luật và thực tiễn về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước
ngoài trên thị trường chứng khoán của các nước Brazil, Philippines, Thái Lan,
Malaysia, Hàn Quốc. Do đó, luận văn sẽ nghiên cứu về thị trường chứng khoán của
các nước nêu trên để người đọc thấy được tính đa dạng cũng như những kinh
nghiệm quốc tế mà Việt Nam cần học hỏi, đồng thời đóng góp những nghiên cứu,
tìm hiểu mới mẻ, cập nhật của mình cho bạn đọc. Luận văn cũng phân tích chi tiết
các yếu tố mà luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Văn Thứ và Lê Anh Tuấn chưa đề
cập hoặc chưa đề cập cụ thể.
Bên cạnh đó, gần đây vấn đề đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường
chứng khoán Việt Nam là vấn đề được quan tâm sát sao, được nhà đầu tư mong đợi
và ảnh hưởng lớn đến thị trường chứng khoán. Một số văn bản pháp luật điều chỉnh
vấn đề này vừa được ban hành như: Nghị định 60/2015/NĐ-CP ngày 26/6/2015 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Chứng khoán, có hiệu lực kể từ ngày 1/9/2015, Nghị định này đã bổ sung
Điều 2a quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam;
Thông tư số 123/2015/TT-BTC ngày 19/8/2015 hướng dẫn hoạt động đầu tư nước
ngoài trên TTCK Việt Nam, có hiệu lực kể từ ngày 1/10/2015.
Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền cũng đang trong quá trình lấy ý kiến
của các chủ thể liên quan để chính thức ban hành các văn bản pháp luật sửa đổi, bổ
sung, thay thế những quy định về Địa vị pháp lý của Nhà đầu tư nước ngoài trong
lĩnh vực chứng khoán.
Bởi vậy, từ quy định pháp luật cho đến thực tiễn, đều đã có các điểm mới rất
cập nhật hứa hẹn những điểm sáng cho thị trường mà từ thời điểm năm 2009, 2010
khi luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Văn Thứ và Lê Anh Tuấn ra đời, chưa có một
công trình nghiên cứu nào cập nhật. Luận văn sẽ cập nhật một cách đầy đủ, rõ ràng
nhất những điểm mới đó để người đọc có cái nhìn khái quát cũng như sâu sắc hơn.
5
Luận văn sẽ phân tích các quy định pháp luật của một số nước, có thể vận
dụng kết quả nghiên cứu vào thị trường Việt Nam mà các công trình tương tự chưa
đề cập đến. Đồng thời, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam để phù hợp với các cam kết của Việt Nam về vấn đề này khi gia nhập WTO,
cũng như phù hợp với thị trường chứng khoán thế giới. Luận văn có giá trị tham
khảo trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến địa vị pháp lý
của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở lý luận, các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam liên quan đến
địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán, thực tiễn
tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. Những nội dung chính về địa vị pháp lý của
nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán của một số nước trên thế giới
như Brazil, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc.
Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện tiếp cận hạn chế, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu chuyên sâu
về thị trường chứng khoán Việt Nam và thị trường chứng khoán nước ngoài, giới
hạn trong năm nước điển hình là Brazil, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hàn
Quốc, tiếp cận trên phương diện pháp lý.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, học viên sử dụng phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên nền tảng phương pháp luận đó, học
viên áp dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp hệ thống, tổng hợp, thống
kê, phân tích, so sánh. Học viên đã tổng hợp, phân tích các quy định pháp luật hiện
hành và thông qua các ví dụ cụ thể liên quan đến nội dung nghiên cứu. Bên cạnh đó,
so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật với thực tiễn liên quan đến quyền và nghĩa
vụ của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán để chỉ ra những điểm hạn
chế, không phù hợp trong các quy định pháp luật hiện hành. Từ đó có những kiến
nghị, đề xuất nhằm tiếp tục bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư
nước ngoài cũng như thu hút đầu tư cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
6
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kế t luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm ba chương như sau:
Chương 1. Tổng quan về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường chứng khoán.
