Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

đề cương ôn thi trung cấp chính trị môn những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa mác lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.34 KB, 31 trang )

CÂU HỎI
Câu 1. Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương
pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?
Câu 2. Trình bày nội dung quy luật phủ định của phủ định và ý nghĩa phương
pháp khi nghiên cứu?
Câu 3. Phân tích quy luật giá trị? Vận dụng quy luật giá trị vào quản lý nền
kinh tế nước ta.
Câu 4: phân tích lượng giá trị hàng hóa và những nhân tố ảnh hưởng đến
lượng giá trị hàng hóa. Liên hệ thực tiễn năng suất lao động của nước ta?
Câu 5 : Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam? Những mối quan hệ cần giải quyết trong thực hiện hương hướng
xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay?
Câu 6. Trình bày nội dung sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp cơng
nhân, rút ra ý nghĩa cơ bản trong thời đại ngày nay?
ĐỀ CƯƠNG SOẠN
Câu 1. Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa
phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?
Đặt vấn đề
Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và
lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa
các sự vật, hiện tượng với nhau. Việc nắm vững các nội dung cơ bản quy luật của
phép biện chứng duy vật sẽ cho chúng ta nắm được nguồn gốc, động lực, trạng
thái, cách thức, khuynh hướng, con đường của sự vận động phát triển của sự vật
hiện tượng trong thế giới. Trong đó Quy luật mâu thuẫn (gọi một cách đầy đủ là
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập) chỉ ra nguồn gốc, động lực
của sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng, với ý nghĩa này quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập được coi là “hạt nhân của phép biện chứng”.
NỘI DUNG
Muốn hiểu rõ nội dung quy luật trước hết ta phải biết khái niệm mâu thuẫn là
gì? Mâu thuẫn là phạm trù dùng để chỉ các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu



tranh xâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau tạo nên sự vận động, phát triển của sự vật
hiện tượng.
Quy luật mâu thuẫn được khái quát như sau: Mọi sự vật và hiện tượng đều
chứa đựng các mặt đối lập cấu thành những mâu thuẫn nội tại; sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Hiểu quy luật trên những nội dung sau:
- Thứ nhất, mọi sự vật, hiện tượng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập.
+ Thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ, quy định, nương tựa vào
nhau, địi hỏi có nhau của các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật, hiện
tượng. Ví dụ : Hít vào và thở ra trong một q trình hơ hấp.
+ Biểu hiện:
* Thống nhất của các mặt đối lập là trạng thái đặc biệt của mâu thuẫn. Nghĩa
là: Trong mâu thuẫn, các mặt đối lập có sự đồng nhất, sự phù hợp với nhau (phù
hợp từng phần), sự tác động ngang nhau; tạo nên một chỉnh thể thống nhất và duy
nhất của sự vật, hiện tượng. Khơng có sự thống nhất của các mặt đối lập thì khơng
có sự tồn tại của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong
xã hội tư bản chủ nghĩa.
* Thống nhất của các mặt đối lập chỉ mang tính tương đối, tạm thời, thống
qua, có điều kiện. Nghĩa là: Sự thống nhất của các mặt đối lập diễn ra trong giới
hạn của độ, khi mâu thuẫn còn đang triển khai, phát triển và chưa được giải quyết
(sự vật còn là nó). Chỉ đến khi mâu thuẫn được giải quyết, sự thống nhất hiện tại bị
phá vỡ, sự thống nhất mới ra đời với các mặt đối lập mới của nó. Cứ như vậy, sự
tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng chính là đi từ sự thống nhất này đến
sự thống nhất khác cao hơn của các mặt đối lập.
* Trong sự thống nhất, các mặt đối lập luôn quy định, nương tựa và xâm
nhập lẫn nhau, địi hỏi có nhau. Nghĩa là: Trong sự thống nhất, mặt đối lập này lấy
mặt đối lập kia làm điều kiện, tiền đề để tồn tại; khơng có mặt đối lập này thì



khơng có mặt đối lập kia và ngược lại. Đồng thời, do các mặt đối lập ln có
khuynh hướng trái ngược nhau, nên ln xâm nhập vào nhau.
Ví dụ: Giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột trong xã hội có giai cấp. Một
mặt, giai cấp bóc lột khơng thể tồn tại nếu khơng có giai cấp bị bóc lột. Một mặt,
do khơng có tư liệu sản xuất, nên để tồn tại, giai cấp bị bóc lột buộc phải làm thuê
cho giai cấp bóc lột để kiếm sống. Như vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập
chính là sự cùng tồn tại của các yếu tố, các thuộc tính...của sự vật, hiện tượng trong
cùng một bản chất xác định. Cũng do sự cùng tồn tại ấy, các mặt đối lập luôn diễn
ra sự đấu tranh với nhau.
- Thứ hai, quá trình vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng đều
bắt nguồn từ sự đấu tranh của các mặt đối lập.
+ Đấu tranh của các mặt đối lập là quá trình tác động qua lại theo xu hướng
bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong một sự vật, hiện tượng. Ví
dụ: Đấu tranh của tư tưởng tích cực với tư tưởng tiêu cực trong một tập thể quân
nhân.
+ Biểu hiện:
* Đấu tranh của các mặt đối lập tạo nên sự vận động và chuyển hóa khơng
ngừng của các mặt đối lập. Nghĩa là: Trong quá trình đấu tranh, các mặt đối lập
thường xuyên tác động, xâm nhập vào nhau, bài trừ, phủ định lẫn nhau dẫn đến
sự chuyển hóa. Cứ các mặt đối lập này mất đi, các mặt đối lập mới lại ra đời, lại có
sự đấu tranh mới và sự chuyển hóa mới của các mặt đối lập. Cứ như vậy, quá trình
này diễn ra và lặp đi lặp lại cùng với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Trong những năm đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân
tộc ta. (Một bên là dân tộc ta >< một bên là thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Sau 40
năm trường kỳ kháng chiến, dân tộc ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, cả nước đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta


hiện nay, mặt đối lập giữa yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng
cao với điều kiện, khả năng hiện có của nước ta lại nảy sinh, địi hỏi tồn Đảng,

