Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

vai trò của đảng cộng sản việt nam đối với việc xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.26 KB, 71 trang )

ĐảNG CộNG SảN VIệT NAM LãNH ĐạO
XÂY DựNG Và PHáT HUY DÂN CHủ Xã HộI
CHủ NGHĩA (1996 - 2009)

Khoá luận tốt nghiệp đại học
ngành
: LịCH Sử
Mã số
: 08.11.01
Chuyên ngành : LịCH Sử ĐảNG

Cn th - 2015

BNG CH VIT TT

CNXH

: Ch ngha xó hi

LHQ

: Liờn hp quc
1


HĐNQ

: Hội đồng nhân quyền

CNH-HĐH


: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

MTTNK

: Mục tiêu thiên niên kỷ

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

QCN

: Quyền con người

2


Môc lôc
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài...........................................................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu......................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................4
6. Đóng góp khoa học của đề tài.........................................................................................5
7. Kết cấu khóa luận...........................................................................................................5
B. NỘI DUNG...................................................................................................................6
CHƯƠNG 1: DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA-MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN.......................................................................................................................6
1.1 Dân chủ .......................................................................................................................6

1.1.1 Dân chủ tư sản. .............................................................................................7
1.1.2 Dân chủ xã hội chủ nghĩa..............................................................................8
1.2 Chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa ....
10
1. 2.1 Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ................................................................10
1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ................................................................13
1.3. Sự cần thiết xây dựng và phát huy dân chủ trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hóa-hiện đại hóa................................................................................................................16

1.3.1. Thực trạng xây dựng và phát huy dân chủ ở nước ta trước 1996......16
1.3.2 Xây dựng và phát huy dân chủ là yêu cầu khách quan, đòi hỏi cấp bách
của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. ..................29
CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA (1996-2009).................................................................................................34
2.1 Chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa (1996-2009).......................................................................................................34
2.1.1 Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát huy dân chủ...............................34
2.1.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người...........................39
2.2 Thực trạng xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa (1996-2009)............
41
2.2.1 Những thành tựu cơ bản trong việc đảm bảo và thúc đẩy quyền con người,

3


phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...............................................41
2.2.2. Những hạn chế trong việc xây dựng và phát huy dân chủ, đảm bảo và thúc
đẩy quyền con người ở Việt Nam................................................................54
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế................................................................57
2.3. Một số kinh nghiệm, kiến nghị.................................................................................58

2.3.1 Một số kinh nghiệm........................................................................................58
2.3.2 Một số kiến nghị.............................................................................................62
C. KẾT LUẬN..................................................................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................67

4


A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam, trải qua 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đã kiên trì thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đảm
bảo cho nhân dân lao động có quyền làm chủ, quyền được hưởng tự do và
hạnh phúc. Vì vậy, vấn đề xây dựng, thực hiện, phát huy dân chủ và đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan trọng nhất của
cách mạng nước ta.
Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh gian khổ với bao hy sinh cũng chính là
để đưa nhân dân lên địa vị làm chủ xã hội. Sau khi đất nước giành được độc
lập từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật, thoát khỏi ách phong kiến tập
quyền, chúng ta đã khẳng định chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân. Hiến
pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên ở nước ta, khẳng định chủ quyền
nhà nước thuộc về nhân dân.
Điều 1, Hiến pháp 1946 ghi rằng tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân. Thế nhưng, cho đến nay nhân dân ta còn chưa thực sự làm
chủ quyền bính của mình. Nhân dân có chủ quyền về Nhà nước nhưng thực
hiện quyền đó như thế nào lại phụ thuộc vào phương thức thực thi quyền lực
Nhà nước. Phương thức đó bao gồm: Phương thức tổ chức vận hành của Nhà
nước, của hệ thống chính trị, phương thức tổ chức và thực hành dân chủ của
nhân dân. HTCT của nước ta hiện nay là hệ thống chỉ có một đảng duy nhất
cầm quyền-Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh nhiều thuận lợi là cơ bản,

việc phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền cũng có
những khó khăn nhất định.
Trong quá trình đổi mới ở nước ta thực hiện dân chủ, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân được Đảng ta xác định vừa là mục tiêu vừa là động lực
của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ
gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm

5


chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị
của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có
quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đảng ta luôn luôn dựa vào
dân. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là nguồn sức mạnh và sự sáng tạo
để Đảng ta vượt qua muôn vàn thử thách, giành hết thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Từ đó, việc dựa và dân, phát huy dân chủ được Đảng ta chú trọng và
tổng kết thành bài học kinh nghiệm quý báu có giá trị lí luận và thực tiễn vô
cùng sâu sắc có thể áp dụng phổ biến mọi nơi, mọi lúc trong tiến trình cách
mạng nước nhà. Dân chủ đã trở thành tư tưởng xuyên suốt trong các văn kiện
của Đảng, luật pháp của Nhà nước ta và các chính sách phát triển. Tuy nhiên,
chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận những khuyết điểm của mình. Những
“điểm nóng” diễn ra trong thời kì vừa qua (điển hình là những vụ việc diễn ra
ở Thái Bình thời kì 1996-1998) lại liên quan nhiều đến “bài học vi phạm dân
chủ” với các mức độ khác nhau ở cơ sở; đồng thời, ở đó các thế lực phản
động ở bên ngoài lại luôn giương cao ngọn cờ “dân chủ”, “nhân quyền”, kích
động tâm lí nhẹ dạ và tâm lí bực bội nào đó ở một số người dân.
Phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ không chỉ góp phần củng cố,
kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không