Chương 2. Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng
khoán theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài.
Chương 3. Thực trạng và các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
chứng khoán.
7
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái niệm, vai trò của nhà đầu tư nước ngoài
1.1.1. Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài
Nhà đầu tư nước ngoài bao gồm cá nhân nước ngoài và tổ chức nước ngoài.
Thứ nhất, về cá nhân nước ngoài. Cá nhân nước ngoài, theo pháp luật của đa số
các nước trên thế giới, là những cá nhân không có quốc tịch của nước sở tại [12, tr.119].
Pháp luật Việt Nam hiện hành cũng xác định người nước ngoài theo cách
trên. Cụ thể, tại khoản 5, điều 3, Luật Quốc tịch 2008 quy định “Người nước ngoài
cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú
hoặc tạm trú ở Việt Nam” [17]. Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định:
“Cá nhân nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam’’ [18].
Thứ hai, về tổ chức nước ngoài. Tổ chức nước ngoài, theo quan niệm của các
nước trên thế giới, là tổ chức được thành lập theo những quy định của pháp luật
nước này nhưng hoạt động tại nước khác nhằm những mục đích đã được xác định
trước [12, tr.137].
Theo pháp luật Việt Nam, khoản 26 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014 quy định,
tổ chức nước ngoài là tổ chức thành lập ở nước ngoài theo pháp luật nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự 2005, một tổ chức được công nhận
là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Thông thường một tổ chức được công nhận có tư cách pháp nhân ở nước nó
được thành lập thì cũng được công nhận có tư cách pháp nhân ở các nước khác. Đối
với Việt Nam, pháp nhân nước ngoài là tổ chức hưởng tư cách pháp nhân theo quy
định của pháp luật nước ngoài và được công nhận là có quốc tịch nước ngoài.
Việc xác định quốc tịch của pháp nhân tạo cơ sở xác định nội dung quy chế
8
pháp lý của pháp nhân, góp phần kiểm soát các hoạt động của pháp nhân, bảo vệ an
ninh, chủ quyền và lợi ích kinh tế xã hội của nhà nước nơi pháp nhân đặt trụ sở
hoặc hoạt động. Vấn đề xác định quốc tịch của pháp nhân đặc biệt có ý nghĩa quan
trọng trong giai đoạn hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay. Pháp luật các quốc gia có
quy định khác nhau về vấn đề xác định quốc tịch của pháp nhân.
Pháp luật của Pháp, Đức và của nhiều nước khác, pháp nhân đặt trung tâm
quản lý ở nước nào thì mang quốc tịch nước đó, không phân biệt nơi đăng ký thành
lập hay tiến hành hoạt động của pháp nhân. Pháp luật của Anh, Mỹ xác định quốc
tịch của pháp nhân theo nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân khi thành lập. Ở Nga và
các nước Đông Âu, áp dụng cả hai nguyên tắc quốc tịch pháp nhân tuỳ thuộc vào
nơi thành lập pháp nhân và nơi đặt trụ sở chính của pháp nhân [22].
Pháp luật Việt Nam không có quy định nguyên tắc xác định quốc tịch của
pháp nhân. Tuy nhiên, Điều 765 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định năng lực pháp
luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi
pháp nhân đó được thành lập. Trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực
hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
được xác định theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định Quốc tịch của doanh
nghiệp là quốc tịch của nước và vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng ký
kinh doanh. Tuy nhiên quy định này chỉ bao gồm các doanh nghiệp mà không phải
tất cả các pháp nhân. Song điều khoản này đã không còn được quy định trong Luật
doanh nghiệp 2014.
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận nguyên tắc xác định quốc tịch
của pháp nhân tuỳ thuộc vào nước, nơi pháp nhân được thành lập. Các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập tại Việt Nam là pháp nhân mang
quốc tịch Việt Nam. Những pháp nhân không mang quốc tịch Việt Nam đều được
coi là pháp nhân nước ngoài.