tồn qn, tồn dân ta tiếp tục phải giải quyết.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập có thể diễn ra theo 2 dạng:
Dạng thứ nhất: Giữa các mặt đối lập có sự chuyển hóa lẫn nhau. Tức mặt
đối lập này có thể chuyển hóa thành mặt đối lập khác và ngược lại. Ví dụ: Đấu
tranh tư tưởng của đại tướng Võ Nguyên Giáp trong quá trình đưa ra quyết định
chuyển hướng chiến lược từ “Đánh nhanh thắng nhanh” sang “Đánh chắc tiến
chắc”.
Dạng thứ hai: Cả 2 mặt đối lập đều chuyển hóa thành cái khác. Ví dụ: Q
trình đấu tranh giữa giai cấp nơ lệ chống giai cấp chủ nô dẫn đến cả 2 giai cấp này
đã chuyển hóa lên thành 2 giai cấp khác trong xã hội phong kiến: Giai cấp nông
dân và giai cấp địa chủ, phong kiến.
* Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Nghĩa là: Đấu tranh của các
mặt đối lập diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại, phát triển
của sự vật, hiện tượng kể cả khi sự chuyển hóa đang diễn ra; không ở đâu và
không lúc nào các mặt đối lập ngừng đấu tranh. Ví dụ: Trong xã hội có đối kháng
giai cấp. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp bị thống trị, bị bóc lột với giai cấp thống trị,
bóc lột chỉ kết thúc khi xã hội khơng cịn đối kháng giai cấp.
* Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực giải quyết mâu thuẫn
làm cho mọi sự vật, hiện tượng vận động và phát triển khơng ngừng. Nghĩa là:
Trong q trình đấu tranh, các mặt đối lập đều có sự biến đổi dần về lượng, đến
một mức độ nhất định tạo ra sự chuyển hóa của các mặt đối lập đó, làm cho sự
thống nhất của các mặt đối lập ở mâu thuẫn cũ bị phá vỡ, sự thống nhất của các
mặt đối lập ở mâu thuẫn mới ra đời. Mà sự thống nhất của các mặt đối lập ở mâu
thuẫn mới ra đời chính là biểu hiện sự vật, hiện tượng đã chuyển hóa thành cái


khác. Do đó, đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực sự vận động,
phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Ví dụ: Mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản với giai cấp tư sản đã và đang được giải quyết thông qua cuộc cách mạng vô
sản, làm cho xã hội cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa)

đã ra đời và đang dần thay thế xã hội cũ - xã hội tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, đấu tranh của các mặt đối lập là quá trình diễn ra thường xuyên,
liên tục, là tuyệt đối, là phương thức giải quyết mâu thuẫn và khi mâu thuẫn được
giải quyết thì sự vật, hiện tượng vận động, phát triển. Tuy nhiên, q trình giải
quyết mâu thuẫn vơ cùng khó khăn, phức tạp.
- Thứ ba, mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
+ Thống nhất là điều kiện, địa bàn cho đấu tranh, bao hàm đấu tranh và
khơng có thống nhất thuần t tách rời đấu tranh. Nghĩa là: Đấu tranh của các mặt
đối lập chỉ có thể diễn ra trong sự thống thống nhất. Khơng có sự thống nhất thì
khơng có q trình đấu tranh của các mặt đối lập. Thực chất nói đến sự thống nhất
của các mặt đối lập là đã nói đến sự đấu tranh của chính các mặt đối lập đó trong
một mâu thuẫn nhất định.
+ Đấu tranh làm phá vỡ sự thống nhất cũ, thiết lập sự thống nhất mới cao
hơn, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới, khơng có sự đấu tranh chung chung
tách rời thống nhất. Nghĩa là: Để có sự thống nhất của các mặt đối lập phù hợp với
hiện thực khách quan phải có quá trình đấu tranh làm cho sự thống nhất cũ của các
mặt đối lập cũ khơng cịn phù hợp mất đi, tạo điều kiện cho sự thống nhất mới ra
đời. Ví dụ: Từ những năm 1930 Đảng ta đã chỉ rõ, hiện tại nước ta đang tồn tại hai
mâu thuẫn cơ bản (nói cách khác, hai sự thống nhất của các mặt đối lập cơ bản):
Một là giữa nhân dân ta và đế quốc Pháp; hai là giữa nông dân và địa chủ phong
kiến. Sự cùng tồn tại của các mặt đối lập đó chỉ bị phá vỡ khi dân tộc ta tiến hành
đấu tranh cách mạng. Với thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945 và đỉnh cao
là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, hai sự thống đó mới bị phã vỡ.


Tóm lại: Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng được tạo bởi các mặt đối lập, cứ
hai mặt đối lập thống nhất biện chứng với nhau trong một bản chất xác định tạo
thành một mâu thuẫn biện chứng. Quá trình đấu tranh của các mặt đối lập làm cho
sự thống nhất cũ mất đi, sự thống nhất mới xuất hiện, mâu thuẫn cũ mất đi, mâu
thuẫn mới ra đời, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Nói cách khác, sự thống nhất

và đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực sự vận động và phát triển
của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới.
Ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực
của sự vận động, phát triển, do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng
mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản
chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển. Lênin cho rằng: “Sự
phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó... đó là
thực chất... của phép biện chứng”.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và
giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể tức là biết phân tích cụ
thể từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt
động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu
thuẫn trong từng hồn cảnh, điều kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn
đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
2. Trình bày nội dung quy luật phủ định của phủ định và ý nghĩa
phương pháp khi nghiên cứu?
MỞ BÀI:
Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và
lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa
các sự vật, hiện tượng với nhau. Việc nắm vững các nội dung cơ bản quy luật của
phép biện chứng duy vật sẽ cho chúng ta nắm được nguồn gốc, động lực, trạng
thái, cách thức, khuynh hướng, con đường của sự vận động phát triển của sự vật


hiện tượng trong thế giới. Trong đó Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra con
đường, khuynh hướng của sự vận động, phát triển của sự vật.
NỘI DUNG:
Muốn hiểu rõ nội dung quy luật phủ định của phủ định ta phải nắm rõ các
khái niệm sau:

- Khái nhiệm phủ định: Sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất
đi, được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng
hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật trong q trình vận động phát triển của
nó. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định.
- Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, dẫn
đến cái mới ra đời tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn, cao hơn cái cũ.
Nội dung quy luật này được khái quát như sau: Khuynh hướng chung của
mọi sự vật, hiện tượng là phát triển tiến lên theo chu kỳ phủ định biện chứng; con
đường tiến lên trong sự phát triển là quanh co, phức tạp, theo đường “xoáy ốc”, cái
mới ra đời là cái tất thắng. Hiểu quy luật như sau:
- Một là, quá trình phát triển của mọi sự vật, hiện tượng luôn diễn ra theo
chu kỳ từ khẳng định đến phủ định và từ phủ định đến phủ định cái phủ định.
+ Khái niệm chu kỳ của sự phát triển: Chu kỳ của sự phát triển là sự lặp đi
lặp lại một cách tương đối của các mặt, các yếu tố, các thuộc tính trong quá trình
phát triển của một sự vật, hiện tượng nào đó. Ví dụ: Chu kỳ phát triển của xã hội
lồi người qua các thời kỳ lịch sử. Sự lặp đi lặp lại các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã
hội...
+ Mỗi chu kỳ của quá trình phát triển bao gồm 2 lần phủ định cơ bản và
những lần phủ định không cơ bản.
* Phủ định cơ bản lần thứ nhất (phủ định cái khẳng định): Nghĩa là: Khi kết
thúc phủ định cơ bản lần 1, các mặt, các yếu tố của sự vật, hiện tượng ban đầu
được biến đổi thành các mặt, các yếu tố đối lập với nó. (Giai đoạn này còn gọi là
khâu trung gian trong sự phát triển).
* Phủ định cơ bản lần thứ hai (phủ định cái phủ định): Nghĩa là: Sau khi kết
thúc phủ định cơ bản lần 1, sự vật, hiện tượng tiếp tục vận động, phủ định cơ bản


lần 2 diễn ra. Khi kết thúc phủ định cơ bản lần 2, các mặt, các yếu tố mới đối lập
với khâu trung gian và trở thành các mặt, các yếu tố giống như (lặp lại) các yếu tố,
các mặt của sự vật cũ ban đầu (cái khẳng định), nhưng cao hơn, tiến bộ hơn

* Phủ định không cơ bản: Số lần phủ định không cơ bản trong một chu kỳ
có thể nhiều, ít khác nhau tuỳ thuộc tính chất, kết cấu của mỗi sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Như vậy, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường trải qua hai lần phủ định
cơ bản với ba hình thái tồn tại cơ bản của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ
lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở
cao hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ
được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định.
+ Các chu kỳ phủ định biện chứng: Nghĩa là: Quá trình phát triển của 1 sự
vật, hiện tượng không phải chỉ có 1chu kỳ, mà có vơ số các chu kỳ phủ định biện
chứng, mỗi chu kỳ đó tạo thành một vịng khâu của sự phát triển. Nên q trình
phát triển của mọi sự vật, hiện tượng là chuỗi những vòng khâu liên tiếp. Ví dụ:
Q trình phát triển của học viên trong khóa học
- Hai là, Con đường tiến lên trong quá trình phát triển là quanh co, phức tạp
theo hình xốy ốc và cái mới là cái tất thắng.
+ Vì sao con đường phát triển diễn ra quanh co, phức tạp theo hình xốy ốc?
Vì nguồn gốc, động lực của sự phát triển là quá trình đấu tranh giữa các mặt đối
lập, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa cái mới và cái cũ. Trong khi đó, cái mới ra
đời còn non yếu, vừa phải chiến thắng cái cũ, vừa phải tự thích nghi với điều kiện
mới để tồn tại và phát triển; cái cũ vẫn còn khả năng tồn tại, cịn có những mặt,
những yếu tố gây cản trở sự ra đời và phát triển của cái mới. Vì sự vật, hiện tượng
thường có tính chất và kết cấu phức tạp. Nên, sự phát triển không thể diễn ra theo
một đường thẳng mà bao giờ cũng quanh co, phức tạp theo đường “xốy ốc”. Ví
dụ: Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã
hội. Từ năm 1991, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước


Đông âu đã làm cho chủ nghĩa xã hội không còn là một hệ thống.
Khuynh hướng phát triển theo đường xốy ốc thể hiện tính chất biện chứng
của sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vịng mới của

đường xốy ốc phản ánh q trình phát triển vơ tận từ thấp đến cao của sự vật, hiện
tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, phủ định biện chứng đã
đóng vai trị là những “vịng khâu” của q trình đó.
+ sự vận động phát triển của sự vật được đánh dấu bằng sự ra đời cái
mới.Cái mới là những mặt, những yếu tố, những nhân tố và sự vật, hiện tượng mới
hợp quy luật, phù hợp điều kiện mới và được ra đời từ trong lịng cái cũ.Ví dụ: Sự
ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng (thế kỷ XIX) trong lịch sử
triết học nhân loại.
* Cái mới ra đời là cái tất thắng, vì: Cái mới được hình thành trong lịng cái
cũ, được tích lũy, kế thừa những tinh hoa, những yếu tố tích cực trong lòng cái cũ.
Cái mới ra đời là cái hợp quy luật, là cái tiến bộ hơn cái cũ đã lạc hậu. Ví dụ: Sự ra
đời và phát triển của phép biện chứng duy vật trong lịch sử phát triển của triết học
nhân loại.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép
biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái
khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng là điều kiện
cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực
từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát
triển. Nhận xét về vai trò của quy luật này, Ăngghen đã viết: “phủ định cái phủ
định là gì? Là một quy luật vơ cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan
trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và
của tư duy”.
Ý nghĩa phương pháp luận
Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách
đúng đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Q trình đó
khơng diễn ra theo đường thẳng mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều


giai đoạn, nhiều q trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá
trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến

lên theo quy luật. Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất các mối liên hệ của sự
vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triển, phù hợp với yêu cầu hoạt động nhận
thức của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động
của chúng ta và thực tiễn. Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển
tiến lên, đó là biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng
trong mọi hoạt động của chúng ta.
Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất
yếu phải ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời và phát triển theo
quy luật khách quan. Trong đời sống xã hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có
mục đích, có ý thức tự giác và sáng tạo của con người. Vì vậy, chúng ta cần phải
nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào
sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó,
cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái
mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định.
Phải có quan điểm biện chứng trong q trình kế thừa sự phát triển. Quan
điểm đó địi hỏi phải khắc phục tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh trong khi kế
thừa cái cũ để phát triển cái mới. Do đó, khơng được phủ định hồn tồn cái cũ,
cũng như khơng được kế thừa tồn bộ cái cũ, mà phải kế thừa những yếu tố hợp lý,
hạt nhân hợp lý của cái cũ cho sự phát triển của cái mới. Đó là quan điểm kế thừa
biện chứng, trên tinh thần khoa học, cho mọi quá trình phát triển, nhất là trong thời
đại hội nhập của dân tộc với nhân loại ngày nay.
Câu 3. Phân tích quy luật giá trị? Vận dụng quy luật giá trị vào quản lý
nền kinh tế nước ta.
Mở bài:
Để vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đi vào nghiên
cứu nhân tố hàng hóa, vì trong hàng hóa đã chứa đựng mọi mầm mống, mâu thuẫn


của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở tìm ra thực thể giá trị hàng
hóa, C.Mác đã chỉ rõ bản chất của giá trị, giá trị thặng dư và phát hiện ra các quy

luật kinh tế của sản xuất hàng hóa tong đó có quy luật giá trị
Nội dung:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, là cơ sở
của hệ thống các quy luật trong nền sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và lưu
thơng hàng hố ở đó có quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng.
Vì sao quy luật giá trị là quy luật cơ bản nhất của sản xuất hàng hóa? Vì nó
quy định bản chất của một kiểu tổ chức kinh tế trong lịch sử đó là kinh tế hàng hóa
(khác hẳn về chất so với kinh tế tự cấp, tự túc và kinh tế kế hoạch hóa tập trung).
Và quy luật giá trị là cơ sở của tất cả các quy luật khác trong nền sản xuất hàng
hóa.
- Nội dung quy luật như sau: Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên
cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Thứ nhất, trong sản xuất: Phải làm cho hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn
hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
Vậy tại sao phải làm cho hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao
động xã hội cần thiết? Hao phí lao động cá biệt phải ngang bằng hoặc thấp hơn
hao phí lao động xã hội để bù đắp chi phí và có lãi.
VD: 3 người cùng sản xuất vải, để sản xuất 1 m vải:
A chi phí hết 50.000đ;
B chi phí hết 45.000đ;
C chi phí hết 40.000đ.
Ở đây hao phí lao động cá biệt của từng người khác nhau (giá trị cá biệt)
nhưng khi trao đổi trên thị trường lại phải trao đổi theo hao phí lao động xã hội cần
thiết (giả sử là 45.000đ). Như vậy, A sẽ lỗ vốn, B hồ vốn, C có lãi => muốn tồn tại
và phát triển người sản xuất phải tìm mọi cách hạ thấp giá trị cá biệt.


+ Thứ hai, trong trao đổi: Phải theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là giá cả bằng
giá trị. Quy luật giá trị hoạt động thông qua sự lên – xuống của giá cả thị trường.
- Về tác động của quy luật giá trị:

+ Trước hết, tự phát điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hố
Việc điều tiết sản xuất: Góp phần mở rộng hay thu hẹp quy mơ sản xuất
một ngành nào đó. Cụ thể: Trên thị trường khi cung lớn hơn cầu (sản phẩm vượt
quá nhu cầu xã hội) dẫn tới giá cả có xu hướng giảm và thấp hơn giá trị (H khó
bán, có thể lỗ vốn) vì thế có thể thu hẹp sản xuất hoặc chuyển sang ngành khác,
TLSX và SLĐ giảm đi ở ngành này và tăng ở ngành khác mà họ thấy có lợi hơn.
Khi cung nhỏ hon cầu (sản phẩm không đủ để thỏa mãn nhu cầu xã hội) thì
giá cả có xu hướng tăng lớn hơn giá trị (H bán chạy, lãi cao) dẫn tới người sản xuất
mở rộng quy mô sản xuất, những người sản xuất trước đây sản xuất hàng hóa khác
nay chuyển sang sản xuất hàng hóa này; TLSX và SLĐ được chuyển vào ngành
này nhiều hơn ngành khác.
Biểu hiện: Xảy ra tình trạng người sản xuất bỏ nghành này, đổ xô vào
ngành khác; quy mô ngành này được thu hẹp, trong khi ngành khác lại được mở
rộng; làm cho TLSX và SLĐ được phân bố lại giữa các ngành. Ví dụ: Năm 2011
giá cà phê tăng cao, nơng dân khu vực Tây Nguyên chặt các loại cây khác để
chồng cà phê. Quy mô ngành cà phê tăng lên. Năm 2015 giá cà phê xuống thấp,
giá tiêu cao, lại có xu hướng chặt cây cà phê để trồng tiêu. Quy mô ngành tiêu
tăng, ngành cà phê giảm. Hay từ cuối năm 2018 giữa năm 2019 giá heo hơi giảm
nên người dân trong khu vực chuyển từ các trang trại chăn nuôi heo sang nuôi gà
làm cho quy mô ngành chăn nuôi heo(cung về nguồn heo) giảm, gà tăng….
Việc điều tiết lưu thông: Sự biến động của giá cả thị trường thu hút luồng
hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến
nơi cung nhỏ hơn cầu. Ví dụ: Gạo tẻ thường bán tại Tiền Giang là 11.500 đ/1kg,


trong khi giá bán tại Tp. Hồ Chí Minh là 14.000 đ/1kg. Như vậy, có xu hướng vận
chuyển gạo từ Tiền Giang về Tp. Hồ Chí Minh để bán. .
Mặt tích cực: Góp phần giảm chi phí SX, giảm giá thành hàng hóa, mang
lại lợi ích KT – XH to lớn, giúp cho sản xuất và lưu thông được điều tiết linh hoạt
theo cơ chế thị trường, phân phối hàng hóa đầy đủ cho người tiêu dùng.

