Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Bài giảng PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.88 KB, 60 trang )

Lời nói đầu
Nghiên cứu khoa học là công việc của con người, ở khắp mọi nơi, trong tất cả hoạt động
của con người. Nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học những kiến thức được kế thừa, tích
lũy từ đó làm đời sống con người được nâng lên và loài người có trình độ văn minh như
ngày nay. Quá trình nghiên cứu khoa học tiếp tục phát triển và tốc độ ngày càng nhanh
hơn do các trang thiết bị phục vụ cho nghiên cứu ngày càng tốt hơn.
Không phải ai cũng biết nghiên cứu khoa học, đó là công việc của những người làm
khoa học có trình độ tư duy cao, trong số họ chỉ một ít người thành công, đạt những thành
tựu khoa học to lớn.
Nghiên cứu khoa học thường là tìm kiếm sự hiện hữu, tính chất một chủ đề, tìm
kiếm mối quan hệ giữa sự vật, xác định tính nhân qủa, dự đoán, khái quát hóa sự hiểu biết.
Thông thường chúng bắt đầu bằng một sự gợi ý quan sát được, hiểu được để tạo ra sự tuy
duy nghi vấn, để tìm hiểu giải quyết, tìm ra một giải pháp thực nghiệm để có kết quả,
chứng thật kết quả tìm cách mở rộng phạm vi và công bố kết quả.

1


Chương 1. CÁC KHÁI NIỆM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Khái niệm về nghiên cứu khoa học:
Theo nghĩa thông thường, nghiên cứu khoa học (research) được hiểu là sự “Xem
xét, tìm hiểu kỹ lưỡng để nắm vững vấn đề, giải quyết vấn đề hay để rút ra những hiểu biết
mới”. Chẳng hạn, nghiên cứu tình hình, nghiên cứu chính sách, nghiên cứu hồ sơ, nghiên
cứu chương trình giảng dạy, nghiên cứu sơ đồ kiến trúc.
Nghiên cứu khoa học thường được hiểu là nghiên cứu các vấn đề của khoa học, có
thể là khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội… nhằm giải quyết các mục
tiêu khoa học khác nhau:

I.


1.

Phát hiện bản chất sự vật hiện tượng;
Mở rộng kiến thức, phát hiện những nhận thức khoa học về thế giới, nâng cao trình
độ hiểu biết;
Tổng kết những tri thức khoa học đã có;
- Khám phá những cái mới, sáng tạo phương pháp mới, và các phương tiện kỹ thuật mới
để cải tạo thế giới.
Nghiên cứu khoa học là quá trình tìm kiếm, xem xét, điều tra vận dụng trí tuệ để từ
những dữ liệu đã có, tìm cách giải quyết vấn đề, để đạt được trí thức mới hơn, cao hơn và
giá trị hơn.
Như vậy, nghiên cứu khoa học là một hoạt động nghề nghiệp nhằm khám phá
những qui luật, của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong cộng
đồng khoa học, nghiên cứu khoa học làm tăng trí thức khoa học về mặt lý thuyết và thực
tiễn do yêu cầu của nghiên cứu đề ra.
Hoạt động nghiên cứu khoa học là sự tìm kiếm kiến thức một cách có kế hoạch, có
tính hệ thống, có mục đích rõ rệt nhằm đạt được một sự hiểu biết sâu sắc và chính xác một
lĩnh vực hoạt một hiện tượng nhất định. Ví dụ, nghiên cứu các vấn đề xã hội của việc đọc,
nghiên cứu các vấn đề tổ chức, quản lý thư viện, nghiên cứu chính sách bổ sung vốn tài
liệu, nghiên cứu lịch sử thư viện, nghiên cứu những giải pháp hiện đại hóa công tác thông
tin thư viện.
Hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động đã được vạch sẳn theo một mục tiêu
xác định và được tiến hành theo những phương pháp khoa học nhất định.
2. Mục tiêu nghiên cứu khoa học:
Công tác nghiên cứu khoa học có nhiều mục tiêu:
- Nhận thức thế giới, khám phá các qui luật vận động, phát triển các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, góp phần phát triển kho tàng tri thức của nhân loại,
làm hệ thống trí thức khoa học của nhân loại ngày càng lớn hơn, ngày càng phong phú,
khoa học ngày càng phát triển.
- Cải tạo thế giới, tạo ra công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất lao động, vận dụng

khoa học vào sản xuất và đời sống xã hội, làm cho khoa học thật sự trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp.
- Mở rộng dân trí, nâng cao trình độ văn hóa, văn minh, góp phần giáo dục con người
phát triển toàn diện.

3. Đặc điểm của công tác nghiên cứu khoa học:
2


a. Tìm kiếm cái mới
Ln ln hướng về cái mới, tìm kiếm cái mới là một trong những đặc trưng cơ bản
nhất của nghiên cứu khoa học. Công tác nghiên cứu khoa học cho phép lặp lại những giải
thích, những kết luận hay những điều đã biết, đã có sẵn, đã được giải quyết. Kết quả
nghiên cứu khoa học phải là những phát hiện mới, hoặc xem xét lại những kết luận trước
đó, chỉ ra những khuyết điểm, những vấn đề bất cập cuả nó, đề ra hướng giải quyết.
Tính hướng mới trong khoa học cho phép “nghi ngờ tất cả”. Tính hướng mới đòi
hỏi phương pháp suy nghĩ sáng tạo. Chính vì vậy, khoa học là kẻ thù của sự bảo thủ, giáo
điều. Chính vì vậy, người nghiên cứu khoa học không chỉ đơn thuần về trình độ kiến thức,
đạo đức khoa học, phương tiện nghiên cứu mà cả lòng dũng cảm, hy sinh cho khoa học.
Các nhà khoa học luôn luôn tìm kiếm cái mới và ủng hộ cái mới, chính cái mới kích thích
họ say sưa nghiên cứu.
b. Tính thơng tin
Bất kỳ mợt kết quả nghiên cứu khoa học nào, một sản phẩm khoa học nào, kể cả
sản phẩm thử nghiệm, dưới dạng nào hay hình thức nào, dù thành công hay thất bại cũng
có ý nghĩa cung cấp thông tin. Các thông tin này có thể là thông tin định tính, có thể là
thông tin định lượng, có thể là cần thiết hoặc không cần thiết đối với người nghiên cứu.
Các nhà khoa học bao giờ cũng quan tâm đến thông tin và sử dụng các phương pháp xử lý
thông tin trong quá trình nghiên cứu của mình để xây dựng các luận cứ khoa học, chứng
minh hoặc bác bỏ các giả thuyết, tìm ra các qui ḷt vận đợng của sự vật hiện tượng.
c. Tính khách quan và chủ quan

Đặc điểm của khoa học là phản ánh đúng đắn chân thực các quá trình diễn ra trong
thực tiễn, đi sâu vào các mối quan hệ bản chất và các quy luật phát triển của tự nhiên xã
hội và tư duy. Vì vậy, khoa học luôn luôn mang tính khách quan. Tuy nhiên, khoa học
cũng là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người, mà con người là nhân tố chủ quan
nhân tố này tác động vào sự phát triển của khoa học. Tính khách quan và chủ quan trong
nghiên cứu khoa học tùy thuộc vào trình độ kiến thức, năng lực nghiên cứu khoa học của
người nghiên cứu.
Một nhà khoa học có năng lực sẽ nhìn nhận sự vật, hiện tượng thật sự như nó tồn tại,
không bị xuyên tạc do xúc cảm hoặc giải thích theo tính cá nhân. Sự cảm nhận chủ quan
của người nghiên cứu có thể dẫn đến sai lệch về kết quả.
d. Tính chính xác và độ tin cậy:
Trong nghiên cứu khoa học, cần bảo đảm tính chính xác và độ tin cậy của số liệu
nhất là khi thực hiện các phương pháp đo lường, thực nghiệm để đánh giá. Trong kỹ thuật
đo lường bao giờ cũng có sai số nhất định, có thể do sai lệch do phương pháp kỹ thuật đưa
ra hoặc do năng lực quan sát của từng người, hoặc do môi trường biến động… Vì vậy, sự
chính xác độ tin cậy của các số liệu phụ thuộc vào các yếu tố này. Với các vấn đề nghiên
cứu khác nhau thì đòi hỏi sự chính xác khác nhau. Ví dụ: Đợ chính xác trong phịng thí
nghiệm bao giờ cũng cao hơn so với độ chính xác khi thực nghiệm tại hiện trường.
e. Tính mạo hiểm:
Hoạt động nghiên cứu khoa học mang theo trong bản thân nó tính mạo hiểm. Người
nghiên cứu không thể tiên liệu trước được chắc chắn 100 % nghiên cứu của mình sẽ thành
công. Nghiên cứu khoa học chứa đựng khả năng có thể thất bại hoặc hiệu quả không cao,
không đạt kết quả mong muốn. Tuy nhiên, chính thông tin về kết quả nghiên cứu thất bại
3


cho phép người đi sau không lặp lại sai lầm của người đi trước, cho phép tìm ra được
những bài học kinh nghiệm của bản thân nhà khoa học. Việc công bố hay thừa nhận thất
bại hoặc không hiệu quả trong nghiên cứu khoa học là vấn đề đạo đức của nhà khoa học,
đòi hỏi sự trung thực, sự chấp nhận rủi ro, chấp nhận thất bại.

f. Tính phi kinh tế:
Nghiên cứu khoa học có thể mang tính phi kinh tế trong các trường hợp sau:
- Khi khó xem xét các sản phẩm khoa học bằng phương pháp định tính và định lượng.
- Trong quá trình nghiên cứu, có thể phải sử dụng các thiết bị khoa học rất đắt tiền mà tần
số sử dụng thấp.

