TRƯỜNG
KHOA
TIỂU LUẬN
MÔN: LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
ĐỀ TÀI: ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ TOÀN XÃ
HỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Họ và tên:
Chức vụ, đơn vị công tác:
Lớp:
2
2
Hà Nội, tháng 4 năm 2022
MỤC LỤC
Trang
A- MỞ ĐẦU
B- NỘI DUNG
1
2
Chương 1.
Tính tất yếu khách quan phương thức lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã
hội
2
1.1.
Xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội
2
1.2.
Xuất phát từ vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam
6
1.3
Từ sự phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
toàn xã hội
7
Chương 2.
Thực trạng Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và toàn xã hội sau 35 năm đổi mới (1986 – 2021)
12
Những kết quả đạt được và nguyên nhân
12
2.1
2.2.
Những hạn chế và nguyên nhân
Những giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của
Chương 3. Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và tồn
xã hội trong tình hình hiện nay
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
3.1
Nhà nước và toàn xã hội
Đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối
3.2
với nhà nước và toàn xã hội, trước hết là đối với nhà
nước
Đổi mới công tác tổ chức, công tác cán bộ trọng tâm là
3.3
đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực hiệu
3.4
quả
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
14
15
15
17
19
21
22
23
3
3
MỞ ĐẦU
Trải qua hơn 92 năm lãnh đạo cách mạng, từ lãnh đạo cách mạng trong
điều kiện chưa có chính quyền đến khi trở thành Đảng cầm quyền; từ cầm
quyền khi có nhiều đảng phái tham chính đến khi trở thành một đảng duy nhất
cầm quyền; từ cầm quyền một nửa nước đến cầm quyền trong cả nước; từ
lãnh đạo chiến tranh là chủ yếu đến lãnh đạo xây dựng đất nước trong hồ
bình. Mỗi thời kỳ của cách mạng đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải thay đổi
cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, của tình hình trong nước
và ngồi nước. Điều này đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử, qua các
giai đoạn, thời kỳ Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới đất nước, việc xây dựng Đảng diễn ra trong
những điều kiện khác hẳn trước. Nền kinh tế nước ta chuyển từ kinh tế kế
hoạch tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Hoạt động trong môi trường kinh tế thị trường đòi hỏi ở Đảng sự
kiên định, năng động, nhạy bén, đồng thời có sức đề kháng cao trước những
tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bước
vào thời kỳ mới, Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng Đảng không làm thay công
việc của Nhà nước, mà xây dựng Nhà nước vững mạnh, để Nhà nước thể chế
hố đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành luật pháp, thành các
các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức thực hiện.
Nhà nước phải quản lý đất nước theo pháp luật và bảo đảm hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả. Mặt khác, nước ta đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra với Đảng ta đó là phải “đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội”. Nhiệm vụ này đòi hỏi
Đảng phải nhận thức đúng đắn hiện thưc khách quan và vận dụng phù hợp với
điều kiện thực tế ở Việt Nam. Đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhằm giúp
Đảng ngày càng hồn thiện, vững mạnh, góp phần khơng ngừng nâng cao vị
thế của Đảng ta trong hệ thống chính trị. Chính vì vậy, nghiên cứu nội dung: “
4
4
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước và toàn xã hội” là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, góp phần nâng cao nhận
thức về cho người học, thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
NỘI DUNG
Chương 1: Tính tất yếu khách quan phương thức lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là hệ thống các
phương pháp, các hình thức, các biện pháp mà Đảng tác động vào Nhà nước
để hiện thực hóa ý chí và mục tiêu của Đảng. Về nguyên tắc, mục tiêu cao
nhất của Đảng lãnh đạo Nhà nước là tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân bằng Nhà nước, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước trong quá trình xây dựng xã hội mới,
nhằm làm cho mục tiêu của tồn bộ sự nghiệp cách mạng nói chung, của từng
thời kỳ nói riêng được thực hiện có hiệu quả cao. Theo đó, phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước bị quy định bởi đặc tính khách quan và chức
năng cơ bản của hệ thống tổ chức nhà nước và tính chất lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước phản ánh mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện, điều kiện đạt mục
tiêu, hay nói rộng ra, đó là mối quan hệ giữa chức năng của hệ thống và cơ
chế thực hiện. Vì vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
1.1. Xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
Theo quan điểm của C.Mác thì Đảng cộng sản là đội tiền phong, là tổ
chức chiến đấu của những người cách mạng, là lãnh tụ chính trị của giai cấp
vơ sản. Nói về bản chất giai cấp của Đảng hai ông cho rằng Đảng luôn đứng
trên lập trường giai cấp công nhân để xử lý và giải quyết mọi vấn đề của cách
5
5
mạng. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng dều phải xuất phát từ
lợi ích của giai cấp cơng nhân.
Mác và Ăngghen khẳng định sự cần thiết phải có Đảng và sự lãnh đạo
của Đảng vô sản trong hệ thống chính trị vơ sản. Suốt đời hai ơng chăm lo
xây dựng nên một chính Đảng vơ sản chân chính, thống nhất, có lý luận khoa
học đúng đắn, có tổ chức chặt chẽ, rèn luyện trong phong trào quần chúng và
được quần chúng tin cậy để Đảng thực hiện sự thống trị của mình, quyền
thống trị của giai cấp cơng nhân, tức là “sự thống trị giai cấp”, “hệ thống
chính trị vô sản phải đảm bảo quyền thống trị của giai cấp vô sản, nghĩa là
phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng Cộng sản”.