Về khái niệm nhà đầu tư nước ngoài, hiện nay Luật đầu tư 2014 đã phân biệt
rõ khái niệm nhà đầu tư nước ngoài với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài để
9
giải quyết những nhầm lẫn, tranh cãi, mâu thuẫn về định nghĩa nhà đầu tư nước
ngoài của Luật đầu tư 2005 và các văn bản dưới luật khác. Theo đó, Nhà đầu tư
nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật
nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Còn tổ chức kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành
viên hoặc cổ đông.
Bên cạnh cách phân loại này, theo tư cách chủ thể, nhà đầu tư nước ngoài có
thể được phân loại thành nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân. Nhà đầu tư tổ
chức có số lượng ít hơn nhưng do tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản lý, vị thế
kinh doanh nên họ là lực lượng có vị thế và đóng góp nhiều hơn cho Việt Nam.
Theo thông lệ phổ biến trên thế giới thì nhà đầu tư nước ngoài thành lập
doanh nghiệp theo pháp luật nước sở tại thì coi là nhà đầu tư trong nước, đương
nhiên họ có nghĩa vụ và quyền lợi như doanh nghiệp trong nước, đồng thời được
khuyến khích đầu tư với tỷ lệ cổ phần không hạn chế vào doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, một số doanh nghiệp kinh doanh thuộc lĩnh vực hạn chế thì có thể hạn
chế tỷ lệ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài. Quy định như vậy giúp khuyến khích
đầu tư nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực tài chính chứng khoán, nhằm thành lập các
công ty quản lý quỹ, ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư để thúc đẩy thị trường chứng
khoán phát triển. Bên cạnh đó, để bơm vốn nhiều hơn cho nền kinh tế, đồng thời
khuyến khích thu hút dòng vốn đầu tư dài hạn để làm cho thị trường vốn phát triển
ổn định, thể hiện chủ trương thúc đẩy đầu tư ở khía cạnh không phân biệt đối xử
giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài;
Khi Luật đầu tư 2014 chưa ra đời, theo điểm b khoản 1 Điều 2 Quyết định
88/2009/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư
nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam quy định tổ chức thành lập và hoạt
động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49% là nhà đầu
tư nước ngoài. Điều này là bất hợp lý, không phù hợp với thông lệ thế giới cũng
như cản trở việc thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp Việt
Nam bởi doanh nghiệp sinh ra tại Việt Nam mà bị coi là doanh nghiệp nước ngoài
10
là không hợp lý. Họ phải chịu rất nhiều nghĩa vụ và thủ tục hành chính như doanh
nghiệp trong nước nhưng quyền lợi lại không được như doanh nghiệp trong nước.
Luật chứng khoán 2006 không có quy định cụ thể về khái niệm nhà đầu tư
nước ngoài, nhưng tại Điều 2 lại quy định về đối tượng áp dụng của Luật là tổ chức,
cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư chứng khoán và
hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Như vậy, từ các quy định nêu trên, có thể hiểu nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường chứng khoán Việt Nam là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành
lập theo pháp luật nước ngoài tham gia đầu tư chứng khoán và hoạt động trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
1.1.2. Vai trò của nhà đầu tư nước ngoài
Ngày nay, vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng trở nên quan
trọng, họ là lực lượng tổ chức phân công lao động trên phạm vi thế giới, là lực
lượng phát huy có hiệu quả lợi thế so sánh của các quốc gia, thúc đẩy dòng vốn vận
động trên toàn cầu và đóng góp quan trọng cho sự phát triển của một số quốc gia.
Đối với quốc gia đang rất cần thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài như Việt
Nam thì vai trò của nhà đầu tư nước ngoài càng trở lên quan trọng.
Từ năm 2005 trở về trước, vai trò của nhà đầu tư nước ngoài không nổi bật
trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Điều này có thể giải thích do hoạt động
chưa đạt mức độ tăng trưởng mạnh của thị trường chứng khoán, cũng như giai đoạn
nằm ngang kéo dài quá lâu của chỉ số chứng khoán đã khiến cho không chỉ nhà đầu
tư trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài cũng không đánh giá cao về tiềm
năng hồi phục và phát triển của giá cả cổ phiếu.