Mặt hạn chế: Dễ mất cân đối cơ cấu kinh tế, người sản xuất chỉ lo chạy
theo lợi nhuận mà bỏ quyên các lĩnh vực có lợi cho xã hội.
Do đó, trong quản lý nền kinh tế hàng hố cần chú ý giảm tính tự phát, tránh
lãng phí và mất ổn định trong nền kinh tế bằng các chính sách vĩ mơ, quy hoạch
dài hạn cụ thể, hợp lý.
+ Thứ hai là kích thích cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản
xuất làm tăng năng suất lao động.
Trong sản xuất hàng hố, hao phí cá biệt của mỗi người sản xuất khác nhau
nhưng lại phải trao đổi theo hao phí lao động XH cần thiết. Muốn đứng vững trên
thị trường và khơng bị phá sản, người sản xuất phải tìm mọi cách giảm hao phí cá
biệt của mình xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động XH cần thiết.
Vậy giảm hao phí cá biệt bằng cách nào? Bằng cách cải tiến kỹ thuật, đổi
mới cơng nghệ, hợp lý hố sản xuất để tăng năng suất lao động. Và việc cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá sản xuất được thực hiện ở từng người mở rộng ra từng ngành, các
ngành, tồn xã hội.
Mặt tích cực: Thúc đẩy LLSX xã hội phát triển khơng ngừng, thúc đẩy q
trình xã hội hóa sản xuất.
Mặt hạn chế: Nếu doanh nghiệp không chủ động trong cải tiến kỹ thuật,
người lao động không nâng cao trình độ… thì dẫn tới phá sản, thất nghiệp…
Nếu người sản xuất chỉ quan tâm đến lợi nhuận, sẽ dẫn đến khơng quan tâm
đến lợi ích xã hội (như bảo vệ môi trường, bền vững…), ứng dụng, nhập khẩu các
dây truyền công nghệ lạc hậu, thải loại của các nước tiên tiến... (Nguy cơ Việt Nam


trở thành bãi thải cơng nghệ của thế giới). Ví dụ: Công ty TNHH Vedan Việt Nam
xả thải trái phép ra sông Thị Vải gây ô nhiễm cho các tỉnh Đồng Nai, Tp Hồ Chí
Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu. Formosa Hà Tĩnh xả thải trái phép gây ô nhiễm biển
miền Trung…
+ Thứ ba, phân hoá giàu – nghèo giữa những người sản xuất, làm tự phát
nảy sinh quan hệ sản xuất TBCN.

Biểu hiện: Người sản xuất nào có các điều kiện sản xuất tốt, hàng hóa có
giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội thì có lãi, thành người giàu, có thể mua thêm
TLSX, mở rộng sản xuất kinh doanh, thuê lao động và trở thành ông chủ (bóc lột
lao động làm thuê).
Ngược lại, người sản xuất nào có các điều kiện sản xuất khơng thuận lợi,
hàng hóa có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội thì thua lỗ, thậm chí phá sản, buộc
phải bán sức lao động để kiếm sống (bị bóc lột).
Mặt tích cực: Lựa chọn được người tài, có tư duy nhạy bén trong sản xuất
kinh doanh, thải loại những người yếu kém.
Mặt tiêu cực: Quá trình vận động sản xuất hàng hoá dưới tác động của quy
luật giá trị làm phân hóa giàu nghèo, tự phát tạo ra mầm mống làm nảy sinh QHSX
tư bản chủ nghĩa.
Để khắc phục mặt tiêu cực trên: Một mặt nhà nước khuyến khích người
dân sản xuất kinh doanh làm giàu chính đáng, mặt khác phải có cơ chế chính sách
điều hịa thu nhập, giảm phân hóa giàu nghèo (thuế, các chính sách, chương trình
hỗ trợ người nghèo, khu vực khó khăn về kinh tế…). Ví dụ: Thuế thu nhập cá nhân
(điều tiết thu nhập), Chương trình 135 (Chương trình phát triển kinh tế xã hội các
xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi)…
Như vậy, nghiên cứu về quy luật giá trị, chúng ta thấy rằng: Đảng và Nhà
nước xác định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là
hoàn toàn đúng đắn, vừa tận dụng mặt tích cực của kinh tế thị trường trong xây


dựng kinh tế, phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, vừa hạn chế những
mặt trái của KTTT, từ đó giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.
Liên hệ: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời đảm bảo tính định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của

nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nền kinh tế thị trường là sự phát triển cao dự trên cơ sở của nền sản xuất
hàng hóa. Chúng ta xây dựng và phát triển nền kinh tế dựa theo mơ hình vửa phát
triển kinh tế thị trường, thừa nhận cơ chế thị trường vừa kết hợp kinh tế thị trường
với định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta đầy đủ mọi điều kiện để thực
hiện điều đó, đặc biệt là việc phát triển nền sản xuất hàng hóa.
Trong nền kinh tế nước ta, sự phân cơng lao động xã hội phát triển cả chiều
rộng và chiều sâu. Nhiều ngành nghề đa dạng, phong phú và ngày càng phát triển,
theo sự phát triển của khoa học, công nghệ. Bên cạnh đó, Đảng ta chủ trương thừa
nhận đa dạng các hình thức sở hữu (sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, sở hữu hỗn hợp) là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển của sản xuất hàng hóa.
Nhìn chung sau đại hội Đảng VI, giai đoạn sau đổi mới những cải cách của
Chính phủ đã tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta phát triển đúng hướng, nền
kinh tế đã có những chuyển biến hết sức tích cực, mà cơ bản nhất đó chính là đã
bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Phát triển chủ trương đổi mới kinh tế của
đại hội Đảng VI, các kì đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VII, VIII, IX đã tiếp tục
công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước với quan điểm tiếp tục xây dựng một nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN


có sự quản lí của Nhà nước, từng bước đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu
vực và thế giới. Đến nay, nền kinh tế của Việt Nam đã và đang trở thành một trong
những nền kinh tế mạnh trong khu vực Đơng Nam á, hịa nhịp cùng sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế, các quy luật kinh tế riêng của nền kinh tế thị trường cũng
đã và đang phát huy các tác động tích cực của mình trong vai trị cùng với Nhà
nước điều tiết nền kinh tế. Riêng trong lĩnh vực quản lí giá cả chúng ta đã vận dụng
tổng hợp nhiều quy luật, trong đó quy luật giá trị đóng vai trị trung tâm có tác
động trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá trị, đồng thời phải phù hợp với sức mua

của đồng tiền và tính tới quan hệ cung cầu.
Kết luận:
Cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá, các quy luật kinh tế
của kinh tế hàng hố cũng hoạt động khách quan, tác động khơng ngừng đến mọi
mặt của đời sống xã hội. Nghiên cứu kinh tế hàng hoá cần thấy rõ các yếu tố và vai
trị của sản xuất hàng hố trong lịch sử nhân loại, phát huy ưu điểm, hạn chế những
tiêu cực, góp phần phát triển kinh tế hàng hố nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam
hiện nay.
Câu 4: phân tích lượng giá trị hàng hóa và những nhân tố ảnh hưởng
đến lượng giá trị hàng hóa. Liên hệ thực tiễn năng suất lao động của nước ta?
Mở bài:
Để vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đi vào nghiên
cứu nhân tố hàng hóa, vì trong hàng hóa đã chứa đựng mọi mầm mống, mâu thuẫn
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong hàng hóa thì có lượng giá trị
hàng hóa. Vậy lượng giá trị hàng hóa là gì? Và những nhân tố nào ảnh hưởng đến
lượng giá trị hàng hóa?
Nội dung


Trước khi tìm hiểu lượng giá trị hàng hóa trước hết chúng ta phải hiểu như
thế nào là hàng hóa? Hàng hố là sản phẩm của lao động, có khả năng thoả mãn
nhu cầu nào đó của con người thơng qua trao đổi, mua bán trên thị trường.
- Lượng giá trị hàng hóa: Là lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng
hóa, được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất ra một loại hàng hóa nhưng
điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó, thời
gian lao động để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa của họ khơng bằng nhau, tức là
hao phí lao động cá biệt khác nhau.
Ví dụ: Có 3 nhà sản xuất vải A, B, C; để sản xuất ra 1 m vải

A mất 2 giờ; B mất 3 giờ; C mất 4 giờ
Thời gian cụ thể của từng nhà sản xuất được gọi là thời gian hao phí lao
động cá biệt.
Nhưng khi đem trao đổi trên thị trường thì khơng căn cứ vào thời gian hao
phí lao động cá biệt mà phải căn cứ vào thời gian mà xã hội chấp nhận được,
C.Mác gọi là thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết: Là thời gian lao động cần thiết để sản
xuất ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã
hội, với một trình độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình trong
xã hội đó.
Thơng thường, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá
gần sát với thời gian lao động cá biệt của người sản xuất đại bộ phận một loại hàng
hố nào đó trên thị trường.
Ví dụ: Có 3 nhà sản xuất A, B, C với thị phần
A: Cung cấp 80% ; B: Cung cấp 15%; C: Cung cấp 5%
Như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra 1 m vải sẽ xấp sỉ
bằng với thời gian lao động cá biệt của A (2 giờ/1 m vải).


- Những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hố, đó là:
+ Thứ nhất là năng suất lao động: Là năng lực sản xuất của người lao động,
được đo bằng số lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian hay lượng thời
gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Ví dụ: Năng suất lao động của A (sản xuất nón) là 6 cái nón/1 giờ; hay năng
suất lao động của B (sản xuất bút bi) là 5 phút được 1 cái bút.
Vậy năng suất lao động ảnh hưởng đến lượng giá trị như thế nào?
Khi Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với lượng giá trị hàng hoá.
Tăng năng suất thể hiện ở việc tăng số lượng sản phẩm trong cùng một
khoảng thời gian, do đó, năng suất lao động tăng thì thời gian cần thiết cho một sản
phẩm giảm xuống, hay lượng giá trị giảm xuống.

Ví dụ: Trước đây, người công nhân trong 60 phút SX 20 cái bút (3p/1c).
Khi tăng NSLĐ, 60 phút SX được 30 cái (2p/1c), LGT giảm từ 3p, xuống 2p.
Tăng năng suất lao động thì tổng giá trị hàng hóa khơng đổi. Trong ví dụ
trên, tổng giá trị hàng hóa vẫn là 60 phút.
+ Thứ hai, tính chất của lao động. Tính chất của lao động tức là mức độ
phức tạp hay giản đơn của lao động.
Lao động giản đơn: Là lao động mà bất cứ người nào có khả năng lao động
bình thường đều làm được, không cần phải qua đào tạo. Phải là người có sức khỏe,
đủ trí lực, thể lực để lao động. Ví dụ: Cơng nhân lao động giản đơn trong nhà máy,
dây truyền chuyển hàng đến, nhấc hàng cho vào hộp... không cần phải đào tạo.
Tùy vào từng thời điểm, thời kỳ lịch sử cụ thể, tùy vào điều kiện của mỗi
quốc gia sẽ quy định tiêu chí về lao động giản đơn là khác nhau.
Mác: Lao động giản đơn không đồng nhất với lao động của người nông dân.
Lao động phức tạp: Là lao động đã được qua đào tạo chun mơn. Ví dụ:
Bác sỹ, kỹ sư, sĩ quan... như vậy, trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức


tạp sẽ tạo ra khối lượng hàng hóa nhiều hơn, lượng giá trị hàng hóa lớn hơn lao
động giản đơn. Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn.
Liên hệ:
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh về giá cả là quan trọng nhất. Để
cạnh tranh về giá cả với nhà sản xuất khác thì phải tăng năng suất lao động cá biệt
vì nó làm giảm lượng giá trị cá biệt của một đơn vị hàng hoá xuống thấp hơn lượng
giá trị xã hội của nó, từ đó giá cả bán hàng hóa có thể rẻ hơn của người khác mà
vẫn thu lợi nhuận ngang, thậm chí cao hơn.
Vì vậy, trong nền kinh nền kinh tế nước ta hiện nay, xét về mặt vỹ mơ, muốn
có nền kinh tế tăng trưởng phải quan tâm đến việc cải thiện năng suất lao động xã
hội. Để có thể cải thiện được NSLĐ cần chú ý sự tác động của trình độ của người
lao động; trình độ phát triển của khoa học công nghệ, mức độ ứng dụng những
thành tựu đó vào sản xuất; trình độ quản lý sản xuất; quy mô và hiệu quả của tư

liệu sản xuất đồng thời gắn với các điều kiện tự nhiên khai thác và sử dụng.
Chính vì thế, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến giáo dục và
đào tạo, coi giáo dục – đào tạo quốc sách hàng đầu, mục tiêu đào tạo đội ngũ lao
động có tay nghề đồng thời đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, quản lý sản
xuất có đủ trình độ; bên cạnh đó, đầu tư nghiên cứu, phát triển nâng cao trình độ
khoa học công nghệ, tranh thủ ứng dụng những thành tựu từ cuộc cách mang công
nghiệp 4.0 vào trong mọi lĩnh vực, đặc biệt trong sản xuất.
Kết luận:
Nghiên cứu lượng giá trị hàng hoá và các yếu tố và vai trị ảnh hưởng đến lượng
giá trị hàng hóa, nghiên cứu nội dung này sẽ cho chúng ta những nhận thức đầy đủ
của giá trị hàng hóa .
Câu 5 : Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam? Những mối quan hệ cần giải quyết trong thực hiện hương
hướng xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay?


Mở bài:
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan;
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là duy
nhất đúng. Vậy cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam là gì?
Nội dung:
Trước hết phải khẳng định: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
quá độ bỏ qua chế độ TBCN tiến thẳng lên CNXH (bỏ qua CNTB với tư cách là
một hình thái KT – XH). Vậy thì vì sao chúng ta lựa chọn con đường đi lên CNXH
hay nói cách khác cơ sở lý luận và thực tiễn nào để Việt Nam lựa chọn con đường
đi lên CNXH ?
Về lý luận:
Một trong những phát hiện vĩ đại của học thuyết Mác - Lênin là đã chỉ ra
quy luật phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của

các hình thái kinh tế - xã hội: Từ cộng sản nguyên thủy đến chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn đầu là xã hội
XHCN). Các hình thái kinh tế - xã hội ra đời, phát triển theo những quy luật nội
tại, trong đó, sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật bao trùm, chi phối mọi hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ
sở đó, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh và khẳng định, CNTB là một hình
thái kinh tế - xã hội có nhiều tiến bộ, là nấc thang phát triển của lịch sử lồi người,
nhưng chính CNTB đã tạo ra những mâu thuẫn sẽ đưa xã hội tư bản đến chỗ bị phủ
định và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa cộng sản. Đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sản
xuất dựa trên sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất ngày càng cao với trình độ
của lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng lớn, khiến mâu thuẫn và xung
đột xã hội ngày càng gia tăng, thể hiện ở mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai
cấp công nhân và người lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp này tất yếu sẽ dẫn đến


cách mạng XHCN với mục tiêu cuối cùng là phủ định CNTB và thay thế nó là một
xã hội mới tốt đẹp, tiến bộ hơn - xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
Từ nội dung trên có thế lý giải Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội là:
- Xuất phát từ quy luật vận động và phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài
người: lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển tự nhiên thông
qua sự thay thế nhau (từ thấp đến cao) của các hình thái kinh tế - xã hội . Tuy nhiên
không phải tất cả mọi quốc gia dân tộc đều phải tuần tự trải qua các hình thái
kinh tế - xã hội, mà một số quốc gia dân tộc trong quá trình phát triển có thể bỏ
qua một vài hình thái kinh tế - xã hội để tiến tới hình thái kinh tế - xã hội cao
hơn.
Mặc dù vậy, việc bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội khơng phải tùy
tiện mà phải dựa trên những tiền đề và điều kiện khách quan nhất định (triết học đã
làm rõ): Một là: hình thái kinh tế - xã hội định bỏ qua đã trở nên lỗi thời lạc hậu.
Hai là: hình thái kinh tế - xã hội định xây dựng đang chứng tỏ tính ưu việt của

nó. Ba là: có một lực lượng tiên tiến đủ khả năng lãnh đạo cuộc chuyển biến cách
mạng; quần chúng nhân dân đã chuẩn bị mọi mặt và quyết tâm bỏ qua, đồng thời
có sự giúp đỡ của các nước, các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Thực tiễn chứng minh: Nga, Đức, Ba Lan bỏ qua chế độ Chiếm hữu nô lệ
tiến lên chế độ phong kiến; Mĩ, Canada bỏ qua chế độ phong kiến phát triển lên
chế độ TBCN; Trung Quốc không qua chế độ TBCN...
Như vậy có thể khẳng định: Việt Nam qúa độ lên chủ nghĩa xã hội có đủ
điều kiện và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xá hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Vì: Thứ nhất, Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Việt Nam đã hồn tồn độc lập, Chính quyền thuộc về tay nhân dân.
Thứ hai, Nhân dân Việt Nam cần cù, sáng tạo, có ý chí vươn lên mãnh liệt…Thứ
ba, Chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất ban đầu của chủ nghĩa xã hội


từ những thành tựu của hơn 25 năm đổi mới… và hiện nay, cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cùng với sự hình thành và phát
triển kinh tế tri thức, quá trình tồn cầu hóa và hội nhập cuốc tế là thời cơ để chúng
ta phát triển.
- Xuất phát từ bản chất tốt đẹp của CNXH mà Việt Nam chúng ta lựa chọn con
đường đi lên CNXH. Bản chất ưu việt và tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản. là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (CNTB là chế độ tư hữu về
TLSX). Bản chất ưu việt về xã hội, là khơng có đối kháng giai cấp, khơng có áp bức
bóc lột (CNTB ln tồn tại mâu thuẫn đối kháng, áp bức bóc lột của giai cấp tư sản
với giai cấp vô sản).
- Đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự lựa chọn phù hợp với qui luật vận
động, phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người, phù hợp với xu thế chung của
thời đại. Quy luật vận động và phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người là sự
thay thế nhau từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội. Xu thế chung
của thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế
giới.