chỉ là giải pháp hạn chế sự tha hóa về quyền lực, chống lại tệ quan liêu, tham
nhũng trong bộ máy Nhà nước mà nó còn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của
quần chúng lao động, phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ của toàn thể nhân dân
trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đang tiến hành xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hóa đất nước, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống mọi
mặt của của người dân được nâng lên, thì vấn đề dân chủ và thực hiện dân
chủ ngày càng có ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội.
6


Do vậy, việc tìm hiểu vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng và phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo
niềm tin trong lòng quần chúng với Đảng, vừa có tính thời sự cấp bách vừa có
tính cơ bản, lâu dài.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề dân chủ đã thu hút sự chú ý của các nhà lãnh đạo, các nhà khoa
học trong giới lí luận ở nước ta, những vấn đề có liên quan đến dân chủ,
quyền làm chủ của nhân dân trong thời kì đổi mới đã được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu. Có một số công trình tiêu biểu đã được công bố như:
- “Dân chủ trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam”-Hoàng Chí
Bảo-Thông tin lí luận, số 7-1989
- Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mớiGS.TS. Hoàng Chí Bảo, Nxb. Chính trị QGHN, 2007
- Dân chủ hóa và phát huy nội lực-TS. Hồ Bá Thâm, Nxb. Phương
Đông, 2007
- Dân chủ với phát triển cộng đồng-PGS.TS. Trần Quang Nhiếp, Nxb.
Công an nhân dân, 2006
- “Phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền” GS.TS.

Phạm Ngọc Quang, những vấn đề lí luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình
hình hiện nay, hội đồng lí luận Trung ương, Nxb. Chính trị QGHN, 2008
- Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, một số vấn đề lí luận và thực
tiễn, Nxb. Chính trị QGHN, 2000
Các đề tài nói trên trong một chừng mực nhất định đã đề cập đến
quyền lực của nhân dân, vai trò của các tổ chức trong việc thực hiện quy chế
dân chủ. Song cho đến nay vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng và phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa chưa được nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống vấn đề.
Dưới góc độ lịch sử Đảng, công trình khóa luận là cố gắng bước đầu của tác
giả nhằm góp phần vào nghiên cứu đề tài.
7


- Khóa luận góp phần làm rõ thêm bản chất, nội dung dân chủ xã hội
ch ngha và ý ngha c a s phát huy dân ch trong s nghi p i m i n c ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Khóa luận góp phần làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với việc xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
(1996- 2009). Từ đó đề xuất những kiến nghị cơ bản nhằm tiếp tục xây dựng
và phát huy dân chủ ở nước ta.
- Nhiệm vụ
t m c ích trên, khóa lu n s t p trung gi i quy t nh ng nhi m v sau:
- Luận chứng về vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc xây
dựng và phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay.
- Tìm hi u, ánh giá th c tr ng th c hi n dân ch trong giai o n 1996-2009.
- Rút ra một số kinh nghiệm và đề xuất một số kiến nghị nhằm xây
dựng và phát huy dân chủ trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hóa đất nước.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- D a trên nh ng v n
chung v lí lu n và th c ti n ho t n g c a
n g C ng s n Vi t Nam, tác gi t p trung nghiên c u v m i quan h gi a
n g C ng s n Vi t Nam và vi c xây d ng và phát huy dân ch xã h i ch
ngh a.
- Từ thực tiễn đổi mới và yêu cầu đổi mới đặt ra hiện nay của đất nước,
tác giả tìm hiểu thực trạng việc xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa (1996-2009), qua đó rút ra những kinh nghiệm và những kiến nghị
nh m xây d ng và phát huy dân ch trong giai o n cách m ng m i

n c ta.

5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận Mác xít, tác giả sử dụng phương pháp
logich-lịch sử, phân tích, tổng hợp để triển khai đề tài.
6. Đóng góp khoa học của đề tài

8


- Khóa luận góp một phần nhỏ làm rõ thêm bản chất, nội dung dân chủ
xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa của việc xây dựng phát huy dân chủ trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta.
- Khóa luận bước đầu tập hợp, sắp xếp, hệ thống các tài liệu liên quan
đến vấn đề xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm hai chương :
Chương 1: Dân chủ xã hội chủ nghĩa-một số vấn đề lí luận và thực tiễn
Chương 2: Đảng lãnh đạo xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ

nghĩa (1996-2009)

9


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
DÂN CH XÃ H I CH NGHA - M T S V N