Lợi nhuận do nghiên cứu khoa học mang lại có thể rất cao hoặc cũng có thể rất thấp.
Chính vì vậy, hiệu quả kinh tế trong nghiên cứu khoa học mang tính tương đối, nó cịn tùy
tḥc vào phạm vi, đới tượng mà mục tiêu nghiên cứu khoa học.
4. Khoa học về nghiên cứu
Khoa học nghiên cứu giúp người nghiên cứu đạt được kết quả nghiên cứu tối đa với
một nỗ lực tối thiểu. Nói một khác khoa học về nghiên cứu giúp người nghiên cứu biết các
tìm kiếm, phân tích, đánh giá, chọn lọc tài liệu, sau đó hệ thống hóa, tổng hợp tài liệu,
phân tích để sáng tạo nên một công trình mới. Như vậy, từ những kiến thức, những tư liệu
đã có, người nghiên cứu phát hiện, khám phá, đưa ra những ý kiến riêng của mình, với
những luận cứ và luận chứng khoa học chứng minh cho kết luận của mình là đúng đắn là
chính xác.
Khoa học về nghiên cứu đặc biệt có vị trí quan trọng đối với những người chập
chững đi vào con đường khoa học vì nó chỉ dẫn cho người làm nghiên cứu khoa học biết
tiến hành việc nghiên cứu của mình theo một qui trình hợp lý, khoa học để đạt kết quả cao
nhất với chi phí thấp về thời gian, tiền bạc, công sức.
Khoa học về nghiên cứu còn giúp người nghiên cứu biết các trình bày kết quả nghiên
cứu của mình một cách đầy đủ, rõ ràng chính xác theo những chuẩn mực đã được qui định
để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thẩm định, đánh giá kết quả nghiên cứu một các đúng
đắn, chính xác và khách quan.
Như vậy, khoa học về nghiên cứu dạy ta phải làm gì, làm như thế nào khi bắt tay vào
việc nghiên cứu cho đến khi hoàn thành việc nghiên cứu.
Nghiên cứu khoa học là vấn đề của phương pháp luận (methodology), nghiên cứu khoa
học một cách có phương pháp là điều kiện tối thiểu cần thiết của bất cứ một khoa học nào,
nó giúp người nghiên cứu nhanh chóng nhận biết nên sử dụng phương pháp nào thích hợp

nhất cho vấn đề nghiên cứu của họ. Những cán bộ nghiên cứu chuyên nghiệp bao giờ cũng
biết xác định rõ mục tiêu nghiên cứu, đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng nghiên
cứu, đối tượng khảo sát, phạm vi nghiên cứu, liên kết các vấn đề hay các giả thuyết nghiên
cứu với các lý thuyết phù hợp và lựa chọn các phương pháp để quan sát các hiện tượng, đo
lường và giải thích chúng trong mối quan tương quan với các giả thuyết mấu chốt.

II. CÁC LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
4


Người ta phân loại nghiên cứu khoa học căn cứ vào các tiêu chí khác nhau: mục tiêu
nghiên cứu, theo sản phẩm thu nhận được sau quá trình nghiên cứu.
Phân loại nghiên cứu khoa học theo mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả:
Nghiên cứu mô tả là nghiên cứu nhằm đưa ra một hệ thống tri thức về nhận dạng sự
vật, giúp con người phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa sự vật này với sự vật
khác. Nội dung mô tả có thể mô tả hình thái, động thái, tương tác, mô tả định tính (chỉ rõ
các đặc trưng về bản chất của sự vật); mô tả định lượng (chỉ rõ các đặc trưng về lượng của
sự vật).
1.
a.

b. Nghiên cứu giải thích:
Nghiên cứu giải thích là nghiên cứu nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự hình
thành và qui luật chi phối quá trình vận động của sự vật. Nội dung giải thích có thể khác
nhau: giải thích nguồn gốc phát sinh, động thái cấu trúc, mối quan hệ tương tác, hậu quả,
các qui luật chi phối quá trình vận động của sự vật, hiện tượng.
Nghiên cứu dự báo:
Nghiên cứu dự báo là nghiên cứu nhằm nhận dạng trạng thái sự vật trong tương lai,
trong nghiên cứu dự báo người ta chấp nhận những sai lệch. Sự sai lệch trong kết quả

nghiên cứu dự báo có thể do nhiều nguyên nhân: sự sai lệch trong kết quả quan sát do các
yếu tố khách quan, môi trường luôn luôn biến động, hoặc do sự biến động của sự vật khác.
c.

d. Nghiên cứu sáng tạo:
Nghiên cứu sáng tạo nhằm mục đích tạo ra những sự vật mới chưa từng tồn tại
trước đó.
2. Phân loại nghiên cứu khoa học theo sản phẩm do quá trình nghiên cứu khoa
học tạo ra
Căn cứ vào sản phẩm thu nhận được sau quá trình nghiên cứu khoa học, chúng ta có các
loại hình: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai.
Nghiên cứu cơ bản: (Basic research, Fundamental research)
Nghiên cứu cơ bản phát hiện các thuộc tính, cấu trúc, động thái của sự vật, tương
tác trong nội bộ của sự vật và mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác. Như vậy, nghiên
cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm khám phá các qui luật, khám phá bản chất của
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Kết quả của nghiên cứu cơ bản là
những phát hiện, phát minh về những qui luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy con người. Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản có thể dẫn đến việc
hình thành một hệ thống lý thuyết có giá trị tổng quát, ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩnh
vực khoa học, ví dụ Ông Newton phát hiện ra định luật hấp dẫn vũ trụ.
a.

Nghiên cứu cơ bản được chia làm 2 loại: nghiên cứu cơ bản không định hướng và
nghiên cứu cơ bản định hướng.
Nghiên cứu cơ bản khơng định hướng: cịn gọi là nghiên cứu cơ bản thuần túy, hoặc
nghiên cứu cơ bản tự do, nghiên cứu lý thuyết, bao gồm các nghiên cứu đạt sự hiểu biết
hơn về sự vật, hiện tượng nào đó mà không xem xét đến kết quả tìm thấy sẽ ứng dụng như
thế nào, loại nghiên cứu này không có mục đích ứng dụng.

5



Nghiên cứu cơ bản định hướng: bao gồm các nghiên cứu cơ bản nhằm phát hiện những
qui luật, bản chất sự việc hiện tượng nhằm vào mục đích ứng dụng đã dự kiến trước. Ví
dụ: nghiên cứu sử dụng năng lượng nguyên tử thay thế dầu mỏ, nghiên cứu điều tra tài
nguyên, kinh tế. Nghiên cứu cơ bản định hướng được phân chia thành thành nghiên cứu
nền tảng (background research), và nghiên cứu chuyên đề (thematic research).
Nghiên cứu nền tảng là nghiên cứu qui luật tổng thể của các hệ thống sự vật. Các
nghiên cứu về tài nguyên điều tra về tài nguyên, địa chất, nghiên cứu đại dương, khí
tượng, bầu khí quyển, nghiên cứu điều tra kinh tế, xã hội… thuộc loại nghiên cứu này.
Nghiên cứu chuyên đề là nghiên cứu một hiện tượng đặc biệt của sự vật, một vấn đề,
đề tài nào đó. Các nghiên cứu này sẽ đưa đến hình thành cơ sở lý thuyết hoặc dẫn đến
những ứng dụng có ý nghĩa thực tiễn. Thông thường, loại hình nghiên cứu cơ bản được
tiến hành chủ yếu nhằm đáp ứng lợi ích cho chính bản thân khoa học. Các vấn đề này
thường là các vấn đề cơ sở, có tính căn nguyên lý thuyết.
b. Nghiên cứu ứng dụng: (Appiled research)
Nghiên cứu ứng dụng là loại hình nghiên cứu khoa học dựa trên những kết quả của
nghiên cứu cơ bản nhằm tạo dựng nên những nguyên lý công nghệ mới, sản phẩm hoặc
dịch vụ mới. Nói một cách khác, nghiên cứu ứng dụng là sự vận dụng các qui luật các qui
luật được phát hiện từ các nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật, tạo ra một nguyên lý
mới về các giải pháp và ứng dụng
chúng vào trong sản xuất và đời sống. Kết quả của những nguyên cứu ứng dụng có thể là
những giải pháp công nghệ, vật liệu, về tổ chức quản lý, có thể là các sáng chế phát minh.
Nghiên cứu ứng dụng là loại nghiên cứu mang tính thực dụng, các mục đích của nó
thường đặc trưng hơn và thường nhằm vào việc khám phá các kiến thức mới có thể sử
dụng ngay trong thực tiễn.
c. Nghiên cứu triển khai (development research):
Nghiên cứu triển khai hay còn gọi là nghiên cứu triển khai thực nghiệm (hoặc triển
khai thực nghiệm kỹ thuật) bao gồm các nghiên cứu nhằm phát triển các nguyên lý thu
được từ kết quả nguyên cứu ứng dụng để tạo ra những mẫu của những phương tiện kỹ

thuật mới, vật liệu mới hoặc một qui trình nuôi, chế biến mới. Nghiên cứu triển khai chia
thành hai dạng: thực nghiệm trong phịng thí nghiệm và thực nghiệm diện rộng.
- Thực nghiệm trong phịng thí nghiệm: nghiên cứu được tiến hành chỉ giới hạn trong điều
kiện phòng thí nghiệm, các xưởng thực nghiệm, loại sản phẩm này nhằm khẳng định kết
quả sao cho được sản phẩm, chưa quan tâm đến qui mô áp dụng.
- Thực nghiệm diện rộng: triển khai nhằm kiểm chứng giả thuyết về mẫu trên một qui mô
nhất định nhằm xây dựng điều kiện cần và đủ để mở rộng diện áp dụng.
Sau nghiên cứu triển khai thực nghiệm, người ta thường tổ chức trình diễn nhằm giới
thiệu mẫu mới, một mô hình mới, sản phẩm, dịch vụ để đạt đến mục đích thuyết phục về
mặt tâm lý xã hội, tạo tiền đề cho việc áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiển.
Sự phân loại các loại hình nghiên cứu khoa học trên chỉ mang tính tương đối, nhằm nhận
thức rõ bản chất của công tác nghiên cứu khoa học để có cơ sở lập kế hoạch nghiên cứu,
tiến hành các hợp đồng nghiên cứu. Trên thực tế, trong một đề tài nghiên cứu có thể tồn
tại cả 3 loại hình nghiên cứu hoặc hai trong 3 loại hình nghiên cứu trên. Trong một vài
6


trường hợp, không thể phân biệt dễ dàng giữa nghiên cứu cơ bản định hướng có mục đích
ứng dụng với nghiên cứu ứng dụng.
3. Các nguồn lực nghiên cứu khoa học:
a.
Nhân lực:
Nhân lực khoa học là đội ngũ những người tham gia trực tiếp vào quá trình nghiên cứu
sáng tạo khoa học. Nhân lực khoa học là tiềm năng của mọi tiềm năng, là nhân tố quan
trọng nhất tạo ra thành cơng khơng những cho khoa học mà cịn cho tất cả lĩnh vực hoạt
động khác của nhân loại.
Nhân lực khoa học bao gồm: các nhà khoa hoc, các phân viện kỹ thuật và dịch vụ khoa
học, đội ngũ này hỗ trợ nhau trong tìm tòi, sáng tạo ra mọi giá trị khoa học.
Nhân lực khoa học quan trọng nhất là các nhà khoa học có trình độ từ tiến sĩ trở lên trực
tiếp tham gia vào quá trình nghiên cứu giảng dạy ở viện nghiên cứu và các trường đại học.