Về sự lãnh đạo của Đảng, hai ông cho rằng: “Đảng lãnh đạo trên cơ sở
khoa học và quyết định của tập thể. Có nghĩa là mọi quyết định của tập thể
phải dựa trên sự phân tích một cách khách quan những quy luật phát triển
của xã hội, phải dựa trên ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Phải kiên quyết
chống khuynh hướng cơ hội. Kiên quyết lên án những người theo chủ nghĩa
chủ quan, giáo điều các loại. Và để làm được điều này các vị lãnh tụ vô sản
phải nghiêm túc học tập khoa học cách mạng và dựa vào khoa học để làm
công tác tư tưởng của mình”1.
Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo học thuyết của Mác, đặc
biệt là về Đảng kiểu mới. Với những lí luận ban đầu của Mac-Ăngghen, bằng
tài năng và thực tiễn cách mạng của mình, Lênin đã phát triển học thuyết Mác
về đảng kiểu mới hoàn thiện hơn, trong đó ơng đề cập rất nhiều đến vai trò
lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng. Theo Lênin: Đảng là hạt nhân
lãnh đạo chun chính vơ sản. Trong điều kiện Đảng cầm quyền theo Lênin:
Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị, Đảng là lực lượng
duy nhất có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực và uy tín để lãnh đạo xã hội; đủ
sức lãnh đạo và tổ chức xã hội mới.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen. Tồn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.501.
6
6
Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay công việc của Nhà
nước, không can thiệp vào công việc cụ thể của nhà nước. “Vấn đề hết sức
quan trọng là ở chỗ: làm sao vừa kết hợp vừa phân rõ chức năng của Đảng
và chức năng của chính quyền Xơ viết, theo hướng tăng thêm tính chủ động
của các cơ quan Xơ viết và cán bộ Xơ viết. Cịn về phần Đảng thì giành chính
quyền lãnh đạo mà khơng can thiệp một cách quá nhỏ nhặt, không thường
xuyên và không chính quy như hiện nay. Muốn vậy Đảng phải lãnh đạo xây
dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh” (Thư gửi Môlôtốp, 3-1920).
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng định hướng chính trị. Theo Lênin, trong
điều kiện Đảng cầm quyền thì Đảng cộng sản lãnh đạo bằng cương lĩnh chính
trị, đường lối. Sách lược đúng đắn của mình. Đó là việc hoạch định cương
lĩnh xây dựng đất nước, các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, những định
hướng về chính sách. Đảng lãnh đạo Nhà nước thơng qua đội ngũ cán bộ và
công tác cán bộ. Đảng lãnh đạo thông qua công tác vận động quần chúng
tham gia quản lý Nhà nước. Từ vị trí và vai trị của quần chúng, Lênin chỉ ra
rằng, Đảng phải giáo dục, thuyết phục và tổ chức cho quần chúng nhân dân
tham gia quản lý Nhà nước. Nếu khơng có sự tham gia giám sát và quản lý
của quần chúng nhân dân thì Đảng khơng thể lãnh đạo được Nhà nước, mà
bản thân bộ máy của Đảng và Nhà nước cũng bị tiêu tan.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác – Ăng ghen, Lê nin, vận dụng
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
sáng lập và lãnh đạo Đảng ta đã rất chú ý đến sự lãnh đạo của Đảng và
phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Trước hết, đường lối, chính sách phải đúng. Theo Hồ Chí Minh, “chính
sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi”1. Người chỉ rõ: “Mỗi một chính sách
của chúng ta, phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe
theo nguyện vọng của dân chúng”2. Đảng phải “khéo tập trung ý kiến của
1 Hồ Chí Minh tồn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 5, tr.520
2 Hồ Chí Minh tồn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 5, tr.293
7
7
quần chúng, hóa nó thành đường lối để lãnh đạo quần chúng” 1. Vì vậy, Đảng
cần có các hình thức thích hợp để tham khảo ý kiến rộng rãi của mọi tổ chức
chính trị - xã hội, của đơng đảo các tầng lớp nhân dân. Một yêu cầu rất cần
thiết là đường lối, chính sách đó phải được đúc kết từ thực tiễn kinh nghiệm
phong phú của cuộc sống. Chỉ khi đường lối, chính sách được đúc kết từ thực
tiễn và trải qua thử nghiệm thực tiễn thì mới trở thành đường lối, chính sách
đúng đắn.
Một vấn đề trong phương thức lãnh đạo là phải thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ. Người khẳng định: Lãnh đạo phải tập thể và dân chủ,
phải thống nhất và tập trung. Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là
tập trung. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tồn xã hội cịn được thể
hiện bằng sự thuyết phục, vận động mọi tổ chức chính trị - xã hội, toàn thể
nhân dân ra sức phấn đấu thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Mặc
dù các chủ trương, chính sách trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng là đúng
đắn nhưng có được thực hiện tốt hay không lại phụ thuộc rất lớn vào sự thuyết
phục, vận động mọi tổ chức chính trị - xã hội và tồn thể quần chúng nhân
dân.