LÍ LU N VÀ TH C TI N

1.1 Dân chủ
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện khá sớm trong nền văn minh nhân loại vào
khoảng thế kỉ thứ VII-VI trước công nguyên và người đầu tiên đặt nền móng
cho nguyên lí dân chủ là nhà triết học cổ đại Xô lông, dân chủ là một thuật
ngữ chính trị-xã hội mang tính nhiều nghĩa, nhiều tầng bậc. Khi đi vào thực
tế, dân chủ biểu hiện ra ở tính đa dạng của các hình thái lịch sử, với sự phong
phú của nội dung, bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con
người. Xuất phát từ một từ Hy Lạp cổ đại-Democratos (Demos là nhân dân,
Cratos là quyền lực), “Dân chủ” có nghĩa là “quyền lực nhân dân” hay là
“quyền lực của nhân dân”. “Quyền lực” này bao quát một phạm vi rất rộng.
Dân chủ có nghĩa là “toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân”.
Trong quan niệm dân chủ của Hy Lạp cổ đại thì nhân dân hay dân
chúng chỉ bao gồm những công dân hay dân tự do, trong đó không có những
người nô lệ và những người con trai vị thành niên. Dẫu rằng thành bang Aten
được coi là dân chủ nhất, thì dân chúng vẫn là thiểu số, là ít ỏi trong cộng
đồng dân cư. Thậm chí nhân dân lao động chỉ là nô lệ.
Thuật ngữ dân chủ với nội dung cơ bản là dân chúng nắm chính quyền
chỉ còn là thuật ngữ lịch sử trong thời Trung đại dưới chế độ phong kiến quân
chủ chuyên chế. Cho đến thế kỉ XVII với sự phát triển của các thành phố, các

trung tâm kinh tế công thương nghiệp lớn, sự hình thành các quốc gia dân tộc,
sau cách mạng tư sản Anh, đặc biệt là cách mạng Mỹ, người ta lại quay lại
thuật ngữ dân chủ và lần này khái niệm dân chúng được mở rộng từ dân tự do
tới tất cả các công dân trong từng quốc gia.
Nhà nước và dân chủ là hai đối tượng gắn bó với nhau khi xem xét một
chế độ dân chủ. Tuy nhiên chúng có sự độc lập tương đối. Lịch sử đã chứng
minh rằng đã có thời kì dài nhà nước tồn tại trong sự thiếu vắng dân chủ. Điển
10


hình như giai đoạn phong kiến Trung cổ ở Tây Âu hay giai đoạn phong kiến
tâp quyền ở châu Á. Thực tế ấy cho thấy xuyên suốt chiều dài lịch sử của xã
hội có giai cấp, nhà nước và nhân dân vẫn luôn tồn tại; song dân chủ không
phải lúc nào cũng hiện diện cùng với hai chủ thể trên.
Xem xét toàn bộ sự hình thành và phát triển của dân chủ nói chung và
chế độ dân chủ nói riêng cho thấy, để có dân chủ thì nhân dân phải là chủ thể
của quyền lực. Nếu sự tương tác diễn ra theo chiều ngược lại thì sẽ xuất hiện
mặt đối lập của dân chủ là chuyên chế.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
là mặt bản chất chủ yếu, chuyên chính với các thế lực thù địch là công cụ,
phương tiện bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Vì vậy
dân chủ đã trở thành mục tiêu và nguyên tắc của mọi hoạt động xã hội, mà
giai cấp công nhân và chính đảng tiền phong của nó phải quán triệt và chỉ đạo
thực hiện nhằm hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân vào cuộc sống.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, dân chủ được hiểu là: “hình thức tổ
chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn
gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng
được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính
trị nhất định.”1
Dân chủ nói chung là quyền quyết định thuộc về đa số, nhưng đa số

cũng có trách nhiệm với thiểu số, cộng đồng đối với cá nhân. Dân chủ là
chính quyền thuộc về nhân dân, gần dân, do dân và vì dân. Dân chủ là quyền
tự do cá nhân trong phát triển, làm ăn, học tập, đấu tranh... mà pháp luật
không cấm và pháp luật phải bảo vệ các quyền công dân, công dân có quyền
và nghĩa vụ kèm theo.
1.1.1 Dân chủ tư sản.
Cơ sở kinh tế của nền dân chủ tư sản dựa vào chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu
1 . Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam,
Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam-Hà Nội, tr.653.

11


của xã hội, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội về kinh tế; và do
đó, nó thống trị xã hội cả về chính trị, tư tưởng.
Về một phương diện nào đó, giai cấp tư sản sử dụng dân chủ như là
một công cụ, một hình thức thống trị xã hội mang tính hai mặt của giai cấp tư
sản. Một mặt, giai cấp tư sản soạn thảo ra Hiến pháp, thành lập nghị viện và
các cơ quan đại diện khác, ban hành quyền phổ thông đầu phiếu (do áp lực
của nhân dân) và các quyền ''tự do'' chính trị mang tính hình thức; nhưng mặt
khác, giai cấp tư sản lại dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản, bằng mọi cách không
cho đông đảo quần chúng được hưởng đầy đủ những quyền lợi đó và không
được sử dụng các cơ quan đại diện do chính quần chúng đã bầu ra.
V.I. Lê-nin cũng chỉ ra rằng: trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, chế độ
dân chủ trong nhà nước tư sản đã chuyển sang một chế độ phản động chính
trị. Thực tế hiện nay có hai hình thức dân chủ đối lập nhau là: dân chủ tư sản,
là thứ dân chủ giả hiệu, bị cắt xén, và dân chủ vô sản.
1.1.2 Dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ vô sản, dân chủ nhân dân, là những