Điều quan trọng nhất của nhân lực khoa học là khả năng sáng tạo của họ. Các nhà khoa
học thường có 3 mức độ tài năng:
* Những người có khả năng tạo ra những lý thuyết độc đáo, những trường phái mới,
làm phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, những người này tuy có rất ít nhựng có
vai trị cực kỳ quan trọng đới với sự phát triển của khoa học.
* Những người có khả năng nghiên cứu để hoàn thiện và bổ sung tri thức hiện có,
làm phong phú thêm kho tàng tri thức nhân loại.
* Những người có khả năng giải quyết những tình huống, những công việc cụ thể
nảy sinh trong sản xuất và trong đời sớng.
Các nhà khoa học tài năng thường có những phẩm chất đặc biệt sau đây:
* Có trí tuệ phát triển cao, linh hoạt độc đáo, luôn luôn hướng vào bản chất của mọi
vấn đề, biết quan sát, biết phê phán và đánh giá, đồng thời cũng biết bổ sung, hoàn thiện
những thiếu sót của mình và của người khác.
* Có tri thức toàn diện và sâu sắc trong lĩnh cực chuyên ngành, đồng thời có hiểu
biết rộng về các lĩnh vực chuyên ngành.
* Có óc tưởng tượng sáng tạo, có khả năng trực giác, tiên đoán chính xác, táo bạo và
mạo hiểm trong tư duy và trong hành động.
* Say mê khoa học, có khả năng tập trung cao độ và lâu dài vào một đối tượng
nghiên cứu dù là rất hẹp.
* Có tính mục đích cao, kiên trì với ý tưởng khoa học, không ngại gian khổ và khó
khăn, quyết tâm đạt tới mục đích bằng mọi biện pháp sáng tạo.
* Có phẩm chất đặc biệt: khách quan, trung thực, thẳng thắn, khiêm tốn, ham học
hỏi, có tinh thần hợp tác và đôi khi có những tính cách đôc đáo khác
Trong suốt cuộc đời lao động của nhà khoa học, tính tích cực sáng tạo không đều, tạo
thành “đường cong sáng tạo”- Một quy luật cần được các nhà tổ chức, quản lý và đào tạo
quan tâm thích đáng.
Theo Ơtxtơvanđơ phát triển sớm là mợt đặc điểm của tài năng, các nhân tài thường vào
trường đại học ở tuổi 16-17, tất cả các công trình của họ đều công bố trước tuổi 28 và năng
suất lao động cao nhất ở tuổi 25.
Theo L.Infenđơ thì các nhà vật lý đạt kết quả nghiên cứu cao nhất ở tuổi 35, ông cho rằng

ở tuổi 55-60 công việc chủ yếu đã thành thói quen khơng cịn cảm hứng sáng tạo nữa. Như
7


vây, tuổi trẻ là tuổi sáng tạo của khoa học tự nhiên, đối với khoa học xã hội theo kết quả
nghiên cứu của Kuzơmima có hai thời kỳ sáng tạo vào tuổi 40-50 và 60-70.
Thực tiễn đã chứng minh rằng trí lực và sáng tạo của con người giảm theo tuổi tác, sự cằn
cỗi trí tuệ lấn áp sức sống và tính năng động, ở tuổi già việc tiếp thu cái mới trở nên khó
khăn. Các nhà khoa học cũng có tuổi già thậm chí còn già nhanh hơn người bình thường,
bởi vì tuổi trẻ của họ lao động quá mệt mõi, đã cống hiến nhiều trí lực cho khoa học.
Để xây dựng và phát huy hết tiềm năng của nhân lực khoa học, cần có qui hoạch đào
tạo cán bộ trẻ, bổ sung thường xuyên cán bộ trẻ cho các viện, trường cần sắp xếp vào vị trí
làm việc hợp lý và tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho họ làm việc. Cần có chính sách
đặc biết đối với tài năng, cần ưu đãi nhân tài, coi nhân tài như tài sản quí của quốc gia.
Tin lực:
Thông tin khoa học theo nghĩa chung nhất là các tin tức có ích cho một hoạt động
nào đó, thông tin này có 2 cấp: thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp.
b.

Thơng tin sơ cấp hay cịn gọi là thơng tin đầu nguồn được thu nhận từ các hoạt động xã
hội hoặc sản xuất từ các điều tra cơ bản, điều tra xã hội học hoặc quan sát thực tiễn…
Thông tin thứ cấp là thông tin đã được xử lý bằng toán học hay máy tính, thông tin thứ cấp
nhằm cung cấp thông tin cho các cơ quan nghiên cứu sử dụng nó.
Như vậy thông tin khoa học là các tài liệu lý thuyết hoặc số liệu thực tiễn (đã qua xử lý)
cung cấp cho các hoạt động nghiên cứu khoa học. Nhờ có thông tin khoa học mà bộ máy
khoa học mới có thể vận hành tạo ra những giá trị mới.
Vật lực:
Các trang thiết bị kỹ thuật thích hợp dành cho công tác nghiên cứu, các thiết bị
khoa học là những thiết bị dùng trong nghiên cứu phân tích, thí nghiệm đo lường, thử
nghiệm…

c.

d.
-

Tài lực:
Nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước cấp.
Kinh phí do thực hiện các hợp đồng
Kinh phí do liên doanh, liên kết với các tổ chức khác.
Nguồn vay ngân hàng theo các qui định của nhà nước
Nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế và nước ngoài, của các cơ quan và cá nhân.

4. Nội dung công việc nghiên cứu:
Nghiên cứu một vấn đề khoa học nào đó là quá trình liên quan đến công việc sau:
Xác định đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu;
- Lựa chọn phương pháp thu thập, xử lý và phân tích các thông tin về vấn đề nghiên cứu.
- Dự toán kinh phí nghiên cứu, chuẩn bị kế hoạch và phương tiện nghiên cứu.
- Viết kết quả nghiên cứu, nêu các nhận định, kết luận và báo cáo kết quả nghiên cứu,
công bố kết quả nghiên cứu.
Nói một cách khác, trình tự nghiên cứu khoa học bắt đầu bằng việc xác định vấn đề cần
nghiên cứu, đặt giả thuyết khoa học, sau đó tổ chức công việc nghiên cứu, tiến hành
nghiên cứu: thu thập thông tin, xử lý, phân tích, tổng hợp và cuối cùng là kết quả nghiên
cứu, báo cáo, công bố kết quả nghiên cứu.
8


Xác định vấn đề  đặt giả thuyết  tổ chức nghiên cứu tiến hành nghiên cứuviết kết
quả công bố kết quả.
5. Hình thức tổ chức nghiên cứu
a. Các cơ quan nghiên cứu

Các Trung tâm nghiên cứu, các Viện nghiên cứu, phịng nghiên cứu ….
b. Các chương trình nghiên cứu
Các chương trình nghiên cứu cấp nhà nước, cấp nghành (Bộ), cấp địa phương, cấp cơ sở
(có chủ nhiệm đề tài, các cộng tác viên…) Các chương trình này có các Hội đồng riêng để
xét duyệt đề cương nghiên cứu chi tiết và cấp kinh phí thực hiện đề tài.
c. Các hội nghị khoa học
Hội nghị khoa học, hội thảo khoa học tổ chức để thảo luận, tranh luận các vấn đề khoa
học, trong hội nghị hội thảo có các báo cáo khoa học được chỉ định trước. Tại hội nghị, hội
thảo người nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm thường thu nhận được nhiều thông tin có ích
về hướng nghiên cứu, các
quan điểm khác nhau của các nhà khoa học về cùng một vấn đề, phát hiện các vấn đề tồn
tại cần giải qút…
d. Các cơng trình nghiên cứu cá nhân
Các công trình nghiên cứu cá nhân của đội ngủ cán bộ khoa học.
6. Yêu cầu đối với cán bộ nghiên cứu
a. Yêu cầu về kiến thức
Cán bộ nghiên cứu phải có kiến thức cơ bản vững vàng về lĩnh vực nghiên cứu, phải có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Ví dụ: muốn nghiên cứu về công tác người đọc phải sử
dụng các kiến thức cơ bản thu nhận được từ các nghành khác như tâm lý học, xã hội học,
bên cạnh các kiến thức về thư viện học, thông tin học; Muốn nghiên cứu về marketing thư
viện phải có kiến thức về kinh tế, về toán, máy tính. Muốn nghiên cứu về tổ chức quản lý
sự nghiệp thư viện phải có kiến thức chung về quản lý, kinh tế…
b. Yêu cầu về kỹ năng nghiên cứu
Cán bộ nghiên cứu phải biết cách làm việc một cách khoa học, có kế hoạch. Cán bộ nghiên
cứu phải được trang bị phương pháp luận nghiên cứu, sử dụng thành thạo các phương
pháp nghiên cứu khoa học.
c. Yêu cầu về đạo đức
Nghiên cứu khoa học là một công việc sáng tạo, là lao động đợc lập, căng thẳng, địi hỏi sự
kiên nhẫn, say mê nghiên cứu, sự nghiêm khắc đối với bản thân. Ngoài ra, tính trung thực,
cẩn thận, chính xác không thể thiếu đối với nhà khoa học. Con đường khoa học bao giờ

cũng chơng gai và vất vả, địi hỏi nhà khoa học có ý chí phấn đấu kiên cường, dũng cảm,
không chùn bước trước khó khăn, gian khổ, không nản chí trước thất bại nếu có.

9


Chương 2. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
*****

I. Cơ sở lý luận của các phương pháp nghiên cứu
1. Khái niệm về phương pháp nghiên cứu khoa học
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hi lạp là methodos, phương pháp theo
nghĩa chung nhất là cách thức đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự
nhất định để thực hiện mục đích vạch ra. Theo triết học, với tính cách là phương tiện nhận
thức, phương pháp là cách thức tái hiện lại đối tượng nghiên cứu trong tư duy. Phương
pháp là hệ thống các nguyên tắc, qui tắc, các thủ thuật mà chủ thể thực hiện trong nhận
thức, cũng như trong thực tiễn nhằm đạt mục tiêu đề ra (Tự điển triết học .-M., 1986).
Phương pháp bao gồm nhận thức thế giới và phương pháp cải tạo thế giới. Phương
pháp là một yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo
hiện thực.
Phương pháp là do con người sáng tạo ra, vì vậy phương pháp có thể mang tính chủ
quan, có phương pháp mang tính khách quan.
Phương pháp chủ quan là phương pháp không xuất phát từ bản thân khách thể mà
xuất phát từ ý muốn của chủ thể, phương pháp khách quan khoa học là phương pháp được
đề ra xuất phát từ qui luật khách quan, từ bản chất của đối tượng.
Việc áp dụng một cách có ý thức những phương pháp khoa học là điều kiện quan
trọng nhất để nhận được tri thức mới và tăng năng suất lao động khoa học. Trên cơ sở
những điều kiện khách quan đã có, phương pháp càng đúng đắn thì kết quả đạt được càng
cao, phương pháp là con đường ngắn nhất giúp chúng ta khám phá tri thức mới và truyền
bá tri thức mới sau khi phám khá.