Hồ Chí Minh thường căn dặn tồn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải
ln là những người tiên phong ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi mặt cơng tác và
lối sống, nói phải đi đơi với làm, thật sự là tấm gương cho quần chúng noi
theo. Đảng phải bám sát cơ sở, gần gũi nhân dân, lắng nghe và đáp ứng được
nhu cầu, địi hỏi chính đáng của nhân dân, phải thực sự là “người đầy tớ trung
thành” của nhân dân. Đảng phải được dân tin và trở thành niềm tin của cả dân
tộc. Người chỉ rõ: “Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của
Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”2.
Sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị bằng các chủ trương,
chính sách trong các chỉ thị, nghị quyết, bằng sự thuyết phục và bằng cơng tác
1 Hồ Chí Minh tồn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 5, tr.298
2 Hồ Chí Minh tồn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 3, tr.139
8
8
kiểm tra cũng có nghĩa là Đảng khơng thể ơm đồm, bao biện, làm thay những
công việc cụ thể của các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng tơn trọng và phát huy
tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động của các tổ chức đó. Cơng việc của
Đảng cũng như của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác đều được
phân định rõ ràng về trách nhiệm và có sự phối hợp chặt chẽ với nhau theo sự
lãnh đạo của Đảng như Hồ Chí Minh từng nói: “Trong Đảng và Nhà nước ta
có sự phân công chặt chẽ như các bộ phận trong chiếc đồng hồ: Cái kim, dây
cót khác nhau nhưng hợp tác chặt chẽ với nhau. Thiếu một bộ phận nào cũng
không được”1.
Trong hệ thống chính trị, Đảng được thừa nhận là người lãnh đạo, do
vậy các tổ chức chính trị - xã hội khác đều phải phục tùng sự lãnh đạo của
Đảng, thực hiện chủ trương, chính sách mà Đảng đã đề ra, nhưng Đảng cũng
phải tuân thủ đúng những quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh
đạo hệ thống chính trị và tồn bộ xã hội nhưng khơng đứng trên luật pháp,
đứng ngoài luật pháp. Mỗi đảng viên đều là cơng dân Việt Nam, có nghĩa vụ
tn theo Hiến pháp và pháp luật.
Tóm lại, Đảng lãnh đạo đối với xã hội mà Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn được
thể hiện ở những nội dung chủ yếu là: Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường
lối thông qua các chỉ thị, nghị quyết; bằng công tác tổ chức cán bộ và công tác
kiểm tra với việc thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; bằng sự
thuyết phục các tổ chức chính trị - xã hội và tồn thể quần chúng nhân dân
thực hiện tốt các mục tiêu của Đảng đã đề ra. Những điều chỉ dẫn trên của Hồ
Chí Minh có ý nghĩa rất lớn đối với cơng cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Đó
chính là cơ sở định hướng để chúng ta tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng, nâng cao hơn năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
1.2. Xuất phát từ vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
1 Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 9, tr.555-556
9
9
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ
chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI đã khẳng định: “Đảng Cộng
sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành
lợi ích giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”, “..Đảng lãnh
đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh
đạo, tơn trọng và phát huy vai trị của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đồn thể chính trị - xã hội” 1. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và xã hội vẫn không ngừng được củng cố, phát triển từ trong bản
chất cách mạng, khoa học và tư tưởng, lý luận của Đảng, từ sự đúng đắn và
không ngừng hồn thiện Cương lĩnh, đường lối chính trị, từ sự không ngừng
đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, từ sự rèn luyện, không ngừng theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Vai trị lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan
điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo
và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể
quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp
nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế
hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng
Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực
hiện các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc
xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có
đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần
1 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, H.2011, tr4,5
10
10
chúng và các tổ chức chính trị - xã hội. Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương
pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm công tác vận động quần chúng,
lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ...
1.3. Từ sự phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và tồn xã hội
Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đủ
năng lực và phẩm chất để lãnh đạo, được nhân dân tuyệt đối tin tưởng và đi
theo làm cách mạng tự giải phóng. Từ khi ra đời đến nay, năng lực lãnh đạo
và uy tín của Đảng đã được khẳng định trong suốt tiến trình cách mạng. Sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách
quan, đáp ứng yêu cầu lịch sử của cách mạng. Thực tiễn đã khẳng định sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào
yêu nước đã phát triển rất mạnh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại, nhiều nhà
yêu nước muốn tìm đường cứu nước, cứu dân tộc nhưng khơng thành. Sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng sự đòi hỏi của lịch sử. Đảng
Cộng sản Việt Nam được lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn
luyện; được lý luận cách mạng- chủ nghĩa Mác- Lênin soi đường thực sự là
lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và tồn thể
dân tộc Việt Nam; q trình lãnh đạo cách mạng được cả dân tộc Việt Nam tin
yêu đùm bọc, cả nhân loại u chuộng hịa bình ngưỡng mộ trước những
thành tựu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Đảng đã giải quyết thành công cuộc khủng hoảng về tư tưởng lý luận
và đường lối chính trị cứu nước từ giữa thế kỷ XIX đến những năm 30 của thế
kỷ XX. Đảng đã vạch ra con đường cách mạng để giải phóng dân tộc, đưa dân
tộc từ nơ lệ tới độc lập tự do với thắng lợi Cách mạng tháng Tám, chiến thắng
Điện Biên phủ, với chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hồn tồn miền Nam,
thống nhất đất nước.