khái niệm đồng nghĩa, phản ánh cùng một nội dung, cùng một bản chất. Đó là
chế độ dân chủ của nhân dân do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản lãnh đạo, dựa trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Tùy theo hoàn cảnh của mỗi quốc gia, dân
tộc và do nội dung của cuộc cách mạng ở những giai đoạn cụ thể mà vận dụng
những tư tưởng trên cho phù hợp.
Dân chủ vô sản là dân chủ thực sự đối với đa số nhân dân, đối với đông
đảo quần chúng lao động, là một hình thức dân chủ mới. Mục đích cao nhất
của chế độ dân chủ vô sản, là đấu tranh giải phóng con người và toàn thể loài
người, xây dựng một xã hội không có giai cấp, không có áp bức bóc lột, mọi
người đều bình đẳng và tự do của mỗi người là cơ sở tự do của mọi người.
Cơ sở kinh tế của nền dân chủ vô sản là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Đó là điểm căn bản và là cơ sở để phân định sự khác nhau về bản chất của

12


nền dân chủ vô sản với nền dân chủ tư sản.
Ở nước ta, tiếp cận dân chủ ở hai nguyên tắc cốt yếu là: dân chủ gắn
với phát triển và quan hệ giữa dân chủ với chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng phấn
đấu của Hồ Chí Minh, của Đảng và chúng ta là xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, hình thức cao nhất của của dân chủ đương đại ở Việt Nam. Nó sẽ
phát huy triệt để những ưu điểm, tích cực và khắc phục, loại bỏ tiêu cực,
khuyết điểm của các chế độ dân chủ trước nó, nhất là dân chủ tư sản. Giữa
dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản khác nhau về bản chất giai cấp
nhưng các biểu hiện quyền tự do dân chủ về con người tương tự nhau, như Hồ
Chí Minh khẳng định đó là: “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc” và con người “phải luôn luôn được tự do bình đẳng về quyền
lợi”. “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân

chủ của đại đa số nhân dân, gắn với công bằng xã hội, chống áp bức bất công,
được thực hiện trong thực tế trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm.
Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo nền dân chủ đó” 2. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa mang trong bản thân nó bản chất tốt đẹp, nó tạo những điều kiện tốt
cho con người có tự do, bình đẳng, có nhân cách độc lập. Tuy nhiên, có lúc
người ta đã nhân danh chủ nghĩa tập thể, nhân danh cộng đồng, đại diện
quyền lợi chung để lạm quyền, chuyên quyền, đè bẹp tự do cá nhân. Đây là
mặt rất cần chú ý. Nếu chúng ta không phòng ngừa chu đáo, thì sẽ dẫn đến
nguy cơ mất dân chủ, vi phạm quyền tự do, dân chủ cơ bản của nhân dân,
cuối cùng đi đến kết cục sụp đổ như chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông
Âu trước đây.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực, tuy hiện đang gặp khó khăn trên con đường
phát triển, nhưng nó vẫn có sức thu hút mạnh mẽ đối với con người. Vì nó thể
hiện một xu hướng phát triển khách quan, phản ánh ước mơ của con người là
2 . Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam,
Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, tr. 653.

13


vươn đến tự do, là sự khẳng định và xây dựng vị thế làm chủ của con người
đối với thế giới (tự nhiên, xã hội). Chính vì vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa là
mục đích, đồng thời là điều kiện để con người chiếm lĩnh cái tất yếu, sáng tạo
và cải tạo xã hội để đi tới tự do. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh và
Đảng ta có niềm tin tuyệt đối: nhân loại nhất định đi tới chủ nghĩa xã hội,
không gì ngăn cản nổi.
1.2 Chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã
hội chủ nghĩa
1.2.1 Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, đều nhận thức sâu sắc vai trò của nhân
dân trong tiến trình lịch sử và cho rằng một nền dân chủ thực sự phải gắn với
sự nghiệp của nhân dân. Nhân dân trong quan niệm của các ông là “tuyệt đại
đa số nhân dân” và “dân chủ là sự thống trị của đa số”. “Chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể xây dựng được khi quần chúng đông đảo gấp 10, gấp 100 lần trước khi
tự bắt tay vào việc xây dựng nhà nước và một đời sống kinh tế mới” 3. “Một
nước mạnh là nhờ sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần
chúng biết rõ tất cả mọi cái, quần chúng có thể phán đoán về mọi cái và đi
vào hành động một cách có ý thức”4
Khi viết tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà
nước, Ph.Ăngghen đã bàn về vấn đề dân chủ của chế độ thị tộc, trong đó, ông
đã trích lại lời của Moócgan: “Toàn thể các thành viên của thị tộc đều là
những người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự do cho nhau, họ đều có những
quyền cá nhân ngang nhau-cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự đều không đòi
hỏi những đặc quyền ưu tiên nào cả; họ kết thành một tập thể thân ái, gắn bó
với nhau bởi những quan hệ dòng máu. Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao
giờ được nêu thành công thức nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của thị
tộc.”5. Như vậy, mặc dù những giá trị dân chủ đã có mặt gần hết trong đời
3 . V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, t.37, tr. 523.
4 . V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, t.45, tr. 23.
5. C.Mác và Ph.Ăgghen (1995) Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.21, tr. 130.