Từ năm 2006 trở đi, nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia khá tích cực vào thị
trường. Năm 2006 là một năm bản lề đối với nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ riêng trong
năm này, đã có 3,050 cá nhân và 239 tổ chức nước ngoài được cấp mã giao dịch,
giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ đạt khoảng 4 tỷ USD, chiếm
16.4% mức vốn hóa của toàn thị trường. Tính đến tháng 30/04/2013, nhà đầu tư
nước ngoài vẫn là những nhà đầu tư mạnh nhất trên thị trường niêm yết, với những
11
quỹ đầu tư VinaCapital, Indochina Capital, Dragon Capital, IDG Vietnam, PXP
Vietnam, City Group, HSBC, JP Morgan, Deutsch AG,… các quỹ này được đánh
giá là hoạt động thành công trên thị trường Việt Nam [11].
Có thể thấy, khối ngoại có động thái đặc biệt và khác biệt với nhà đầu tư
trong nước, trong đa số trường hợp biến động về giá cổ phiếu, dường như nhà đầu
tư nước ngoài luôn giữ một tư thế độc lập và tách rời hẳn tâm lý đám đông của các
nhà đầu tư Việt Nam. Vì vậy, có những lúc nhà đầu tư Việt Nam đổ xô ra bán thì
nhà đầu tư nước ngoài lại mua vào.
Như vậy, nhà đầu tư nước ngoài không chỉ có vai trò đem lại nguồn vốn đầu
tư nước ngoài cho quốc gia, thúc đẩy dòng vốn vận động trên toàn cầu mà những
quyết định đầu tư của họ còn mang tính chất tham khảo, học hỏi cho nhà đầu tư
trong nước. Đặc biệt là như thực tế hiện nay, nhà đầu tư nước ngoài vẫn là những
nhà đầu tư mạnh nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam, chủ yếu là các nhà
đầu tư tổ chức chuyên nghiệp.
Bên cạnh những tác động tích cực thì đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư gián
tiếp có thể tạo ra bong bong tài chính ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ và tỷ giá hối
đoái của các quốc gia.
1.2. Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài
1.2.1. Khái niệm và nguyên tắc xác định
1.2.1.1. Khái niệm
Địa vị pháp lý của người nước ngoài là những quyền cụ thể mà người nước
ngoài được hưởng và những nghĩa vụ mà họ phải gánh vác khi cư trú ở nước sở tại
cũng như các cơ chế pháp luật của nước sở tại bảo đảm cho người nước ngoài thực
thi các quyền và nghĩa vụ nói trên.
Chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài được xác định bởi pháp luật nước
sở tại và các quy phạm điều ước quốc tế, tập quán quốc tế. Người nước ngoài sống
trên lãnh thổ của nước khác cùng một lúc chịu sự ràng buộc của hai chế độ pháp lý:
chế độ pháp lý theo nước mà họ là công dân và chế độ pháp lý của nước sở tại nơi
người đó cư trú [12, tr.122].
12
Pháp luật của mỗi quốc gia quy định địa vị pháp lý của người nước ngoài
phù hợp với nguyên tắc chung của luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà nước
đó tham gia.
Khi đề cập đến vấn đề địa vị pháp lý của người nước ngoài, trước hết phải
tìm hiểu việc giải quyết xung đột pháp luật về năng lực pháp luật và năng lực hành
vi của người nước ngoài.
Với cá nhân, năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng của người đó được
hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ mà theo pháp luật quy định. Năng lực
hành vi của cá nhân là khả năng của chính người đó bằng hành vi của mình thực
hiện các quyền và gánh vác các nghĩa vụ theo pháp luật quy định. Thông thường
các quốc gia quy định năng lực pháp luật của người nước ngoài ngang hoặc tương
đương công dân nước sở tại. Đại đa số các quốc gia xác định năng lực hành vi theo
nguyên tắc luật quốc tịch. Một số nước như Anh, Mỹ xác định năng lực hành vi
theo nguyên tắc luật nơi cư trú.