Phương pháp nghiên cứu khoa học là cách thức nghiên cứu để đạt được mục
tiêu nghiên cứu đã xác định.
Hệ thống các phương pháp nghiên cứu là một hệ thống cách thức hành động có
trình tự theo thời gian, có sự liên kết và phối hợp, sự tổng hợp các cách thức khác nhau để
đạt được mục nghiên cứu đã được xác định. Việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu nào
cho phù hợp tùy thuộc vào đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu trong từng
trường hợp cụ thể.
Cơ sở lý luận của các phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sâu sắc và hoàn thiện các phương pháp nhận thức là đòi hỏi tất yếu của
từng ngành khoa học.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, vạch ra con đường để lựa chọn
phương pháp đúng đắn. Lý luận về phương pháp nghiên cứu mở ra bản chất, ý nghĩa, vị trí
của phương pháp trong hệ thống tìm kiếm khoa học chung, làm sáng tỏ các điều kiện sử
dụng phương pháp có hiệu quả, vạch ra được những tiêu chuẩn chọn lựa phương pháp đối
với từng hoàn cảnh nghiên cứu cụ thể và để đạt đến sự thành công hơn trong việc liên kết
phối hợp các phương pháp trong các nghiên cứu cụ thể.
2.

*Những nguyên tắc cơ bản định hướng cho người nghiên cứu trong nhận thức và
hoạt đợng địi hỏi tuân thủ các nguyên tắc sau:

10


Nguyên tắc khách quan
Cơ sở của nguyên tắc khách quan là nguyên lý vật chất tồn tại một cách khách quan khơng
phụ tḥc vào ý thức, ngun tắc này địi hỏi người nghiên cứu khi nghiên cứu các sự vật,
hiện tượng phải xem xét một cách khách quan, tôn trọng sự thật, xuất phát từ bản thân sự
vật để nhận thức nó,
phải phản ánh sự vật một cách trung thành vốn có, phải tìm ra qui luật vận động, phát triển

của sự vật, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan.
Nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc toàn diện xuất phát từ nguyên lý về mối liên lệ phổ biến của các sự vật hiện
tượng, nguyên tắc này đòi hỏi phải nghiên cứu sự vật trong tính toàn vẹn, và quan hệ phức
tạp của nó, phải có cái nhìn bao quát tất cả mọi mặt, tìm hiểu các mối quan hệ trực tiếp và
gián tiếp, từ đó tìm ra mối quan hệ bản chất những mặt cơ bản, chủ yếu để nhận thức đúng
đắn sự vật. Thực hiện tốt nguyên tắc này trong quá trình nghiên cứu sẽ giúp người nghiên
cứu tránh được cách nhìn nhận vấn đề cứng nhắc, phiếm diện một chiều.
Nguyên tắc phát triển
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên lý về vận động, phát triển của sự vật, nguyên tắc phát
triển đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động; phải tìm ra
đúng những mâu thuẫn, xu hướng phát triển của sự vật, phải nghiên cứu sự vật trong các
giai đoạn lịch sử đã trải qua, phải tìm ra nguồn gốc và động lực, vạch ra các qui luật chi
phối sự vận động, phát triển của sự vật.
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể
Bất cứ sự vật nào cũng tồn tại với tích cách là cái cụ thể tồn tại trong điều kiện thời gian,
không gian cụ thể. Chính vì vậy, khi nghiên cứu sự vật và các mặt, các khía cạnh, các mối
quan hệ, sự vận động, phát triển của nó phải đặt trong điều kiện thời gian, không gian cụ
thể, gắn liền với tồn tại lịch sử cụ thể. Tuyệt đối không được xem xét sự vật, hiện tượng
một cách chung chung mà phải phân tích cụ thể trong tình hình cụ thể.

Nguyên tắc thực tiển
Nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét sự vật phải gắn liền với thực tiển, phải xuất phát từ
nhu cầu thực tiển, nhu cầu của xã hội, phải coi trọng hiệu quả nghiên cứu trong thực tiển.
Các nguyên tắc cơ bản trên mang tính độc lập tương đối, khơng thể thay thế nhau và
có mối quan hệ biện chứng với nhau, tạo tiền đề cho nhau trong quá trình nghiên cứu.
Nắm vững các nguyên tắc này là điều kiện cần thiết đối với người nguyên cứu.
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Để nhận thức các vấn đề lý luận và thực tiển, người cán bộ nghiên cứu phải có đầu óc tư
duy khoa học. Tư duy khoa học giúp con người suy nghĩ và làm việc một cách khoa học,

sáng tạo, đạt hiệu quả cao nhất.

11


1. Phát hiện vấn đề khoa học
Vấn đề khoa học là vấn đề chưa biết cách giải quyết nhưng có khả năng giải quyết
được. Vấn đề khoa học xuất hiện trong những tình huống khác nhau, có thể xuất hiện khi
người nghiên cứu đọc các công trình nghiên cứu của người đi trước, phát hiện những yếu
điểm trong công trình đó. Có thể
xuất hiện trong tranh luận khoa học, thảo luận khoa học, trong lúc suy nghĩ tìm kiếm
những giải pháp mới, quan sát thực tế…
Phát hiện được vấn đề trong khoa học tức là đặt ra được các câu hỏi cần trả lời
trong nghiên cứu, định hình được các vấn đề cần được giải quyết.
2. Đặt ra giả thuyết khoa học (scientific hypothesis)
Trên cơ sở hiểu biết đã có về đối tượng nghiên cứu, người nghiên cứu xây dựng các
giả thuyết nhằm tiên đoán về bản chất tính chất của các mối quan hệ giữa các hiện tượng
được nghiên cứu. Như vậy, giả thuyết khoa học là tri thức giả định, một nhận định sơ bộ,
một kết luận giả định về bản chất sự vật hoặc hiện tượng do người nghiên cứu đưa ra để
chứng minh hoặc bác bỏ. Giả thuyết khoa học có thể đúng, có thể sai và bị bác bỏ.
Giả thuyết khoa học mang các thuộc tính cơ bản như tính giả định, tính đa phương
án, tính dễ biến đổi.
Tính giả định
Giả thuyết mang tính giả định, được đặt ra để kiểm tra và chứng minh. Tính giả định thể
hiện ở chổ giả thuyết chỉ nhận định chủ quan ban đầu, nhận định này chưa được xác nhận
bằng các luận cứ thu thập được từ lý thuyết và các phương pháp nghiên cứu khoa học,
nhận định nay có thể đúng hoặc có thể sai. Trong quá trình nghiên cứu và qua quá trình
kiểm nghiệm thực tế, giả thuyết có thể khẳng định hoặc đổ vỡ hoàn toàn, bị phủ định. Ví
dụ: nghiên cứu đề tài “ Sử dụng và triển vọng phát triển của các cơ sở dữ liệu ở Việt Nam
“ có thể đặt giả thuyết giả định rằng tất cả các cơ sở dữ liệu on-line, cơ sở dữ liệu fulltext

ngày càng phát triển ở nước ta trong những năm cuối thế kỷ XX. Giả định cần được kiểm
tra trong thực tế.
Tính đa phương án
Trước một vấn đề nghiên cứu, người nghiên cứu bao giờ cũng đặt nhiều giả thuyết khác
nhau để kiểm chứng.
Ví dụ: Nghiên cứu về vai trị của người cán bợ thư viện khi hoạt động thư viện đã được tự
động hóa hoàn toàn, có thể đặt ra hai giả thuyết:
Máy móc hoàn toàn thay thế cán bộ thư viện
Máy móc không thể thay thế cán bộ thư viện
Nghiên cứu về các loại hình thư viện trong xã hội hiện đại có thể đặt các giả thuyết:
Thư viện kiểu truyền thống tiếp tục tồn tại song song với thư viện điện tử, thư viện
số, thư viện ảo.
Thư viện truyền thống sẽ thành nhà bảo tàng hay chết hẳn..
Tính dễ biến đổi
Mợt giả thuyết có thể nhanh chóng bị xem xét lại ngay sau khi vừa đặt ra do sự phát
triển năng động của nhận thức. Cần lưu ý rằng khi đặt các giả thuyết phải dựa trên một số
12


cơ sở lý thuyết nhất định, hoặc dựa trên một số kết quả quan sát một số lượng các sự kiện
nào đó chứ không phải đặt ra một cách ngẫu hứng.
Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phân tích (gớc chữ Hy Lạp: analusis) và tổng hợp (gốc chữ Hy lạp: sunthesis) với ý
nghĩa chung nhất là quá trình phân giải trong tư duy hoặc trên thưc tế một cách toàn thể từ
những bộ phận hợp thành và từ những bộ phận hợp nhất thành cái toàn thể. Phân tích và
tổng hợp đóng vai trò quan trọng trong quá trình nhận thức và được thực hiện trên tất cả
các giai đoạn của quá trình đó. Trong các thao tác tư duy, phân tích và tổng hợp gắn liền
với trừu tượng hóa, khái quát hóa.
3.


Phân tích logic là sự phân chia trong tư duy đối tượng nghiên cứu thành những bộ
phận hợp thành để từ đó thu nhận những tri thức mới. Tùy theo tính chất của đối tượng
được nghiên cứu, phân
tích mang những hình thức khác nhau. Tính nhiều mặt của phân tích là điều kiện để
nhận thức toàn diện đối tượng được nghiên cứu. Biểu hiện cụ thể của tính nhiều mặt là:
- Việc phân chia cái toàn cái toàn thể thành những bộ phận hợp thành cho phép làm rỏ cấu
tạo, kết cấu của đối tượng được nghiên cứu.
- Việc phân chia một hiện tượng phức tạp thành những yếu tố đơn giản hơn cho phép phân
biệt cái cơ bản với cái không cơ bản.
- Phân tích một quá trình đang phát triển cho phép nêu bật lên các giai đoạn khác nhau và
những khuynh hướng, mâu thuẫn của nó.
Việc phân loại các sự vật và hiện tượng là một trong những hình thức của phân tích.
Trong quá trình hoạt động phân tích, tư duy vận động từ cái phức tạp đến cái đơn giản, từ
cái ngẫu nhiên sang cái tất yếu, từ tính đa dạng sang tính đồng nhất và tính thống nhất.
Như vậy, mục đích của phân tích là nhận thức các bộ phận với tính cách là những yếu tố
của toàn thể phức tạp.
Tổng hợp: là quá trình ngược với phân tích, tổng hợp là quá trình hợp nhất toàn thể
các bộ phận, các đặc tính, các quan hệ mà sự phân tích đặt ra. Đi từ tính đồng nhất, cơ bản
đến tính khác biệt, sự đa dạng, tổng hợp kết hợp cái chung và cái riêng, tính thống nhất và
tính đa dạng vào một toàn thể cụ thể sinh động. Tổng hợp là bổ sung cho phân tích và nằm
trong sự thống nhất không thể tách rời với phân tích.
Nếu không phân tích người nghiên cứu không thể biết sự vật cụ thể và các yếu tố của nó,
tuy nhiên sự phân tích không làm cho người nghiên cứu hiểu biết hoàn toàn sự vật mà phải
được bổ sung bằng sự tổng hợp. Tổng hợp trên cơ sở kết qủa phân tích, từ đó có thể nhìn
bao quát của sự vật và hiện tượng. Nhờ phân tích người nghiên cứu có cái nhìn rõ ràng,
thấu đáo về toàn thể, nhờ tổng hợp người nghiên cứu hiểu rỏ vị trí, vai trị của từng bợ
phận trong cái toàn thể trong cái toàn thể. Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp, tổng hợp giúp
cho phân tích đi sâu vào bản chất của sự vật. Sự thống nhất giữa tổng hợp và phân tích là
yếu tố quan trọng của phép biện chứng và trong tư duy nghiên cứu phải biết kết hợp chặt
chẽ phân tích và tổng hợp.