11
11
Những chặng đường và những mốc son chói lọi đó là bằng chứng lịch
sử về sức mạnh, sức sống của dân tộc Việt Nam, gắn liền với sự lãnh đạo sáng
suốt đầy bản lĩnh của Đảng, của Hồ Chí Minh. Dân tộc anh hùng, Đảng quang
vinh và Bác Hồ vĩ đại đã làm cho Việt Nam đứng vào hàng ngũ các dân tộc
tiên phong trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
Từ khi cầm quyền, đặc biệt là trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi
mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng chăm lo, xây dựng, củng cố và
hoàn thiện bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, và
thực tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Thành tựu đó thể hiện sự
phát triển, trưởng thành của Nhà nước ta trong hoạt động quản lý và tổ chức
thực tiễn, đồng thời cũng đánh dấu sự phát triển của tiến trình đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã quyết định đường lối đổi mới kinh tế
- xã hội của đất nước, trong đó có nội dung quan trọng là đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; xác định rõ hơn chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong điều kiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ
chế quản lý. Đó là các nhiệm vụ: Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng
thành pháp luật, chính sách cụ thể; xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và cụ
thể hóa chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quản
lý hành chính - xã hội và hành chính - kinh tế; điều hành các hoạt động kinh
tế, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà
nước và trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng và an ninh; kiểm tra việc thực
hiện kế hoạch của Nhà nước, phát hiện những mất cân đối và đề ra những
biện pháp để khắc phục; thực hiện quy chế làm việc khoa học, có hiệu suất
cao; xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng, với một đội ngũ cán bộ có
phẩm chất chính trị, năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã
hội.
Đại hội VII của Đảng (6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước
12
12
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nêu rõ quan điểm
cần thiết sửa đổi hệ thống tổ chức Nhà nước, cải cách bộ máy hành chính,
kiện tồn các cơ quan luật pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý
của Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân cơng phân
cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương; Nhà nước Việt
Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân cơng
rành mạch ba quyền đó. Đại hội VII cũng đã chủ trương cải tiến tổ chức và
hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sửa đổi cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động của Chính phủ, coi trọng bàn bạc tập thể, đồng thời đề
cao trách nhiệm và quyền hạn cá nhân của người đứng đầu Chính phủ, đứng
đầu bộ, ngành trong quản lý và điều hành. Tăng cường hiệu lực của các cơ
quan bảo vệ pháp luật. Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân và Tịa án nhân dân các cấp.
Theo đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (12-1991), khóa VII, nhấn
mạnh: Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là điều kiện quan
trọng nhất để tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
làm cho sự lãnh đạo của Đảng có chất lượng và có hiệu quả hơn, đồng thời
làm cho sự quản lý và điều hành của nhà nước có hiệu quả, pháp luật được
tôn trọng, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Đảng lãnh đạo Nhà
nước chứ không làm thay Nhà nước. Cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ
và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Nhà nước thể chế hóa
đường lối, chính sách của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (1-1995), khóa VII, chủ trương tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính. Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng
pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết TW3 (6-1997), khóa VIII, đã khẳng định những thành tựu
quan trọng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và những đổi
13
13
mới về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, để vừa
bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm,
tính chủ động của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, trước thực tế là tổ chức
bộ máy nhà nước còn nặng nề và chưa thật sự trong sạch, vững mạnh; sự lãnh
đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động
của Nhà nước, Nghị quyết đã đề ra yêu cầu là cần nắm vững và thực hiện tốt
ba nội dung trọng yếu về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là: Lãnh đạo
các cơ quan nhà nước kịp thời thể chế hóa đường lối của Đảng thành pháp
luật; Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước; xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, thực sự vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân; Tăng cường kiểm tra tổ
chức đảng và đảng viên trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (năm 1999), khóa VIII, chủ trương
tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhà nước trong tổng thể bộ máy của hệ thống
chính trị. Coi cải cách hành chính là nhiệm vụ thường xuyên, ứng dụng công
nghệ thông tin vào công tác cải cách hành chính.
Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định nội dung đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Đảng lãnh đạo Nhà nước thông
qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự
phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng
và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước...
Đại hội X của Đảng cũng nhấn mạnh: “Tập trung đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường
lối, quan điểm, các nghị quyết, lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa thành Hiến
pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình cơng tác lớn của Nhà nước; bố trí
đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Đảng lãnh đạo
nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước…” . Đó chính là sự đổi mới nhằm
phát triển và tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước.
14
14
Nghị quyết Trung ương 5 – khóa X chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mối phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị nhằm: Giữ
vững và tăng cường vai trị lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu
quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết
giữa Đảng với nhân dân; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước...” .
Theo đó, Nghị quyết Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Tập trung rà soát,
bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế,
quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng
bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà
nước…”
Đại hội XII của Đảng tiếp tục có những bổ sung, phát triển mới về
phương thức lãnh đạo của Đảng. Đại hội khẳng định nhiệm vụ nâng cao hiệu
quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Tiếp tục cụ thể hóa
phương thức lãnh đạo được xác định trong Cương lĩnh năm 2011 ở tất cả các
cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Đẩy mạnh việc phân cấp,
phân quyền; có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo,
gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống
nhất của Trung ương. Nội hàm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong
phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục được làm sáng rõ hơn.