Bộ luật dân sự 2005 quy định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là
người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc
tịch. Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân
Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác (Điều 761). Còn
năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp
luật của nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy
định khác. Trong trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác
định theo pháp luật Việt Nam (Điều 762).
Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) 2015 quy định, năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. Năng
lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó
có quốc tịch. Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự
tại Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định theo
pháp luật Việt Nam. Viê ̣c xác đinh
̣ cá nhân bi ̣mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự ta ̣i Viê ̣t Nam theo pháp luật Việt Nam.
13
Với pháp nhân, khi hoạt động với tư cách là pháp nhân nước ngoài ở một
nước nào đó, năng lực pháp luật của pháp nhân tại nước sở tại tuỳ thuộc vào quy
định ở nước sở tại.
Như vậy, bên cạnh các quy định pháp luật để đảm bảo quyền lợi của công
dân, từng quốc gia đều phải đối diện với nghĩa vụ quốc tế là tạo cơ sở và điều kiện
để người nước ngoài được hưởng chế độ pháp lý phù hợp với sự tồn tại hợp pháp
của họ trên lãnh thổ quốc gia đó. Một đặc thù quan trọng liên quan đến địa vị pháp
lý của người nước ngoài trên lãnh thổ nước sở tại là người nước ngoài không chỉ
chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp
luật của nước người đó là công dân và luật quốc tế. Vì vậy, một quốc gia không thể
đơn phương áp dụng các quy định đối với người nước ngoài nếu các quy định đó
không phù hợp với các thỏa thuận quốc tế và ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc
gia khác [26, tr.119].
Bộ luật dân sự 2005 quy định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước
ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó được thành lập.
Trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt
Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được xác định theo pháp luật Việt
Nam (Điều 765).
Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) 2015 quy định quốc tịch của pháp nhân
được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập. Năng lực pháp luật
dân sự của pháp nhân; tên gọi của pháp nhân; việc tổ chức, tổ chức lại, giải thể pháp
nhân; quan hệ giữa pháp nhân với thành viên của pháp nhân; trách nhiệm của pháp
nhân và thành viên của pháp nhân đối với các nghĩa vụ của pháp nhân được xác
định theo pháp luật của nước mà pháp nhân có quố c tich
̣
. Trường hợp pháp nhân
nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam.
Như vậy, khi xác định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, pháp nhân;
năng lực hành vi dân sự của cá nhân người nước ngoài, pháp luật Việt Nam quy
định dựa trên sự kết hợp hệ thuộc Luật quốc tịch, Luật nơi cư trú và Luật nơi thực
hiện hành vi.
14
1.2.1.2. Nguyên tắc xác định
Theo quy định của pháp luật và phụ thuộc vào mức độ quan hệ giữa các quốc
gia và tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể, các quy định về địa vị pháp lý của người
nước ngoài (thể nhân và pháp nhân) có thể được xây dựng trên nguyên tắc hay các
chế độ pháp lý sau:
Một là, chế độ đãi ngộ quốc gia, là chế độ cho phép người nước ngoài có quyền
và nghĩa vụ tương ứng như công dân nước sở tại trong các quan hệ xã hội nhất định.
Nội dung cơ bản của chế độ đãi ngộ quốc gia là người nước ngoài được
hưởng các quyền dân sự và lao động, cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ
khác tương đương hoặc bằng với những quyền và nghĩa vụ mà công dân nước sở tại
đang được hưởng và sẽ được hưởng trong tương lai. Ví dụ: trong giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên, người nước ngoài được hưởng quyền và nghĩa vụ như công dân
nước sở tại không phải ở tất cả mọi mặt, người nước ngoài bị hạn chế ở một số
quyền nhất định. Ví dụ: quyền bầu cử, quyền ứng cử, đề cử, quyền hành nghề, học
tập trong lĩnh vực an ninh quốc phòng…
Hai là, chế độ tối huệ quốc. Nội dung cơ bản của chế độ tối huệ quốc là
người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài được hưởng một chế độ mà nước sở tại
dành cho người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài của bất kỳ nước thứ ba nào
đang hưởng và sẽ được hưởng trong tương lai.