4. Phương pháp quy nạp và diễn dịch
Quy nạp là thao tác của tư duy đi từ tri thức về cái riêng (sự vật, hiện tượng, quá
trình riêng lẻ) đến tri thức về cái chung, đi từ tri thức ít chung đến tri thức chung hơn.
13


Thực chất quy nạp là quá trình rút ra nguyên lý chung từ sự quan sát một loạt các sự kiện,
hiện tượng riêng lẽ được lặp đi lặp lại.
Diễn dịch là thao tác của tư duy đi từ tri thức chung đến tri thức ít chung hơn và đi
đến tri thức về cái riêng. Thực chất diễn dịch là quá trình vận dụng từ nguyên lý chung để
xem xét cái riêng, rút ra kết luận từ nguyên lý chung đã biết.
Mối quan hệ giữa quy nạp và diễn dịch là mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái
riêng. Nhờ quy nạp chúng ta hiểu được ý nghĩa của cái riêng đối với sự nhận thức cái
chung. Trái lại, diễn dịch giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của cái chung đối với sự nhận
thức cái riêng. Quá trình nhận thức là liên tục đi từ cái riêng đến cái chung và đi từ chung
đến riêng. Quy nạp và diễn dịch phải liên hệ với nhau một cách tất nhiên như tổng hợp và
phân tích. Vì vậy, không thể tách rời quy nạp với diễn dịch.
5. Phương pháp hệ thống-cấu trúc
Hệ thống là tập hợp các yếu tố khác nhau có liên hệ qua lại với nhau tạo thành một
chỉnh thể thống nhất.
Cấu trúc là mặt bất biến của hệ thống, là hình thức tổ chức của hệ thống, hệ thống
có một số đặc tính cơ bản: tính chỉnh thể, tính thứ bậc, tính hướng đích.
Tính chỉnh thể
Cách sắp xếp, sự tác động qua lại giữa các yếu tố “ tạo ra cho hệ thống những thuộc tính
mới, chất lượng mới, chất lượng tổng hợp vốn không có ở các bộ phận hay các yếu tố với
tư cách là cái riêng biệt”.
Tính thứ bậc
Mỗi hệ thớng có hình thức tổ chức nhất định, một hệ thống có thể liên hệ với hệ thống mẹ
cao hơn hoặc hệ thống con thấp hơn.
Tính hướng đích

Mỗi hệ thớng đều hướng đến hoàn thành một nhiệm vụ nào nó “từ vấn đề điều khiển đi
đến vấn đề về tính hướng đích của các hành vi của hệ thống, bởi vì điều khiển có nghĩa là
giải quyết một nhiệm vụ nào đó, đạt được mục đích nào đó theo một chương trình nhất
định”.
Hệ thống và cấu trúc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đây là hai mặt của một thực tại.
Trong sinh hoạt học thuật khi xem xét các vấn đề bằng phương pháp hệ thống- cấu trúc
phải chú ý các điểm sau:
- Các thành tố của hệ thống: hệ thống có liên hệ với môi trường ở bên ngoài hệ thống đồng
thời liên hệ với các thành tố bên trong hệ thống theo quan hệ thứ bậc (hệ thống mẹ-hệ
thống con), quan hệ cấu trúc (giữa các yếu tố trong hệ thống), chức năng của mối liên hệ
đó.
- Các mối liên hệ của hệ thống: liên hệ tác động, liên hệ sản sinh, liên hệ cải tạo, liên hệ
cấu trúc, liên hệ hoạt động, liên hệ phát triển, liên hệ điều khiển.
- Đồng đại và lịch đại: xét về mặt đồng đại là xét sự vật ở một thời điểm nhất định cùng
với mối liên hệ phức tạp của nó; xét về mặt lịch đại là xét sự vật trong quá trình vận động
phát triển trong thời gian.
14


III. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC:
Phương pháp nghiên cứu phản ánh một phần các khía cạnh của hoạt động khoa học
và giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao đông khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học hiện đại, vấn đề được các nhà khoa học quan tâm không chỉ
nghiên cứu cái gì và được nghiên cứu bằng phương pháp nào và nghiên cứu như thế nào.
Sau đây, chúng ta thảo luận một vài phương pháp nghiên cứu khoa học thường được sử
dụng.
1. Phương pháp quan sát:
a. Mục đích của phương pháp quan sát:
Quan sát là sự cảm thụ bằng các giác quan về các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tự
nhiên vốn có của nó. Phương pháp quan sát được các nhà khoa học sử dụng nhiều trong

các công trình nghiên trong tự nhiên lẫn xã hội. Phương pháp quan sát nhằm phát hiện bản
chất và tìm ra qui luật vận động của sự vật hoặc hiện tượng cần quan sát.
b. Đặc điểm của phương pháp quan sát:
Cần phân biệt quan sát thường và quan sát khoa học, quan sát thường chỉ dừng lại những
gì giác quan “mắt thấy, tai nghe”, cảm nhận được những gì xảy ra, diễn ra trước mắt. Đây
là quan sát tự
nhiên, trực tiếp diễn ra hàng ngày trong cơng việc. Cịn quan sát khoa học có sự tham gia
của tư duy để tìm hiểu nghĩa sự kiện và tìm ra qui luật của nó. Quan sát khoa học mang
các đặc điểm sau:
+ Quan sát khoa học là sự cảm nhận một cách đặc biệt, có tổ chức, có kế hoạch lên
các đối tượng thực tiễn, sau đó tiến hành hệ thống hóa các dữ liệu đã nhận được để có các
tri thức khoa học chính xác và tin cậy về các đối tượng này.
+ Quan sát khoa học địi hỏi ghi chép mợt cách đầy đủ và khách quan, chính xác các
hiện tượng, sự vật xảy ra, có thể dùng các thiết bị hỗ trợ để ghi lại hình ảnh, âm thanh.
+ Quan sát khoa học có thể tiến hành một cách độc lập hoặc có thể một phần của
phương pháp khác.
+ Trong quá trình quan sát các vấn đề cần được quan sát được xây dựng theo một kế
hoạch chi tiết của riêng nó. Các số liệu nhận được từ các quan sát khác nhau cần được so
sánh và kiểm tra để có cơ sở tin cậy, đúng đắn và khách quan.
+ Quan sát khoa học có đặc tính định hướng: người nghiên cứu cảm nhận không chỉ
thể hiện không chỉ hiện tượng diễn ra một cách ngẫu nhiên trong phạm vi nghiên cứu mà
sàng lọc ra các sự kiện, các nhân tố đáp ứng nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
c. Ưu, nhược điểm của phương pháp quan sát:
Ưu điểm: có thể dễ dàng thực hiện, không gây biến động lên các đối tượng quan sát.
Ví dụ: quan sát tập tính ăn của gia súc, quan sát sự di chuyển của côn trùng…
Nhược điểm: tốn công sức của người nghiên cứu, có khả năng sai lầm khi đối tượng
quan sát biết mình bị quan sát.
d. Điều kiện để quan sát có hiệu quả:
- Xác định rõ mục tiêu quan sát: quan sát nhằm mục đích gì?
- Xác định rõ nội dung quan sát: quan sát cái gì?

- Chuẩn bị quan sát: ở đâu, thời gian tiến hành, chọn mẫu quan sát phù hợp với mục đích
quan sát và khả năng người quan sát.
15


- Lập các biểu mẫu và phiếu quan sát để ghi chép một cách thuận lợi và khoa học nhất,
trên đó ghi rõ họ, tên, ngày, giờ, địa chỉ, đối tượng quan sát và thời gian quan sát.
- Chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ: ghi âm, camera…
- Khi tiến hành quan sát phải ghi chép nhanh để kịp về tốc độ hiện tượng diễn ra (có thể
ghi chép bằng ký hiệu hoặc mã số đã định trước) đến cuối ngày tập hợp lại thành các biểu
bảng hoàn chỉnh.
- Cần lưu ý thời gian quan sát và số mẫu phải đủ để loại trừ các yếu tố ngẫu nhiên.
2. Phương pháp thử nghiệm (experiment)
a. Mục đích của phương pháp thử nghiệm:
Thử nghiệm là phương pháp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng bằng cách can thiệp
trực tiếp vào các quá trình diễn biến tự nhiên của chúng hoặc thay đổi các tình huống và
các điều kiện trong vào quá trình diễn biến của chúng. Trong quá trình thử nghiệm người
nghiên cứu có thể sử dụng các phương tiện vật chất như các trang thiết bị, hóa chất, thức
ăn trong động vật, dụng cụ để tác động lên đối tượng nghiên cứu nhằm thu nhận những
thông tin cần thiết về đối tượng.
Nếu như phương pháp quan sát người nghiên cứu không can thiệp vào trạng thái tự
nhiên của đối tượng nghiên cứu, thì ngược lại trong thử nghiệm người ta chủ động làm
biến đổi những điều kiện tồn tại tự nhiên của đối tượng, bắt đối tượng phải phản ứng với
những điều kiện mới do người nghiên cứu tạo ra.
Thủ nghiệm không dừng lại ở chức năng thu thập sự kiện khoa học mà còn có chức
năng bác bỏ hay khẳng định một giả thuyết nào đó.
Thủ nghiệm là phương pháp mang tính truyền thống, được áp dụng rộng rãi trong
nghiên cứu khoa học.
b. Đặc điểm của phương pháp thử nghiệm:
Là phương pháp thu thập thông tin có hiệu quả được thực hiện bởi những quan sát

trong điều kiện có gây biến đổi đối tượng khảo sát một cách chủ động.
Bằng con đường thực nghiệm các nhà khoa học nghiên cứu các khía cạnh phong phú
của các hiện tượng sự vật trong nông nghiệp.
c. Ưu, nhược của phương pháp thử nghiệm
Ưu điểm của phương pháp thử nghiệm cho phép người nghiên cứu lặp đi lặp lại
nhiều lần tình huống mà mình quan tâm nghiên cứu sâu sắc. Đồng thời trong các thử
nghiệm lặp lại có thể tác động trực tiếp lên đối tượng hay thay đổi hàng loạt toàn phần
hoặc từng phần các điều kiện, xác định ảnh hưởng của chúng lên hiện tượng nghiên cứu.
Rút ngắn được thời gian tiếp cận đối tượng trong quan sát
Không bị hạn chế không gian và thời gian
Nhược điểm của phương pháp thử nghiệm là trong từng thử nghiệm diễn ra sự đo
lường kết quả không thể đạt đến độ chính xác cao tuyệt đối, luôn luôn tồn tại một khả năng
sai lầm. Nguyên nhân đưa đến sai lầm có thể xuất phát từ mối quan hệ với giả thuyết.
Giả thuyết người nghiên cứu đưa ra đúng, song trong quá trình thử nghiệm không chứng
minh được tính đúng đắn đó;
Giả thuyết người nghiên cứu đưa ra sai, nhưng kết quả thử nghiệm (do thiếu chính xác)
cho thấy những sai lầm của giả thuyết được công nhận là đúng.
d. Các loại thử nghiệm:
- Thử nghiệm thăm dò được tiến hành khi chưa có giả thuyết nhằm khám phá những
hiện tượng mới, sự kiện mới. Thực chất của thử nghiệm này là để phát hiện bản chất của
sự vật và hiện tượng để xây dựng giả thuyết mới.
16


- Thử nghiệm kiểm chứng được tiến hành sau khi có giả thuyết nhằm kiểm tra giả
thuyết đó đúng hay sai.
- Thử nghiệm song song là phương pháp kiểm chứng giả thuyết dựa trên sự so sánh
trạng thái hai nhóm hay hai dãy nhóm đối chứng với nhau, tiến hành cùng một thử nghiệm
nhưng trên hai đối tượng trong những điều kiện được khống chế giống nhau, nhằm rút ra
kết luận về ảnh hưởng của thử nghiệm trên các đối tượng khác nhau.