14


sống của chế độ thị tộc, song không vì thế mà có thể khẳng định rằng: Chế độ
dân ch ã t n t i tr ng thái xã h i nguyên th y. i u này, n g ghen ã
gi i thích r t rõ: h i ngh th t c ã s d ng c m t dân ch nh ng ch y u
cho ng i c sau này hình dung c v c ch và ho t n g c a h i
ngh th t c lúc ó .

Luận điểm trên của Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin khẳng định khi
nghiên cứu về vấn đề dân chủ, nhất là mối quan hệ giữa dân chủ với nhà
nước: “trong những nhận định thông thường về nhà nước, người ta luôn luôn
phạm một sai lầm mà Ph.Ăngghen đã căn dặn phải đề phòng … Sai lầm ấy là:
người ta luôn luôn quên rằng thủ tiêu chế độ dân chủ và nhà nước tiêu vong
cũng là chế độ dân chủ tiêu vong”6.
Lênin khẳng định trong xã hội có giai cấp, không có một nền “dân chủ
chung chung”, “dân chủ thuần túy”. Dân chủ bao giờ cũng có tính giai cấp,
phản ánh lợi ích giai cấp. Người cho rằng khi xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa phải luôn luôn đặt câu hỏi: dân chủ cho ai và cho cái gì? tự do đối
với ai, vì ai và vì cái gì? Lênin nhấn mạnh bản chất giai cấp của dân chủ ngay
cả khi dân chủ hàm chứa nội dung về tự do, bình đẳng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá về chế độ dân chủ tư sản coi đó là một
tiến bộ lớn về mặt lịch sử so với chế độ quân chủ chuyên chế và khẳng định
“phải lợi dụng chế độ dân chủ tư sản”. Quan điểm này nhắc nhở chúng ta khi
xem xét dân chủ không chỉ căn cứ vào tính giai cấp mà còn phải đứng trên
quan điểm lịch sử và phải có thái độ biện chứng, khoa học đối với những
thành tựu dân chủ với tính cách là những giá trị liên tục.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá cao tính ưu việt của dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Chế độ dân chủ vô sản so với bất kì chế độ dân chủ tư sản nào cũng
“dân chủ hơn gấp triệu lần”. Xét về mặt lôgic, chủ nghĩa xã hội và nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là sự thay thế hợp quy luật, có trình độ và chất lượng
cao hơn chủ nghĩa tư bản và nền dân chủ tư sản. Nhưng về mặt thực tiễn lịch
sử thì chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa ở trình độ thuần
6. V.I.Lênin (1981) Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, t.33, tr. 101.

15


thục, còn đang trong quá trình hình thành và phát triển để trở thành một hiện

thực phổ biến.
Lênin cho rằng cần phải “phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những
hình thức của sự phát triển ấy trong thực tiễn”7.
Trong nghiên cứu nền văn minh nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đưa ra những phân tích khoa học mang tính duy vật lịch sử. Hai ông cho rằng,
cùng với sự phát triển của sức sản xuất và văn hóa, loài người từ ngu muội, dã
man đã dần hướng tới văn minh. Mọi thành quả văn minh do con người sáng
tạo ra đều thuộc về toàn thể nhân loại. Dân chủ, pháp chế, tự do, bác ái, nhân
quyền...không phải là sở hữu riêng của nghĩa tư bản mà là thành quả văn
minh của toàn thế giới được hình thành trong quá trình lịch sử lâu đời, cũng là
quan niệm giá trị mà loài người theo đuổi.
Từ việc nắm vững và phân tích thực tế lịch sử đã diễn ra trong sự phát
triển dân chủ của nhân loại, Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định chế độ dân
chủ XHCN là sự thay thế lịch sử đối với chế độ dân chủ tư sản, là nấc thang
mới trên chặng đường phát triển của xã hội loài người. Với nền dân chủ
XHCN, nhân dân thực sự được giải phóng, thực sự là người chủ xã hội và làm
chủ mọi quyền lực trong xã hội. Chỉ có trong chế độ dân chủ vô sản, quyền
làm chủ của nhân dân mới được phát huy mạnh mẽ. Lênin khẳng định: “Dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa, nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên thủy tất nhiên
sẽ sống lại, vì lần đầu tiên trong lịch sử những xã hội văn minh, quần chúng
nhân dân vươn lên tham gia một cách độc lập không những vào việc bầu cử
và tuyển cử, mà cả vào việc quản lý hàng ngày nữa”. Chủ nghĩa Mác-Lênin
chỉ rõ: bản chất chính trị của nền dân chủ XHCN là sự lãnh đạo chính trị của
giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với toàn xã hội, nhưng không
phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân, mà
chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích cho toàn thể nhân dân, trong đó
có giai cấp công nhân.
7 . V.I Lênin (1976), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, t.33, tr. 97.