Đại hội XIII của Đảng thể hiện bước phát triển quan trọng trong quá
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng. Lần đầu tiên trong các kỳ đại hội, vấn
đề nâng cao năng lực cầm quyền được đặt bên cạnh yêu cầu về nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trở thành mục tiêu tổng quát trong
nhiệm kỳ là “nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến
đấu của Đảng”. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời gian
vừa qua được đánh giá có kết quả tích cực trên nhiều phương diện. Đảng đã
ban hành các chủ trương, nghị quyết bám sát thực tiễn, gắn với các nhiệm vụ
15
15
trọng tâm, đột phá chiến lược; đồng thời, chỉ đạo quyết liệt việc thể chế hóa
và tổ chức thực hiện; phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng có nhiều đổi mới theo hướng bám sát thực tiễn, sâu sát cơ sở; việc phát
huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng
đầu được coi trọng và đẩy mạnh.
Như vậy, sự phát triển về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước đã thể hiện bước phát triển mới về quan điểm chính trị của Đảng ta;
đồng thời cũng là sự đổi mới có tính ngun tắc trong quan hệ giữa Đảng với
Nhà nước nói chung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống tổ
chức bộ máy nhà nước nói riêng. Nó đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục hồn
chỉnh cả về phía Đảng và cả phía Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và toàn xã hội sau 35 năm đổi mới (1986 – 2021)
2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Nhìn chung, việc ban hành chủ trương, nghị quyết của Đảng đã bám sát
thực tiễn, phát huy dân chủ, gắn với xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức
thực hiện. Ban Chấp hành Trung ương ban hành kịp thời các nghị quyết, quy
định, kết luận để triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, nhất là các nhiệm
vụ trọng tâm, những đột phá chiến lược. Bộ Chính trị ban hành các kế hoạch
thực hiện nghị quyết, xác định nhiệm vụ cụ thể cho các cấp ủy, tổ chức đảng
trực thuộc Trung ương; chỉ đạo các cơ quan nhà nước bổ sung, sửa đổi và ban
hành mới các luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để thực
hiện, sớm đưa các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Sau đại hội đảng bộ
các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các cấp ủy từ Trung ương
đến cơ sở đã sớm chỉ đạo kiện toàn chức danh lãnh đạo trong các tổ chức của
hệ thống chính trị, đặc biệt là các cơ quan nhà nước; tiếp tục hoàn thiện các
quy định, quy chế, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ hơn trách
nhiệm của tập thể, cá nhân, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát
huy vai trò chủ động của các cơ quan nhà nước.
16
16
Nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo và ý nghĩa, tầm quan
trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính
trị ngày càng rõ hơn.
Những đổi mới về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội là định hướng chính trị cho đổi mới hoạt động
của hệ thống chính trị nước ta trong những năm qua. Đảng đặc biệt coi trọng
việc thể chế hoá, cụ thể hoá quan điểm, chủ trương đường lối thành luật pháp,
cơ chế, chính sách của Nhà nước; Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội
trong các hoạt động lập pháp, giám sát tối cao và việc quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước; Định hướng cho việc ban hành cơ chế, chính
sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại… của Chính phủ.
Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục,
thực hành công khai, dân chủ trong Đảng và trong xã hội; phát huy và thực
hiện tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân; phát huy tính năng động, sáng tạo
của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội.
Việc lập đảng đoàn, ban cán sự đảng, giới thiệu những đảng viên của
Đảng vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của các hệ thống chính trị, củng cố tổ
chức cơ sở đảng và phát huy vai trò quản lý, giám sát của tổ chức đảng đối
với đảng viên, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên đã có tác
động tích cực đến việc giữ vững và nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng.
Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã được tăng cường. Đảng lãnh
đạo, phối hợp sự kiểm tra, giám sát của Đảng với của Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị và
cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, về trách nhiệm đối với công việc và thái độ
phục vụ nhân dân.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ và phong cách,
lề lối làm việc của các cấp uỷ và đảng viên có đổi mới theo hướng khoa học,
cơng khai, dân chủ, sát cơ sở hơn.
17
17
Sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã
hội ở Việt Nam được thể hiện qua thành tựu của sự nghiệp 35 năm đổi mới
đất nước. 35 năm trước, Đảng ta tiến hành Đại hội VI và quyết định đổi mới
đất nước. Tháng 12 năm 1986, lạm phát trong năm đã tăng hơn 770%; hầu hết
các mục tiêu kinh tế - xã hội đều không đạt được. Kết thúc năm 2020, nước ta
đã chính thức vượt quy mơ kinh tế của Malaysia và Singapore để trở thành
nền kinh tế đứng thứ 4 ở khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 36 trên thế giới.