Đây là một chế độ pháp lý có tầm quan trọng đặc biệt trong lĩnh vực quan hệ
kinh tế, thương mại và hàng hải. Chế độ tối huệ quốc dành riêng cho công dân và
pháp nhân nước này hay nước kia cần phải được quy định rõ ràng và cụ thể trong các
Hiệp định quốc tế (thường trong các Hiệp định thương mại và hàng hải; Hiệp định về
thuế quan và mậu dịch; Hiệp định về thị trường chung hay thị trường tự do…)
Theo chế độ tối huệ quốc thì người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài
được hưởng đầy đủ và hoàn toàn các quyền hợp pháp mà một quốc gia đã dành
cho và sẽ dành cho bất kỳ một nhóm người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài
nào đang sinh sống hay hoạt động trên lãnh thổ của quốc gia đó. Đây chính là sự
thể hiện rõ nhất của thuật ngữ “tối huệ quốc” được hiểu trong khoa học pháp lý
15
quốc tế. Như vậy chế độ tối huệ quốc đưa lại các điều kiện cũng như các tiêu
chuẩn pháp lý như nhau (theo nghĩa bình đẳng, bình quyền) cho người nước ngoài
và pháp nhân nước ngoài của các quốc gia đã ký kết với nhau hiệp định mà trong
đó có quy định chế độ này.
Tiêu chí của chế độ tối huệ quốc được ghi nhận là trong các hiệp định song
phương, đa phương là dành cho các công dân và pháp nhân của các nước ký kết các
điều kiện và cơ hội ngang nhau trong thương mại, hàng hải và trong các quan hệ
kinh tế khác, đồng thời xoá bỏ mọi sự kỳ thị, phân biệt với các lý do khác nhau
trong hoạt động thương mại quốc tế. Ngoài ra, còn củng cố và thúc đẩy sự hợp tác
kinh tế thương mại và các quan hệ toàn diện khác giữa các quốc gia trên thế giới, cơ
sở tôn trọng chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Ba là, chế độ đãi ngộ đặc biệt. Thực chất của chế độ này thể hiện ở chỗ
người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài được hưởng chế độ ưu tiên, ưu đãi đặc
biệt hoặc các quyền mà nước sở tại dành cho họ, thậm chí công dân nước sở tại
cũng không được hưởng. Các ưu tiên, ưu đãi hoặc các đặc quyền này thường được
quy định trong luật pháp của các quốc gia cũng như trong các điều ước quốc tế.
Bốn là, chế độ có đi có lại và chế độ báo phục quốc. Nội dung của chế độ có
đi có lại là nước này sẽ dành một số quyền, nghĩa vụ pháp lý nhất định, một số ưu
đãi và các điều kiện thuận lợi nhất định cho công dân của một nước kia ở nước này
trên cơ sở những điều kiện thực tế cụ thể phát sinh trong quan hệ giữa hai nước hữu
quan và công dân nước này cũng được hưởng sự đối xử tương tự tại nước kia.
Trong quan hệ quốc tế, quy chế này được hiện diện dưới các hoạt động được gọi là
có đi có lại thực chất và có đi có lại hình thức, được hiểu đồng nghĩa với quy chế
cùng có lợi trong quan hệ quốc tế.