- Thử nghiệm đối nghịch được tiến hành trên hai đối tượng giống nhau và các điều
kiện ngược nhau nhằm quan sát kết quả của các phương thức tác động của các điều kiện
thử nghiệm trên các thông số của đối tượng nghiên cứu.
- Thử nghiệm so sánh được tiến hành trên hai đối tượng khác nhau, trong đó một
trong hai được làm đối chứng nhằm tìm sự khác biệt giữa các phương pháp, giữa sự bổ
sung so với đối chứng.
e. Mối quan hệ giữa hai phương pháp quan sát và thử nghiệm
Phương pháp quan sát và phương pháp thử nghiệm là những phương pháp đã được
áp dụng rất lâu trong nghiên cứu khoa học và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thử
nghiệm xuất hiện trên cơ sở quan sát, trong cấu trúc của phần thử nghiệm đều có quan sát.
Quan sát và thử nghiệm được xem xét hai đầu của cái thước, một đầu thể hiện bối
cảnh được nghiên cứu không phù thuộc vào người nghiên cứu (quan sát), cịn đầu kia là
bới cảnh được thay đổi cho phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ của người nghiên cứu (thử
nghiệm). Trong thời gian quan sát người nghiên cứu cố gắng nhận thức về đối tượng
nghiên cứu một cách khách quan, trong khi thử nghiệm người nghiên cứu tác động ảnh
hưởng lên đối tượng một cách chủ quan. Chính vì sự trộn lẫn giữa khách quan và chủ quan
với mục đích xây dựng các điều kiện cần thiết để đi vào bản chất của nó là nét đặc trưng
của quan trọng của thử nghiệm. Người nghiên cứu càng tính toán đầy đủ khả năng tác
động lên đối tượng và kết quả sẽ có nhiều dữ liệu thực tế, giúp cho việc xác định mối quan
hệ giữa tác động bằng thử nghiệm và kết quả khách quan của nó.
3. Phương pháp phỏng vấn
a. Mục đích của phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn là một công cụ điều tra rất có ich trong nghiên cứu. Đây là phương pháp
đưa ra những câu hỏi với người đối thoại để thu thập thông tin phục vụ cho mục đích
nghiên cứu.
b. Đặc điểm của phương pháp phỏng vấn
Khi sử dụng phương pháp phỏng vấn, người nghiên cứu phải hiểu biết nhất định về
tâm lý con người, nắm được kỹ thuật giao tiếp, các nguyên tắc cơ bản trong giao tiếp và
biết cách gây thiện cảm. Trước mỗi đối tượng phỏng vấn, người nghiên cứu cần có cách
tiếp cận khác nhau.

Trong nghệ thuật phỏng vấn, người nghiên cứu khi phỏng vấn phải làm chủ mọi cảm
xúc, tình cảm, phải linh hoạt, tùy theo tình huống mà thay đổi câu hỏi cho phù hợp để lấy
được thông tin cần thiết.
Người nghiên cứu phải có kiến thức rộng để phân biệt câu trả lời chính xác, không
chính xác, đánh giá đúng độ tin cậy của trả lời. Ngoài ra, người phỏng vấn phải khéo léo tế
nhị mới có thể khai thác được các thông tin và tìm hiểu được được quan điểm thật của
người được phỏng vấn, đặc biệt đối với những người có bản lĩnh, kín kẽ, biết che dấu sự
suy nghĩ thật của họ.

17


c. Các yếu tố để phỏng vấn thành công
Muốn phỏng vấn thành công người nghiên cứu phải thực hiện được các yếu tố sau:
- Chuẩn bị trước các câu hỏi thật kỹ các câu hỏi sát chủ đề theo một trình tự nhất
định, làm sao cho câu hỏi gợi ra được các dữ liệu nghiên cứu mong muốn. Phải thuộc lòng
các câu hỏi này. Trong quá trình phỏng vấn nhất thiết không giở các câu hỏi đã chuẩn bị ở
nhà ra.
- Trang phục gọn gàng, sạch sẽ, lịch sự.
- Phải tạo được không khí thoải mái, tự nhiên, dễ chịu trong quá trình phỏng vấn.
Thái độ thân mật nhã nhặn, khiêm tốn, tránh các cử chỉ bất nhã.
- Cách hỏi: ngắn gọn, rõ ràng, mỗi lần một câu, âm sắc vừa phải, tránh nói đệm từ
nước ngoài, không mớm lời cho người được phỏng vấn.
- Cách nghe: tôn trọng chăm chú, không ngắt lời, không phản ứng đối với câu trả lời,
không bày tỏ sự tán thành hay phản đối, ngạc nhiên hay sửng sốt, không tranh luận với
người được phỏng vấn, không chi trích quan điểm của họ ngay cả quan điểm đó theo mình
là sai.
- Ghi nhận chính xác, khách quan câu trả lời, xin phép được ghi âm chụp ảnh khi cần
thiết.
- Khi kết thúc cuộc phỏng vấn bao giờ cũng bày tỏ lịng biết ơn đới với người được

phỏng vấn về sự hợp tác giúp đỡ của họ, làm cho họ hiểu rằng ý kiến quan điểm của họ là
những thông tin cần thiết và quan trọng đối với công tác nghiên cứu điều tra đang tiến
hành.
d. Các loại phỏng vấn
Có hai cách phỏng vấn là phỏng vấn trực tiếp và phỏng vấn gián tiếp, phỏng vấn trực tiếp
có nhiều hình thức:
- Phỏng vấn trực tiếp có chuẩn bị trước: báo cáo cho người phỏng vấn về thời gian, nội
dung phỏng vấn, tiến hành phỏng vấn trực tiếp theo trình tự những câu hỏi cần thiết đã
được soạn sẵn liên quan đến mục đích nghiên cứu.
- Phỏng vấn không chuẩn bị trước: không báo trước cho người được phỏng vấn.
- Phỏng vấn theo kiểu đàm thoại: nội dung không liên quan nhiều đến công việc, nhằm
theo dõi người được phỏng vấn, và từ những câu hỏi này sẽ nảy sinh bất chợt để xác định
mức độ quan tâm, hứng thú của họ về vấn đề nào đó trong c̣c sớng.
- Phỏng vấn nhóm: mợt nhóm cán bộ nghiên cứu sẽ lần lượt phỏng vấn một cá nhân với
các câu hỏi khác nhau và đánh giá theo quan điểm riêng của từng người.
- Phỏng vấn tạo căng thẳng: các câu hỏi đặt ra đã biết trước là rất khó khăn để trả lời
nhằm xác định mức độ chịu đựng căng thẳng cao hay thấp trong công việc.
- Phỏng vấn gián tiếp thường trao đổi qua điện thoại. Thời gian cho các cuộc phỏng vấn
thường 15 phút, nếu kéo dài tối đa là 40 phút. Nhịp độ phỏng vấn nhanh, vừa phải hay
chậm tùy thuộc vào
từng tình huống cụ thể. Việc ghi chép trong tiến trình phỏng vấn phải đầy đủ, chi tiết.
Thông thường người đi phỏng vấn phải biết viết tốc ký.
4. Phương pháp điều tra bằng cách lập câu hỏi (phương pháp questionnaire)
a. Mục đích của phương pháp
Mục đích của phương pháp này là thu thập toàn bộ thông tin của tất cả khía cạnh của
xã hội.

18



b. Yêu cầu của phương pháp
Điều tra bằng cách lập bảng câu hỏi được sử dụng nhiều trong nghiên cứu khoa học,
phương pháp này đòi hỏi phải biết cách chọn mẫu, thiết kế bảng câu hỏi và xử lý kết quả.
- Chọn mẫu: việc chọn mẫu vừa mang tính ngẫu nhiên vừa mang tính đại diện, tránh chọn
mẫu theo định hướng chủ quan của người nghiên cứu. Dựa trên sự khái quát hóa các bảng
trả lời riêng biệt của các cá nhân, đơn vị được điều tra được điều tra theo một tỷ lệ nhất
định, người nghiên cứu có thể rút ra các ý kiến, thái độ, quan điểm chung về một hiện
tượng nào đó. Phương pháp này tiết kiệm thời gian khảo sát thực tế, công sức người
nghiên cứu đồng thời vẫn bảo đảm tính hiệu quả, tính đầy đủ và độ chính xác của thông tin
trong quá trình nghiên cứu.
- Thiết kế bảng câu hỏi: việc thiết kế bảng câu hỏi phải được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, rõ ràng
các loại câu hỏi và sắp xếp sao cho nó mang tính logic.
- Các dạng câu hỏi chính thường được sử dụng như sau:
+ Câu hỏi mở là dạng câu hỏi tạo điều kiện cho người trả lời tự do theo suy nghĩ
của mình.
+ Câu hỏi đóng là dạng câu hỏi đã định sẵn các tình huống trả lời, người trả lời chỉ
việc chọn tình huống trả lời thích hợp, có 3 loại câu hỏi đóng như sau:
+ Loại câu hỏi với phương án trả lời “có” hoặc “không”, “đã” hoặc “chưa”, “thích”
hoặc “không thích”;
+Loại câu hỏi với phương án trả lời theo mức độ từ quan trọng đến kém quan trọng;
+ Loại câu hỏi với phương án trả lời đánh giá theo bậc thang qui định; (tốt, khá,
trung bình, xấu).
Thông thường về mặt cấu trúc người ta thường đặt các câu hỏi có tính dữ kiện lên trên để
nhằm xác định đối tượng điều tra thuộc loại nào (thông tin chung). Sau đó là các câu hỏi
nhằm khai thác thông tin phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Về hình thức, bảng câu hỏi phải trình bày sạch, đẹp, rõ ràng, in trên giấy tốt, kích thước
thuận tiện. Đối với câu hỏi mở phải để chỗ trống để người trả lời ghi vào. Kinh nghiệm
thực tế cho thấy trước khi gởi phiếu điều tra đại trà nên làm thử sau đó làm phiếu chính
thức.
- Xử lý số liệu điều tra: kết quả điều tra được xử lý dựa trên thống kê toán.