16



1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Hồ Chí Minh không có một tác phẩm chuyên khảo nào bàn sâu về dân
chủ. Song trong các tác phẩm của Người thuật ngữ dân chủ được dùng trên
1.600 lần với những ý nghĩa không hoàn toàn giống nhau, tùy theo hướng tiếp
cận và phát triển tư duy của Người.
Vậy quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ như thế nào?
Theo Người, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục
tiêu và động lực của phát triển xã hội; dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ;
thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn để
giành thắng lợi.
Hồ Chí Minh đặt câu hỏi trước hàng vạn quần chúng: “dân chủ là thế
nào” và Người tự trả lời: “là dân làm chủ” 8. Như vậy, theo Hồ Chí Minh thì
dân chủ là dân làm chủ khi nhân dân Việt Nam đã là chủ đất nước của mình,
nghĩa là dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ. Chỉ khi vị trí là chủ của nhân
dân được xác định, thì vai trò làm chủ của dân mới được xác lập, tức là dân
chủ phải thể hiện bằng hoạt động thực tiễn. Trong thực tế không phải không
có trường hợp người dân được quyền làm chủ đất nước, là chủ nhà nước
nhưng không biết phải làm chủ thế nào, thậm chí không được làm chủ. Ngay
ở nước Pháp, nước Mỹ những “cái nôi” của cách mạng dân chủ tư sản thì
“Tiếng là cộng hòa và dân chủ, kì thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài
thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng
còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức” 9. Chính
vì vậy, Hồ Chí Minh quyết tâm “nước ta phải đi đến dân chủ thực sự” 10 nghĩa
là “bao nhiêu quyền hạn đều của dân” 11, “làm sao cho nhân dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”12
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ là dân làm chủ là một định
8. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.8, tr.375.
9 . Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Sđd, t.2, tr.274.

10 . Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Sđd, t.7, tr.25.
11 . Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Sđd, t.5, tr.698.
12 . Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Sđd, t.12, tr.223.

17


nghĩa dân chủ cô đọng, súc tích, vừa khoa học, hiện đại vừa kế thừa và phát
triển những hiểu biết của nhân loại về dân chủ, phản ánh đúng thực chất dân
chủ của thời đương đại.
Quan niệm và thái độ đối với dân là một tiêu chí cơ bản để đánh giá giá
trị của một học thuyết dân chủ. Cái đặc sắc, cái đã đưa tư tưởng dân chủ của
Hồ Chí Minh vượt lên trên tư tưởng dân chủ của các nhà Nho duy tân cùng
thời, mang tầm thời đại, chính ở quan điểm dân vừa là chủ vừa làm chủ.
Hồ Chí Minh cũng nói dân là quý, dân là gốc, dân là chủ, như cách nói
của nhà Nho duy tân Việt Nam. Cách nói theo kiểu duy danh định nghĩa này
nó phù hợp với trình độ dân trí người Việt Nam, của cư dân nông nghiệp. Nói
dân chủ tức là dân là chủ, người dân dễ hiểu, dễ hình dung.
Theo Người, dân không chỉ là gốc mà Đảng và Nhà nước phải lấy dân
làm gốc. Bởi vì, dân là gốc của nước mang tính khách quan, tính quy luật,
không có dân làm gì có nước, dù người cầm quyền có muốn hay không dân
vẫn là gốc của nước. Do vậy, người lãnh đạo dân, quản lí xã hội muốn đúng
đắn và thành công phải biết vận dụng đúng cái khách quan đó, nghĩa là phải
lấy dân làm gốc. Theo Hồ Chí Minh: “Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân”. Phải chăm sóc cái gốc nhân dân ấy bền vững.
Để gốc dân vững mạnh, Người yêu cầu phải chăm lo, ưu tiên cho các tầng lớp
nhân dân lao động. Họ là số đông có lực lượng, có khả năng và giữ vị trí chủ
yếu tạo ra của cải cho xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, “mọi lợi ích là vì
dân”, “giải quyết vấn đề kinh tế và tài chính thế nào cho hợp lí, cho lợi dân”,
để thu phục, tập hợp đoàn kết dân. Bởi vì “trong thế giới không gì mạnh bằng

lực lượng đoàn kết của nhân dân”13. Có thể nói, quan điểm lấy dân làm gốc
của Người từ ý thức đạo đức đã phát triển thành ý thức chính trị, thành
nguyên tắc pháp trị. Đã là nguyên tắc pháp trị thì mọi thành viên xã hội, từ
dân thường đến người cầm quyền, lãnh đạo đều phải tuân theo, phải lấy dân
làm gốc. Nghĩa là phải “đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi cho dân”.
13 . Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 276.