Trong giai đoạn thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng 20162020, nếu không xảy ra đại dịch Covid-19 thì kinh tế Việt Nam sẽ có tốc độ
tăng trưởng cao nhất trong các nhiệm kỳ gần đây. Từ năm 2015, khi kinh tế
tăng trưởng 6,68% thì từ đó trở đi đến năm 2019 đã tạo đà cho nước ta liên
tục tăng trưởng cao, có những năm chúng ta đã vươn lên trở thành nền kinh tế
tăng trưởng cao thứ 2 trên thế giới. Nếu như tốc độ tăng trưởng GDP giai
đoạn 2011-2015 là gần 5,9%/năm thì giai đoạn 2016-2019 ở mức 6,8%, riêng
năm 2020 do đại dịch Covid-19 và ảnh hưởng của lũ lụt nên tốc độ tăng
trưởng giảm xuống còn 2,91%. Tuy vậy, năm 2020 cũng là một năm đánh dấu
sự vượt khó thành cơng trong việc thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch
Covid-19, vừa phát triển kinh tế (trong khi nhiều nước trên thế giới tăng
trưởng âm), đưa Việt Nam trở thành điểm sáng trong thực hiện mục tiêu kép,
được thế giới ghi nhận, đánh giá cao. Qua đó, lịng u nước, tinh thần dân
tộc, niềm tin vào Đảng, Nhà nước, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ
nghĩa và ý chí tự lực, tự cường của dân tộc được phát huy mạnh mẽ.
Ngun nhân của những thành tựu đó chính là ở những quyết sách chủ
trương của Đảng phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng giữ vững
nguyên tắc trong lãnh đạo nhà nước và tồn xã hội, khơng bao biện, làm thay
Nhà nước và huy động tối đa lực lượng tham gia phát triển kinh tế xã hội. Cơ
chế, công tác giám sát của Đảng đối với nhà nước ngày một hồn thiện đã góp
phần tạo nên một mơi trường chính trị, pháp lý thuận lợi thúc đẩy sự phát
triển chung của toàn xã hội.
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
18
18
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung cịn một
số hạn chế và bất cập. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ “phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt cịn lúng túng.
Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ,
hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương,
nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời.
Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn,
thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết
chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao biện, làm
thay hoặc bng lỏng vai trị lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở
một số nơi”.
Cùng với đó, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách
nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức đảng và cơ quan nhà nước cũng như thẩm
quyền, trách nhiệm giữa tập thể lãnh đạo, người đứng đầu các cơ quan, tổ
chức đảng với người đứng đầu cơ quan nhà nước chưa thật rõ ràng và thống
nhất. Một số chủ trương, nghị quyết quan trọng của Đảng chậm đi vào cuộc
sống, hoặc chưa được tổ chức thực hiện một cách đầy đủ, thiếu triệt để, hiệu
quả chưa cao. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong bộ máy
nhà nước có một số mặt chưa đáp ứng yêu cầu; tinh thần trách nhiệm, tính
tiền phong gương mẫu chưa cao, tác phong, lề lối làm việc thiếu chuyên
nghiệp; thậm chí, một số cán bộ, cơng chức suy thối phẩm chất đạo đức, lối
sống, cửa quyền, tham nhũng, hách dịch, vi phạm pháp luật. Công tác vận
động, giáo dục, thuyết phục đảng viên và nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có mặt cịn hạn chế. Cải
cách hành chính trong Đảng cịn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.
Những khuyết điểm, hạn chế trên đều có ngun nhân sâu sa từ chính
trong cơ chế lãnh đạo của Đảng, việc phân công, phân nhiệm trong tổ chức
đảng từ trung ương đến địa phương có lúc, có nơi vẫn chưa phù hợp dẫn tới
sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Giải quyết mối quan hệ giữa lãnh đạo
19
19
với quản lý điều hành có lúc chưa hợp lý. Chính vì vậy, đổi mới cơ chế lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước và tồn xã hội ln là yêu cầu vừa mang tính
cấp thiết, vừa mang tính lâu dài.
Chương 3. Những giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và tồn xã hội trong tình hình
hiện nay
3.1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và toàn xã hội.
Đây là vấn đề cốt lõi, bởi lẽ, nếu khơng thực hiện được nhiệm vụ này,
thì mọi phương pháp lãnh đạo của Đảng đều khơng có hiệu quả. Vì vậy, trước
hết cơng tác chỉnh đốn Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới phải
được đặt lên hàng đầu. Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung những nhận thức
mới quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đặc biệt, đã nhấn
mạnh tới việc gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh. Đây cũng là nhiệm vụ, phương hướng trọng tâm của
cả nhiệm kỳ Đại hội XIII và những năm tiếp theo: “Tiếp tục đẩy mạnh xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Tuy nhiên, thực tế cũng đang đặt
ra những yêu cầu cần nhận thức rõ ràng và sâu sắc hơn, tạo tiền đề vận dụng
đúng đắn, hiệu quả và đưa công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh đi vào chiều sâu. Đổi mới, chỉnh đốn là việc
Đảng quyết tâm từ bỏ những lạc hậu, lỗi thời, khắc phục những sai lầm,
khuyết điểm, giữ vững và tăng cường mối liên hệ máu thịt với nhân dân, vững
vàng trước mọi thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi cấp thiết
phải phịng chống nguy cơ thối hóa, biến chất, tự diễn biến từ trong nội bộ
Đảng. Hồ Chí Minh coi mỗi sai lầm, khuyết điểm như một chứng bệnh, là kẻ
địch từ bên trong phát hoại Đảng, như “ giặc ở trong lòng”. Do vậy, Đảng cần
huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong đấu tranh phịng chống
suy thối, quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Đảng, chính quyền; hồn thiện
20
20
hệ thống pháp luật, các quy định của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh
phòng chống tham nhũng; phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của các phương tiện thông tin và dư luận
xã hội trong xây dựng Đảng và Nhà nước.