c. Ưu, nhược điểm của phương pháp câu hỏi:
Ưu điểm của phương pháp này là nhanh nhận được thông tin phản hồi, với phương
pháp này cán bộ điều tra có thể tiến hành được sau khi được huấn luyện trong một thời
gian ngắn.
Nhược điểm của phương pháp này là tính một chiều của mối quan hệ giao lưu giữa
người hỏi và người trả lời. Rất có thể người trả lời không trả lời theo ý của mình mà hỏi ý
kiến người khác hoặc hoàn toàn không muốn trả lời và không gởi phản hồi trả lời, như
vậy, một số lượng nhất định bảng trả lời sẽ bị mất.
5. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
a. Mục đích của phương pháp nghiên cứu tài liệu
Mục đích của phương pháp nghiên cứu tài liệu làm nhằm tìm hiểu vấn đề lịch sử của
vấn đề nghiên cứu, cơ sở lý thuyết của chủ đề nghiên cứu, chủ trương chính sách liên quan
đến đề tài

19


nghiên cứu, kế thừa kết quả nghiên cứu của người đi trước, thu thập các số liệu, phát hiện
ra các vấn đề khoa học cần giải quyết.
b. Nguồn tài liệu cần thu thập
Các tài liệu ở đây được hiểu là toàn bộ từ bản thảo viết tay đến các ấn phẩm, băng từ,
hình ảnh, đĩa CD-ROM.
Tài liệu có thể thu thập từ rất nhiều nguồn:
Tài liệu chỉ đạo ngành và liên ngành.
Báo, tạp chí, các báo cáo trong ngành
Sách chuyên ngành, và liên quan đến đề tài nghiên cứu
Tài liệu không công bố
c. Tóm tắt tài liệu
Đối với những tài liệu quan trọng người nghiên cứu thường sao chụp để nghiên cứu toàn
bộ sau đó tiến hành tóm tắt. Thực chất của tóm tắt tài liệu là ghi lại những thông tin cần

thiết phù hợp với mục đích nghiên cứu.
d. Phân tích, tổng hợp tài liệu
Phân tích tài liệu rất có ý nghĩa khi xây dựng các giả thuyết và kiểm tra các giả thuyết, so
sánh kết quả kiểm tra với các phương pháp khác. Phân tích tư liệu cho phép người nghiên
cứu xem xét các vấn đề nghiên cứu trong quá khứ và hiện tại, theo dõi sự phát triển của
vấn đề nghiên cứu với sự những biến động của nó.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu rất có ích khi cần làm sáng tỏ mức độ cần thiết phải
nghiên cứu các vấn đề khác nhau, tránh sự trùng lặp trong vấn đề nghiên cứu, so sánh đối
chiếu các tác giả khác nhau.

20


Chương 3. CÁC SẢN PHẨM NGHIÊN CỨU KHOA HOC
(bằng văn bản)
Các kết quả nghiên cứu khoa học thể hiện dưới dạng tài liệu khoa học để được công
bố hoặc không công bố. Các dạng tài liệu khoa học thường gặp trong thực tiễn là tóm tắt
khoa học, tổng luận khoa học, nhận xét khoa học, bài báo khoa học, báo cáo khoa học,
luận án, luận văn, sách giáo khoa, giáo trình, tác phẩm khoa học, sách chuyên khảo.
I. TÓM TẮT KHOA HỌC
1. Mục đích
Tóm tắt khoa học nhằm mục đích đúc kết thông tin về nội dung tài liệu gốc một cách
cô động.
Tóm tắt khoa học là công việc thường xuyên của người nghiên cứu, là công viêc
được coi là đơn giản trong quá trình nghiên cứu. Tóm tắt khoa học của một tác giả có thể
là nội dung của một bài báo, môt cuốn sách, một công trình nghiên cứu, một báo cáo khoa
học.
Tóm tắt khoa học giúp người nghiên cứu tạo thói quen tự mình khai thác tài liệu, đúc
kết thông tin một cách ngắn gọn, cô động xúc tích, từ đó làm cơ sở đánh giá độ phù hợp
của tài liệu với đề tài nghiên cứu của mình, cái khó của tóm tắt tài liệu ở chỗ:

+ Phải bảo đảm chuyển tải toàn bộ thông tin cơ bản của nội dung tài liệu gốc đúng
nguyên vẹn giá trị khoa học của nó;
+ Không dừng lại ở mức đợ tóm tắt nợi dung mà cịn phải đánh giá và đưa ra kết luận
cần thiết;
+ Cân văn đơn giản, trong sáng, dễ hiểu.
Một hình thức đặc biệt của tóm tắt khoa học là “tự tóm tắt”. Đây là trường hợp tác
giả tóm tắt công trình nghiên cứu của chính mình (có thể là luận văn, luận án, báo cáo
khoa học, tác phẩm khoa học…) nhằm mục đích trình bày ngắn gọn, mạch lạc, chặt chẽ
kết quả công trình nghiên cứu mà mình thực hiện và nêu bật những đóng góp mới của
mình cho khoa học. Bản tóm tắt này sẽ được gởi đi các nơi để xin ý kiến nhận xét.
2. Cấu trúc một tóm tắt khoa học
Thông thường cấu trúc của một bài tóm tắt khoa học gồm 3 phần:
+ Phần đầu mô tả tên tác giả (cá nhân hoặc tập thể), tác phẩm (bài báo, công trình),
giới thiệu cơ cấu, thời gian hoàn thành.
+ Phần giữa: trình bày cô đọng các thông tin cơ bản của công trình một cách chính
xác, ngắn gọn, đầy đủ, khách quan không xuyên tạc, không bóp méo).
+ Phần cuối: đánh giá về công trình, nhận xét cái mới, đúng sai, phương pháp giải
quyết vấn đề của người viết.
Nếu là tóm tắt của luận án, cấu trúc phải ăn khớp với luận án, đánh giá kết luận phải
giống như nội dung của luận án, nội dung phải tóm tắt theo trình tự sau:
+ Phần mở đầu: tính cấp thiết của đề tài, giá trị khoa học, ý nghĩa lý luận, ý nghĩa
thực tiễn, đối tượng nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu, giả thuyết khoa học, phương pháp
nghiên cứu, cơ cấu của luận án.
+ Phần tóm tắt nội dung luận án: tóm tắt từng phần, từng chương của luận án.
+ Phần kết luận: gút lại các vấn đề quan trọng nhất, ý nghĩa quan trọng nhất của luận
án và nêu các khuyến nghị.

21



II. TỔNG LUẬN KHOA HỌC
1. Mục đích của tổng luận khoa học
Thực chất của tổng luận khoa học là tóm tắt khoa học ở bậc cao hơn, phức tạp hơn.
Tổng luận khoa học bao gồm tổng luận tóm tắt và tổng luận phân tích.
Tổng luận tóm tắt gồm có:
Tóm tắt các tạp chí khoa học, các tuyển tập khoa học
Tóm tắt nhiều tài liệu về một đề tài khoa học
Tóm tắt công việc của các đại hội khoa học, hội nghị khoa học.
Mục đích của người viết tổng luận tóm tắt là hệ thống hóa các thông tin rút ra từ tài liệu
gốc một cách thật cô đọng. Ví dụ: qua bài tổng luận về tạp chí, người đọc có thể biết được
nội dung của một tạp chí hay một số tạp chí trong một khoảng thời gian nào đó (3 tháng, 6
tháng hoặc một năm….)
Mục đích của người viết tổng luận phân tích là mô tả, phân tích, tổng quan nhằm
giới thiệu những công trình khoa học mới được công bố. Kèm theo sự giới thiệu hiện
trạng, hiện trạng, xu thế phát triển của các vấn đề được đề cập, có sự nhận xét, đánh giá
phê bình nội dung tài liệu gớc của người viết. Ngoài ra cịn có phần kết luận và những
khuyến nghị về những vấn đề đó.
2. Cấu trúc của một tổng luận khoa học
Cơ cấu một tổng luận khoa học bao gồm:
+ Phần đầu: nêu những nét chung. Ví dụ: tóm tắt các tạp chí khoa học, các tuyển
tập khoa học thì nêu tên tạp chí hoặc tuyển tập, số trang, nơi xuất bản, bố cục (gồm bao
nhiêu phần, tên các phần), và lý do viết tổng luận.
+ Phần giữa: nêu lên các đặc điểm chung, khuynh hướng chung của các công trình
nghiên cứu cá nhân hay tập thể được in trong tạp chí hoặc tuyển tập, giới thiệu tác giả của
các công trình ấy, giới thiệu các tài liệu mới được sưu tầm, các thí nghiệm mới được thực
hiện nếu có, giới thiệu các phương pháp nghiên cứu, trường phái nghiên cứu, và các thành
tựu nghiên cứu.
Do tổng luận khoa học phải giới thiệu một lúc nhiều kết quả nghiên cứu khoa học
khác nhau nên người viết tổng luận không thể tóm tắt tất cả mà phải biết chọn lựa những
gì đáng chú ý để tóm tắt (có thể là một số bài báo nào đó).

Cùng với việc tóm tắt, người viết phải nêu a nhận xét, nhận định, phê bình đánh giá
mặt mạnh, yếu, đúng sai, cái mới, những đóng góp về lý luận thực tiễn, phương pháp
nghiên cứu và vạch ra hướng nghiên cứu mới theo quan điểm của mình.
+ Phần cuối: kết luận ngắn gọn và đưa ra những ý kiến đánh giá chung nhất. Sau đó
lập danh mục những tài liệu đã sử dụng viết tổng luận, mô tả đầy đủ các yếu tố xuất bản
của tài liệu kể cả thời gian ấn hành, số trang…
Người viết tổng luận cần có kiến thức rộng về những thông tin mới và biết đánh giá
sâu sắt những công trình khoa học mới.
Nếu là tổng luận về một hội nghị khoa học thì nguồn tài liệu được dùng sẽ là tất cả
những gì được nghe, đọc, trao đổi tại hội nghị và những tài liệu được in ra, nội dung tổng
luận này thường đề cập các vấn đề sau:
Đặc điểm chung của hội nghị;
Hội nghị được tổ chức thế nào, cách thức báo cáo, trao đổi, thành phần người tham
dự, thời gian hội nghị, chương trình làm việc, tham quan hực tế…
Những vấn đề được chú ý trao đổi, tranh luận nhiều nhất trong hội nghị;
22


Những báo cáo quan trọng cần được đặc biệt nhấn mạnh và bình luận;
Trong kết luận cần nêu những vấn đề nào được nhiều người nhất trí, những vấn đề
nào còn tồn đọng, cần tranh luận tiếp.
III. NHẬN XÉT KHOA HỌC
1. Mục đích của nhận xét khoa học
Nhận xét khoa học thực chất là một văn bản khoa học nhằm đánh giá một công trình
nghiên cứu nào đó, có thể là sách, bài báo, luận án, luận văn, tiểu luận khoa học. Người
viết nhận xét khoa học thường là người phản biện hoặc được mời viết nhận xét.
2. Cấu trúc của một bản nhận xét khoa học
Cơ cấu bảng nhận xét khoa học gồm có:
+ Phần mô tả mang tính chất thủ tục: tên, kết cấu của công trình, các phần, các chương, số
trang.