Chế độ báo phục quốc được áp dụng trên cơ sở của chế độ có đi có lại và
cùng xuất phát từ tinh thần “có đi có lại” nên vấn đề “báo phục” được đặt ra trong
quan hệ giữa các quốc gia. Báo phục được hiểu là các biện pháp trả đũa. Nếu một
quốc gia nào đó đơn phương sử dụng những biện pháp hoặc có hành vi gây thiệt hại
hoặc tổn hại cho các quốc gia khác hay công dân, pháp nhân của quốc gia khác thì
16
chính quốc gia bị tổn hại đó hoặc công dân, pháp nhân của nó được phép sử dụng
những biện pháp trả đũa như hạn chế hoặc có các hành động tương ứng đối phó
hoặc đáp lại các hành vi của quốc gia đầu tiên đơn phương gây ra các thiệt hại đó.
Tổng hợp các hành vi đối phó đáp lại được gọi là các biện pháp báo phục và hoàn
toàn hợp pháp trên cơ sở có đi có lại. Thực tiễn Tư pháp quốc tế coi các quy định
này như nguyên tắc tập quán trong quan hệ giữa các quốc gia. Mục đích của các
biện pháp báo phục là nhằm khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị vi phạm và giống
như biện pháp bảo đảm thực thi pháp luật [12, tr.122-124]; [26, tr.120-121].
1.2.2. Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán
Bên cạnh việc được hưởng các quyền lợi và lợi ích được ghi nhận theo các chế
độ pháp lý nêu trên thì người nước ngoài phải có nghĩa vụ tôn trọng và tuân thủ pháp
luật nước sở tại, thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nước sở tại.
Trong trường hợp vi phạm pháp luật nước sở tại, họ sẽ bị xử lý theo quy định của
nước này hoặc theo điều ước quốc tế mà nước sở tại tham gia. Trong thời gian sinh
sống ở nước sở tại, người nước ngoài phải tuân thủ pháp luật nước này nhưng họ vẫn
không mất đi mối liên hệ pháp lý với nước mà họ mang quốc tịch. Xuất phát từ cơ sở
pháp lý của mối quan hệ này, các quốc gia có quyền bảo hộ ngoại giao đối với công
dân của mình sống ở nước ngoài, đồng thời công dân có quyền yêu cầu cơ quan đại
diện ngoại giao – lãnh sự của nước mình thực hiện bảo hộ ngoại giao đối với họ trong
trường hợp họ bị xâm phạm đến quyền lợi và lợi ích ở nước ngoài [26, tr.119].
Nhà đầu tư nước ngoài là người nước ngoài nên địa vị pháp lý của họ là địa
vị pháp lý của người nước ngoài. Tuy nhiên, họ là nhà đầu tư nên địa vị pháp lý của
họ còn có những quy định riêng về địa vị pháp lý của nhà đầu tư.
Trước đây, khi Luật đầu tư nước ngoài còn có hiệu lực pháp luật, quy chế
pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài được xây dựng trên cơ sở chế độ tối huệ quốc và
chế độ đãi ngộ đặc biệt.
Hiện nay, đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật Việt
Nam quy định địa vị pháp lý của họ dựa trên chế độ tối huệ quốc. Các nhà đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam đến từ các quốc gia khác nhau đều bình đẳng với nhau.
17
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về nhà đầu tư nước ngoài, địa vị pháp lý của
nhà đầu tư nước ngoài như phân tích nêu trên, có thể định nghĩa về địa vị pháp lý
của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam như sau:
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt
Nam là tổng hợp tất cả các yếu tố như quyền năng chủ thể của tổ chức, cá nhân
nước ngoài; quyền và nghĩa vụ pháp lý, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nước
ngoài; các chính sách và cơ chế pháp luật bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp
lý cũng như lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nước ngoài khi họ tham gia đầu
tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Phạm vi đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam bao gồm:
Một là, mua bán cổ phiếu, trái phiếu khi các doanh nghiệp chào bán chứng
khoán ra công chúng.
Hai là, mua bán chứng khoán khi các doanh nghiệp chào bán chứng khoán
riêng lẻ.
Ba là, mua bán chứng khoán đã phát hành của các công ty đã niêm yết tại
HOSE, HNX.
Bốn là, mua bán chứng khoán đã phát hành trên thị trường OTC.
18