18


Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, dân chủ không chỉ là động lực cho
người dân chiến đấu giành lại quyền cơ bản là độc lập cho dân tộc mà dân chủ
còn là khát vọng vươn lên để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, tự do cho
mỗi con người. Theo Hồ Chí Minh, độc lập của đất nước phải gắn liền với
hạnh phúc, tự do của dân: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc
tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì”14.
Một nước có hơn 9 phần 10 dân cư là nông dân, thì tiêu chí cụ thể phân
định dân chủ mới và dân chủ cũ, theo Hồ Chí Minh, là “bao giờ ở nông thôn,
người nông dân thực sự nắm chính quyền, người nông dân được giải phóng
thì mới là dân chủ thực sự”15.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ là một quan niệm hiện đại.
Ngày nay, chúng ta cũng hiểu dân chủ là mọi quyền lực thuộc về nhân dân và
quyền lực được hiểu rộng rãi gồm cả quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và
quyền lực văn hóa, tinh thần (quyền lực trí tuệ)...Hồ Chí Minh không chỉ nói
dân chủ là dân nắm quyền hành mà còn nói nhiều dân làm chủ và lí giải nội
dung làm chủ một cách toàn diện và sâu sắc: từ làm chủ nhà nước, làm chủ
ruộng đồng, nhà máy, xí nghiệp (tư liệu sản xuất)...đến làm chủ về văn hóa,
tinh thần, nghĩa là dân chủ trong hiện thực cho mọi người và trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Dân làm chủ cái gì, làm chủ như thế nào, làm chủ bằng cách nào, lời

đáp của các câu hỏi trên nằm trong những thiết chế và cơ chế dân chủ, nghĩa
là những cơ chế và thiết chế ấy phải được xây dựng và thể hiện một cách đầy
đủ và rõ ràng để bảo đảm thực thi quyền làm chủ của người dân. Nói đến dân
chủ mà không có thiết chế bảo đảm và cơ chế thực hiện thì dân chủ cũng
không thể trở thành hiện thực trong cuộc sống.
1.3 Sự cần thiết xây dựng và phát huy dân chủ trong thời kì đẩy

mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
1.3.1 Thực trạng xây dựng và phát huy dân chủ ở nước ta trước 1996
14 . Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 56.
15 . Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 365.

19


Chủ trương của Đảng
Trong thời kì cách mạng dân tộc dân chủ (1945-1954)
Dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân ta không được hưởng
những quyền tự do, dân chủ cơ bản, cái gọi là “dân chủ” mà thực dân pháp áp
đặt ở nước ta chỉ là cái vỏ giả hiệu để chúng lừa bịp nhân dân ta, Theo Hồ Chí
Minh thì: dưới chiêu bài dân chủ, đế quốc pháp đã đem vào Việt Nam tất cả
các chế độ trung cổ đáng nguyền rủa, kể cả chế độ thuế muối; rằng người
nông dân Việt Nam bị hành hình vừa bằng lưỡi lê của nền văn minh tư bản
chủ nghĩa, vừa bằng cây thánh giá của hội thánh đĩ bợm. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời năm 1930, lãnh đạo nhân dân ta làm nên cuộc cách mạng Tháng
Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã biến đổi vị trí
của nhân dân ta từ nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh
của mình.
Ngày 8 tháng 9 năm 1945 Hồ Chủ tịch kí sắc lệnh số 14 về mở cuộc
tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Ngày 9 tháng 11năm 1946, thông qua Hiến pháp

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau cuộc họp ngày 3 tháng 9 năm 1945 của
Hội đồng chính phủ, một loạt sắc lệnh và nghị định ra đời như: sắc lệnh xóa
bỏ thuế thân, thanh toán nạn mù chữ, mở bình dân học vụ, thông tư về giảm
tô 25%, giảm 20% thuế ruộng đất, nhằm khắc phục khó khăn, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
Trong những năm kháng chiến, những chính sách dân chủ của Đảng và
Chính phủ vẫn được thực hiện ở những vùng tự do và những vùng mới được
giải phóng. Tháng 11/1953, Đảng và Chính phủ chủ trương tiến hành cải cách
ruộng t , xóa b quy n chi m h u ru ng t phong ki n, a l i quy n làm ch
cho nông dân v ru ng t , th c hi n ch tr n g ó n g ã t o ra m t n g l c
tr c ti p cho cu c kháng chi n vào th i i m có ý ngha quy t nh.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng, nhưng miền Nam lại bị Mỹ-Ngụy thống trị. Cách mạng nước ta đồng
thời phải tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã

20


hội ở miền Bắc, tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hội nghị Bộ
Chính trị tháng 9 năm 1954 đã chỉ rõ: “Trong một thời gian nhất định, nhiệm
vụ chung của Đảng ta là đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện
hiệp định đình chiến và củng cố hòa bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng
đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường quân đội nhân dân để củng cố
miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền
Nam, nhằm củng cố hòa bình thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân
chủ trong cả nước”.
Thời kì cách mạng xã hội chủ nghĩa (1954-1985)
Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc bước vào giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Đó là quá trình phát triển tổng hợp của ba cuộc cách mạng: cách
mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa.