+ Phần mô tả nội dung chung, nêu tính chất của vấn đề
+ Phần nhận xét đánh giá ưu, nhược điểm:
* Đề tài nghiên cứu có thiết tực không, lợi ích của đề tài nghiên cứu đối với
khoa học, đối với xã hội; đánh giá ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn, cái mới trong khoa
học, sự gắn bó của đề tài với cuộc sống thực tế.
* Phương pháp nghiên cứu có phù hợp với đề tài không, có sử dụng các
phương pháp hiện đại không? Nếu đề tài sử dụng phương pháp thực nghiệm, thử nghiệm,
thí nghiệm, phương pháp điều tra… Những thực nghiệm đã thực hiện có bảo đảm chất
lượng và số lượng chưa hay cịn q ít?
* Cơ cấu có logic khơng, lập luận trình bày có chặt chẻ không.
* Tài liệu tham khảo nghèo nàn hay phong phú, mới hay cũ, tác giả khai thác
tài liệu ấy như thế nào?
* Đánh giá chung: cơng trình này có ưu và nhược điểm gì? Thành công của
công trình biểu hiện ở chổ nào, mặt nào còn hạn chế?
Khi kết luận, người viết có thể đánh giá mức độ nghiệm thu công trình ở các mức độ
khác nhau:
Công trình có thể nghiệm thu ngay, được áp dụng trong thực tiễn.
Công trình cần chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung từng phần, nhiều phần.
Công trình không đạt yêu cầu, phải làm lại.
Công trình cần tiếp tục phát triễn thêm.
Công trình được cấp bằng sáng chế.
3. Yêu cầu của nhận xét khoa học
Sau khi phân tích đánh giá có phê phán các phần của công trình nghiên cứu, người
viết phải đưa ra được kết luận chuẩn xác về toàn bộ giá trị của công trình, phải biết lý giải
nguyên nhân đưa đến kết luận của mình về mặt hạn chế của công trình. Ví dụ, các nguyên
nhân thường có trong thực tế là:
Do trở ngại khách quan
Do điều kiện nghiên cứu, trang thiết bị nghèo nàn
Hạn chế về tích tính logic.
Ngoài trình độ chuyên môn về lĩnh vực phải nhận xét, đòi hỏi tính cẩn thận, nghiêm

túc khoa học và đạo đức khoa học, sự khách quan vô tư của người viết nhận xét.

23


4. Tác dụng của nhận xét khoa học
Bản nhận xét khoa học phục vụ hai đối tượng khác nhau nên có tác dụng khác nhau.
Đối với người đọc đông đảo giúp họ hiểu thực chất của công trình nghiên cứu khoa
học, giá trị của nó, thành tựu đạt được về mặt khoa học và những thiếu sót còn tồn tại, từ
đó có thái độ đúng đắn với công trình.
Đối với tác giả, sự đánh giá đúng đắn, khách quan sâu sắc, mang tính xây dựng sẽ
có tính thuyết phục cao, giúp tác giả trưởng thành nhanh hơn trong nghiên cứu khoa học.
IV. BÀI BÁO KHOA HỌC
1. Mục đích của bài báo khoa học
Bài báo khoa học được coi là một “tác phẩm khoa học thu nhỏ”, được đăng trên các
báo và tạp chí chuyên môn. Bài báo có thể là một ý tưởng khoa học chưa được chứng
minh, có thể là một vấn đề nghiên cứu nào đó đang trong quá trình trao đổi, tranh luận
hoặc nhằm công bố kết quả nghiên cứu từng phần hoặc từng toàn phần…
2. Yêu cầu đối với bài báo khoa học
Một bài báo hay là một bài báo trong đó những ý kiến của tác giả dựa trên những
(luận cứ) bằng chứng khoa học chắc chắn và được sắp xếp, nối kết nhau (luận chứng) một
cách mạch lạc và hợp lý, trình bày xúc tích cô đọng và tuân thủ những qui định vè khối
lượng (khoảng 1500 – 2000 chữ).
Yêu cầu đối với bài báo khoa học là luôn chứa đựng điều gì đó mới mẻ (về lý luận,
tư liệu, thí nghiệm, phương pháp nghiên cứu), những phát hiện mới (dù lớn hay nhỏ, ít hay
nhiều). Cái mới cần được tranh luận, cần làm sáng tỏ thêm bởi chính tác giả hay những
nhà khoa học khác. Vì vậy, giá trị khoa học của bài báo không phụ thuộc vào mức độ dài,
ngắn của bài báo mà tùy thuộc vào chất lượng, những điều mới mẻ chứa đựng trong đó
nhiều hay ít, lập luận có chắc chắn không? Theo dõi liên tục các bài báo khoa học ta có thể
nắm bắt được chiều hướng phát triển mới của khoa học.

3. Cấu trúc của mọt bài báo khoa học
Cấu trúc một bài báo khoa học thông thường bao bồm:
+Đặt vấn đề: giới thiệu chung về bối cảnh vấn đề.
+Trình bày nội dung nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu.
+Kết luận: đánh giá tổng thể vấn đề
+Khuyến nghị: các đề nghị bổ sung vào lý thuyết, về áp dụng kết quả nghiên cứu, về
hướng tiếp tục nghiên cứu.
V. BÁO CÁO KHOA HỌC
1. Mục đích
Báo cáo khoa học được trình bày trực tiếp tại hội nghị khoa học để công khai trao
đổi, thảo luận, tranh luận. Báo cáo khoa học có thể là báo cáo về nội dung một chuyên đề
nghiên cứu khoa học, báo cáo tổng kết toàn bộ công trình nghiên cứu hoặc báo cáo giữa kỳ
nghiên cứu hoặc từng phần của công trình nghiên cứu.
2. Yêu cầu báo cáo khoa học
Thời gian dành cho một báo cáo khoa học thường được giới hạn trong khoảng 10
đến 15 phút hoặc 20 phút tùy vào hội nghị. Vì vậy, đối với báo cáo các công trình lớn,
người ta chỉ trình bày tóm tắt báo cáo trước hợi nghị (cịn báo cáo đầy đủ sẽ được in trong
kỷ yếu của hội nghị). Đối với bài báo cáo khoa học thông thường người ta qui định số
trang. Vì vậy, nội dung báo cáo phải ngắn gọn, phù hợp với thời gian dành cho báo cáo.

24


Khi tham gia hội nghị khoa học, người báo cáo phải gởi bài báo hoặc tóm tắt bài
báo cho ban tổ chức. Trong quá trình hội nghị diễn ra, tác giả chỉ nêu những ý kiến quan
trọng, cơ bản và dành thời gian cho việc chứng minh những ý kiến đó.
VI. LUẬN VĂN, LUẬN ÁN, TIỂU LUẬN
1. Luận án
Luận án là công trình khoa học do một cá nhân thực hiện để bảo vệ công khai nhằm
mục đích đạt được học vị trên đại học (Thạc sĩ, Tiến sĩ).

2. Luận văn
Luận văn là công trình tập sự nghiên cứu khoa học của sinh viên tốt nghiệp đại học
nhằm giải quyết một vấn đề khoa học nhỏ. Luận văn vừa thể hiện vừa thể hiện những ý
tưởng khoa học,vừa thể hiện kết quả của quá trình tập sự nghiên cứu của sinh viên.
Tác dụng của luận văn tốt nghiệp:
- Sinh viên thể hiện kết quả của một giai đoạn học tập, bảo vệ công trình của mình
trước hội đồng chấm luận văn;
- Giúp hội đồng đánh giá được kiến thức cơ bản của sinh viên;
- Rèn luyện phương pháp và kỹ năng nghiên cứu khoa học.
3. Tiểu luận
Tiểu luận là công trình tập sự nghiên cứu khoa học mang tính học tập kết hợp bước
đầu làm quen với công tác nghiên cứu.
Trong các trường đại học, tiểu luận thông thường là chuyên khảo về một chuyên đề
nào đó thuộc lĩnh vực học tập chuyên ngành, không nhất thiết phải bao quát toàn bộ hệ
thống vấn đề chuyên môn.
VII. SÁCH GIÁO KHOA, GIÁO TRÌNH
1. Sách giáo khoa
Sách gia1o khoa thực chất là một công trình khoa học, trình bày các vấn đề khoa học
thuộc một lĩnh vực khoa học nhất định, dùng để giảng dạy cho học sinh, sinh viên. Đây là
loại hình nghiên cứu khoa học thuộc loại khó khăn và đòi hỏi tính trách nhiệm rất cao. Do
ảnh hưởng của sách giáo khoa lên đối tượng phục vụ của nó là rất lớn nên việc xuất bản
phải tuân thủ chặt chẽ các qui trình của Bộ giáo dục và đào tạo.
Những yêu cầu đối với sách giáo khoa
- Tính hệ thống: sách giáo khoa phải bao quát toàn bộ khối lượng kiến thức cần
thiết truyền thụ cho người học. Những kiến thức cơ bản trình bày có hệ thống, gọn gang,
xúc tích, cô đọng. Trong các phần, chương, mục phải có ví dụ, bài tập, minh họa bằng các
sơ đồ biểu đồ.
- Tính hiện đại: sách giáo khoa phải phản ánh được những thành tựu của khoa học
hiện đại và những phương pháp nghiên cứu mới.
- Tính khoa học: phải bảo đảm tính chính xác, độ tin cậy cao. Bố cục phải chia

thành từng phần, chương, mục rành mạch phù hợp với trình đọ hoc sinh, sinh viên; văn
phong phải sáng sủa, giản dị, dễ hiểu.
- Tính sư phạm: phương pháp trình bày sách giáo khoa bao giờ cũng đi từ đơn giản
đến phức tạp, nhằm hướng dẫn người họ đi từ không biết đến biết các tri thức khoa học.
2. Giáo trình
Giáo trình là cơng trình nghiên cứu khoa học không nhất thiết phải trình bày hết
chương trình của một môn học mà chỉ trình bày một phần nào đó của chương trình (có thể
sâu hơn sách giáo khoa). Giáo trình cũng có những đòi hỏi tương tự như sách giáo khoa
nhưng phạm vi lưu hành có thể hẹp hơn trong từng trường. Ưu thế của giáo trình là dễ cập
25


×