Hai là, cần nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng. Không chỉ riêng với Đảng Cộng sản mà
với bất kỳ một đảng chính trị, đảng chấp chính nào thì bản chất giai cấp là yếu
tố quy định q trình tồn tại và phát triển của Đảng đó. Và với Đảng Cộng sản
thì bản chất giai cấp cơng nhân chính là yếu tố quyết định sự tồn vong, sự
phát triển của đảng. Nếu như bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng bị giảm
sút, bị biến chất thì cũng là lúc Đảng Cộng sản sẽ chuyển sang lập trường giai
cấp khác hoặc lập trường cải lương, cơ hội. Chính vì vậy, việc giữ vững lập
trường giai cấp cơng nhân của Đảng Cộng sản là điều quyết định sự sống còn
của Đảng, là quy luật đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng Cộng
sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Thiếu bản lĩnh chính trị, xa rời bản
chất giai cấp cơng nhân, Đảng dễ bị sai lầm, chệch hướng, khó vượt qua thử
thách, trở ngại để đi tới thành công. Đảng phải nắm vững và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu những kinh
nghiệm, tri thức của nhân loại, tham khảo kinh nghiệm các Đảng Cộng sản
trên thế giới để áp dụng vào thực tiễn cách mạng nước ta. Biểu hiện cụ thể ở
việc hiểu sâu sắc về bản chất cách mạng và khoa học, phương pháp luận, nắm
vững tinh thần, lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, khơng phải là thuộc lòng các câu chữ trong các tác phẩm kinh điển.
Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng:
"Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, giữ vững bản chất giai cấp
cơng nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp". Đồng thời
việc thực hiện "xây dựng Đảng là nhiệm vụ trọng yếu, là nhân tố quyết định
21
21
để giữ vững vai trò và nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, để Đảng thực
sự xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc".
Trong giai đoạn hiện nay cần giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ,
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình,
giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong Đảng. Mọi hoạt động gây chia rẽ, bè
phái, mất đồn kết, bng lỏng kỷ luật đều dẫn tới nguy cơ làm mất bản chất
giai cấp công nhân của Đảng. Tăng cường thành phần công nhân trong Đảng,
trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
3.2. Đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước và toàn xã hội, trước hết là đối với nhà nước
Thứ nhất, đổi mới việc ra nghị quyết, xác định đúng và trúng nhiệm vụ,
giải pháp trọng tâm, đột phá trong từng thời kỳ
Lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, chỉ thị vẫn là phương
thức lãnh đạo cơ bản của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị, cho
đến nay chưa có phương thức nào có thể thay thế. Các đảng tham chính, đảng
cầm quyền trên thế giới từ trước tới nay cũng đều đưa ra chương trình hành
động bằng những chủ trương, cương lĩnh, hoặc văn bản có tính cương lĩnh,
chương trình, kế hoạch hành động cụ thể nhằm tuyên truyền, cổ động trong
Đảng và ngoài xã hội để được cụ thể hóa bằng các phong trào hành động. Để
nghị quyết có chất lượng, vừa là cơ sở chính trị, vừa là đề án khoa học, là
“cẩm nang” để Đảng lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan nhà nước, các cấp ủy, tổ
chức đảng cần xây dựng nghị quyết theo quy trình khoa học. Nếu bị chi phối
bởi tư duy nhiệm kỳ, tư tưởng chủ quan, duy ý chí, độc đốn, chuyên quyền...
sẽ khó có thể đề ra được những chủ trương, nghị quyết đúng đắn, sát thực tiễn
và có tầm nhìn chiến lược. Việc xây dựng chủ trương, nghị quyết địi hỏi phải
phát huy dân chủ, trí tuệ, sáng kiến của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên, các chuyên gia, các nhà khoa học, các cơ quan tham mưu, mà rộng
22
22
ra là của tồn Đảng, hệ thống chính trị và tồn dân. Đó là q trình nghiên
cứu, tìm tịi dựa trên cơ sở lý luận, tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm, nắm bắt
nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đổi mới cách ra nghị quyết
còn đòi hỏi nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích,
từ tên, tiêu đề cho đến nội dung của nghị quyết phải dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp
thu và dễ vận dụng.
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến,
quán triệt việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng trong cơ quan nhà
nước các cấp
Chủ trương, nghị quyết của Đảng dù có đúng đắn, sát hợp nhưng nếu
các cơ quan lãnh đạo, các cấp ủy, tổ chức đảng không nắm vững, hiểu sâu,
khơng thấm nhuần, khơng có ý thức trách nhiệm cao, khơng có niềm tin, động
lực trong qn triệt và tổ chức thực hiện thì nghị quyết cũng chỉ nằm trên giấy
mà thôi. Nhận thức là cơ sở của hành động, chỉ có nhận thức đúng, đầy đủ, có
ý chí quyết tâm cao thì nghị quyết mới nhanh chóng đi vào cuộc sống, trở
thành thực tiễn sinh động và đem lại hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội.
Thứ ba, nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa và quyết liệt lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng
Trong các cơ quan nhà nước đều có các cơ quan, tập thể lãnh đạo là các cấp
ủy, tổ chức đảng, ban cán sự đảng, hoặc đảng đồn. Các tổ chức này có trách
nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo việc cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm, mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong các nghị quyết của Đảng thành các quy
định của pháp luật, các chương trình, kế hoạch, đề án, chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, mở rộng hoạt động đối ngoại...