- Đi lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử .
Là khát vọng của nhân dân ta (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Việt nam là
một nước thuộc địa nửa phong kiến, nhiêu phong trào yêu nước nổ ra nhưng đều bị
dìm trong biển máu.., nhân dân ta ln mong muốn đất nước được hịa bình, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc).
Là con đường do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa
chọn, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN và
chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân ta đã làm cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 thành
công, dành lại độc lập dân tộc, đưa Việt Nam tiến tiến lên CNXH, đó là con đường


phù hợp với quy luật phát triển của cách mạng việt nam mà Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn để có được một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Về thực tiễn:
- Thắng lợi của Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một
thời đại mới, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi tồn thế giới. Tính
tất yếu của thời đại mới đã tạo khả năng và điều kiện để các dân tộc đi lên CNXH,
đem lại những nhận thức mới trong quan niệm và giải pháp giải quyết vấn đề giải
phóng dân tộc một cách triệt để.
Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng CNXH, Liên Xô và các nước XHCN đã đạt
thành tựu quan trọng: sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất
với quy mơ và trình độ hiện đại, bảo đảm ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh
thần cho nhân dân. Từ một nước Nga nghèo nàn và lạc hậu, sau một thời gian xây
dựng đã trở thành một cường quốc của thế giới, đạt được bước tiến lớn trong
nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và quốc phòng hùng
mạnh(10)... tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển và định hình
con đường phát triển phi TBCN ở hàng loạt các quốc gia trên thế giới. Hàng trăm

nước đã giành được độc lập dân tộc, góp phần quyết định vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới và hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội(11). Sức
mạnh và thành tựu của CNXH hiện thực, tính ưu việt của chế độ XHCN ở Liên Xô
và các nước XHCN đã thức tỉnh nhân loại, tạo khả năng đoàn kết các dân tộc để
giữ gìn hịa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, buộc CNTB phải điều chỉnh
chính sách có lợi cho người lao động(12); tạo khả năng hiện thực cho các nước lạc
hậu tiến thẳng lên CNXH.
- Vào những năm đầu của thế kỷ XX, Việt Nam khủng hoảng về đường lối cứu
nước và giải phóng dân tộc. Trong lúc nhiều người yêu nước hướng theo cách
mạng tư sản, bằng thực tiễn 10 năm bơn ba tìm đường cứu nước qua khoảng 30


quốc gia dân tộc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cách mạng tư sản Pháp và cách mạng tư
sản Mỹ là những cuộc cách mạng khơng đến nơi “...nó chỉ mang lại quyền lợi cho
một số ít người”. Sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng Tháng
Mười Nga, Hồ Chí Minh tìm thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vơ sản. Người khẳng định:
“… chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức”và “… cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN
thì mới giành được thắng lợi hồn tồn”, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Tư tưởng đó đã được
Đảng ta khẳng định, được cả dân tộc hưởng ứng và đi theo.
Đi lên chủ nghĩa xã hội Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân
tộc Việt Nam. Với sự lựa chọn đúng đắn đó, Việt Nam đã giải quyết được cuộc
khủng hoảng đường lối cứu nước, tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm
1945, thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Tiếp đó, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, chúng ta đã chiến thắng những đế quốc hùng mạnh nhất để giữ vững chủ
quyền đất nước, địa vị làm chủ của nhân dân, làm bạn bè quốc tế khâm phục.
Mối quan hệ cần giải quyết trong thực hiện hương hướng xây dựng CNXH
vẫn là giải quyết tốt hai quy luật cơ bản của xã hội hay còn gọi là hai mối quan hệ

đó là: mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ san xuất; mối quan hệ giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cụ thể hóa hai mối quan hệ lớn đó chúng ta
giải quyết tốt những nội dung sau: Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế; đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hát triển và ứng dụng khoa học cơng
nghệ, phát triển nguồn nhân lực. Hồn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN, Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng; Xây dựng, phát triển văn hóa, con người, Quản lý phát triển xã hội; thực
hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội; cùng với đó là Tăng cường quốc phòng, an ninh,


bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới, ăng cường quản
lý tài nguyên, bảo vệ mơi trường; chủ động phịng chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu
Tóm lại là chúng ta thực hiện 4 trụ cột phát triển: Phát triển kinh tế - xã hội là
trung tâm; Xây dựng Đảng là then chốt; Xây dựng văn hóa, con người là nền tảng
tinh thần; Bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu và thường xuyên. và “3 khâu
đột phá”: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN…; Phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao…; Xây dựng kết cấu
hạ tầng đồng bộ
KẾT LUẬN
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan;
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là duy
nhất đúng; và việc lựa chọn mô hình và con đường phát triển đất nước khơng phải
là ý muốn chủ quan hay một “bộ óc” nào đó nặn ra, mà là cả một quá trình từ nhận
thức đi đến hành động thực tiễn và tiến hành những cách thức xây dựng xã hội đó.
Trên cơ sở đó, mỗi chúng ta cần nâng cao nhận thức trách nhiệm, xây dựng niềm
tin, kiên định với mục tiêu con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn.
Đồng thời, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.

Câu 6. Trình bày nội dung sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công
nhân, rút ra ý nghĩa cơ bản trong thời đại ngày nay?
Mờ bài:
Một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác là phát hiện ra sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là phạm trù cơ bản, phạm trù xuất phát của chủ nghĩa xã hội khoa học. Việc
khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là lập trường chính trị của


×