Sự cụ thể hóa, thể chế hóa nội dung quan điểm, nghị quyết của Đảng ở các cơ
quan nhà nước các cấp gắn liền với năng lực, thẩm quyền, trách nhiệm của
các cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan này.
Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức thực hiện hợp nhất các cơ
quan của Đảng và cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ tương đồng
Nhiệm vụ này cần tiếp tục đổi mới trên cả hai phương diện, đối với hai chủ
thể là Đảng và Nhà nước. Một mặt, thơng qua việc quyết định mơ hình, cơ
23
23
cấu, hình thức tổ chức của các cơ quan nhà nước một cách tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả với hệ thống các văn bản thể chế hoàn thiện, Đảng
lãnh đạo cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của mình; mặt
khác, bản thân tổ chức bộ máy của các cơ quan đảng cũng phải được thiết kế,
tổ chức một cách tinh gọn nhất, tránh chồng chéo, hoặc song trùng quyền lực
giữa cơ quan của Đảng và Nhà nước. Do đó, để đổi mới mạnh mẽ phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, trước hết bộ máy, tổ chức của các
cơ quan đảng cần phải được đổi mới, sắp xếp theo hướng thật tinh gọn, các cơ
quan, tổ chức của Đảng phải thực sự là hạt nhân trí tuệ, là bộ “tổng tham
mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Đối với các cơ quan tham
mưu của cấp ủy, nhất là ở các đảng bộ trên cơ sở trong các cơ quan nhà nước
phải thực sự tinh gọn, cán bộ tham mưu phải có năng lực, trình độ chun
mơn giỏi, tinh thơng nghiệp vụ, trách nhiệm và chuyên nghiệp trong công
việc.
3.3. Đổi mới công tác tổ chức, công tác cán bộ trọng tâm là đội ngũ
cán bộ chủ chốt các cấp
Hiệu quả, thành bại trong công tác lãnh đạo của Đảng đều nằm ở chất
lượng đội ngũ cán bộ, do vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông
qua công tác cán bộ là một trong những giải pháp quan trọng nhất. Trong điều
kiện mới, cần xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi trội, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với
khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự
tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đồn kết. Vì vậy, cần sớm ban hành các
văn bản cụ thể hóa quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ
càng cao càng phải gương mẫu. Sớm cụ thể hóa, đưa chủ trương khuyến
khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung vào cuộc sống.
24
24
Khơi dậy khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, sáng tạo của đội ngũ
cán bộ. Nâng cao chất lượng đảng viên phải kết hợp với việc nâng cao chất
lượng tổ chức đảng, kịp thời rà soát, sàng lọc những cán bộ sa sút về phẩm
chất, đạo đức, mất tín nhiệm trong nhân dân.Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ
cấp chiến lược trong thời gian tới phải có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới, đó là xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền kinh
tế số, kinh tế tri thức và biến đổi khí hậu, nước biển dâng; giữ vững an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
trong bối cảnh tình hình trong nước, khu vực và thế giới diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, khó lường. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng mà
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh: “Xây
dựng Đảng là nhiệm vụ “then chốt” thì cơng tác cán bộ là then chốt của nhiệm
vụ then chốt”.
Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền
vững. Do đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa XII đã nêu
rõ quan điểm: thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính
trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo
môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán
bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp
gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra,
giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.
Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới
cơng tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ
phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động
thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công
25
25
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân
lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài.
3.4. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực hiệu quả
Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền đảm bảo cho Đảng không có sự
cạnh tranh quyền lực. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức đối với Đảng ta do
nguy cơ sự tha hóa quyền lực mà biểu hiện cụ thể là sự độc đốn, chun
quyền, xa rời quần chúng. Chính vì vậy, để củng cố vị trí và nâng cao vai trị
lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng phải thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực
một cách hiệu quả.
Trước hết, cần quan tâm đến việc tự kiểm soát trong nội bộ Đảng. Phát
huy vai trò, năng lực kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp đối với tổ
chức đảng và đảng viên, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những biểu hiện mơ
hồ, dao động, những việc làm không đúng quy định Điều lệ Đảng, các quy
chế, quy định của Đảng. Coi trọng kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình
liên quan đến các khâu của cơng tác cán bộ, do đây là việc làm phức tạp, nhạy
cảm, dễ sinh ra các hiện tượng tiêu cực, chạy chức, chạy quyền, không đảm
bảo chất lượng đội ngũ cán bộ, từ đó dẫn đến giảm sút năng lực lãnh đạo ,
cầm quyền của Đảng.
Cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng thực hiện cơng tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Trong đó, tập trung vào các cơ chế, biện pháp
chủ động phát hiện sớm, phòng ngừa, ngăn chặn từ xa những khuyết điểm, vi
phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Phát huy và tăng cường vai trò giám sát,
phản biện xã hội của các cơ quan và đại biểu dân cử, mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thơng, báo chí và nhân dân trong
cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Cần sớm cụ thể hóa những quy định
của Đảng, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo Nhà nước hồn thiện các quy định về
phịng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quy định về kiểm sốt quyền