Nghị quyết Đại hội III của Đảng viết: Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa
nhằm cải tạo những quan hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa thành quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong đó mấu chốt là cải biến chế độ sở hữu cá thể
và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành các hình thức
khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, mở đường cho sản xuất phát
triển. Nội dung cơ bản và trước hết của cách mạng về quan hệ sản xuất là xác
lập quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động đối với tư liệu sản xuất.
Tháng 12/1976, Đại hội lần thứ IV của Đảng đã xác định đường lối
chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: “Nắm vững chuyên chính
vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học
-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học-kỹ
thuật là then chốt...”16. Đại hội cũng đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế
“đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”.
16 . Đảng cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 67.

21


Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982) chủ trương tiếp tục tìm tòi cơ chế
quản lý mới cho thích hợp, xóa bỏ cơ chế cũ; điều chỉnh lại cơ cấu, quy mô,
tốc độ và các bước đi của công nghiệp hóa, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu; đưa ra khái niệm chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Mười năm đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi
mới (1986-1996)
Đại hội VI năm 1986 của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới, với tinh
thần thái độ nghiêm túc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ

sự thật”17, Đại hội phân tích sâu sắc 6 nguyên nhân chủ quan, nêu rõ những
sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động của Đảng về công tác quản lí và xây
dựng bộ máy Nhà nước. Trên cơ sở đó, Đại hội đã rút ra 4 bài học, trong đó
bài học đầu tiên là: “ trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt
tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động”18. Báo cáo chính trị tại Đại hội còn phân tích thêm: “Bài học
lớn rút ra trong những năm qua là trong điều kiện Đảng cầm quyền, phải đặc
biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân; tiến hành thường
xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa quan liêu. Mỗi đảng
viên cộng sản phải thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. Mọi chủ trương chính sách của Đảng phải xuất phát
từ lợi ích nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy
được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng...”. Với những căn cứ xác đáng
đó, Đảng ta đã từng bước đề ra phương hướng sát hợp trong việc đổi mới hoạt
động của Nhà nước, xây dựng nhà nước đáp ứng với yêu cầu của cách mạng
trong giai đoạn cách mạng mới.
Đại hội VII của Đảng thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội” đã xác định nhiệm vụ “Sửa đổi hệ thống
tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan luật
17 . Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
tr. 12.
18 . Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Sđd, tr. 29.

22


pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lí của Nhà nước.
Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn
trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ
chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,

lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân”19.
Thực hiện Nghị quyết và Cương lĩnh thông qua tại Đại hội VII, Hội
nghị Trung ương lần thứ hai đề ra chủ trương về “sửa đổi Hiến pháp, cải cách
một bước bộ máy Nhà nước và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước”. Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII, ngày 15-4-1992, đã thông qua
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Quán triệt
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, nhiều nội dung cơ bản
của Hiến pháp 1992 đã kế thừa, phát triển Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959
về xây dựng nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước.
Hội nghị Trung ương Tám (khóa VII) tháng 1 năm 1995, đã tập trung
vào chủ đề “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”. Nghi quyết
đã đề ra 3 nhiệm vụ, giải quyết 3 vấn đề căn bản của nền hành chính Nhà
nước để phục vụ nhân dân tốt hơn. Đó là, 1. Cải cách thể chế của nền hành
chính; 2. Chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống
hành chính; 3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ngang tầm
với nền công vụ. Nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư
pháp được đề ra cụ thể. Đặc biệt Nghị quyết đã đề ra nội dung, biện pháp phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân. “Hoàn thiện những quy định về bầu cử,
ứng cử, hiệp thương giới thiệu người ứng cử. Tăng thêm đại biểu là người
ngoài Đảng vào các cơ quan dân cử; Bảo đảm quyền của nhân dân giám sát
hoạt động của Nhà nước; Cải tiến chế độ tiếp xúc, báo cáo của đại biểu Quốc
hội và Hội đồng nhân dân với cử tri; Phát huy vai trò của nhân dân tham gia
quản lí nhà nước, vừa nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện vừa mở
19 . Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Các nghị quyết Trung ương Đảng 1996-1999, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr. 309-310.

23



rộng và phát huy chế độ dân chủ trực tiếp, nhất là ở cơ sở...” 20. Nghị quyết
Hội nghị trung ương Tám (khóa VII) là bước đột phá trong việc đổi mới hệ
thống chính trị mà trọng tâm, trụ cột là nhà nước. Nhiệm vụ trọng tâm cải
cách một bước nền hành chính nhà nước, chính là đáp ứng yêu cầu bức xúc
của nhân dân trong các giao dịch dân sự, phát triển kinh tế, tổ chức đời sốngxã hội trong công cuộc đổi mới.
Thành tựu và hạn chế :
Trong thời kì cách mạng dân tộc dân chủ (1945-1954)
Về kinh tế: Nạn đói được đẩy lùi, đời sống nhân dân dần được ổn định.
Các ngành kinh tế công thương nghiệp, giao thông vận tải dần được phục hồi.
Về chính trị: Lần đầu tiên tất cả công dân Việt Nam được thực sự thực
hiện quyền ứng cử và bầu cử của mình để bầu ra Quốc hội của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, ở đây Quốc hội đã xây dựng xong Hiến pháp, trong
đó chứa đựng những quyền dân chủ cơ bản của nhân dân.
Về văn hóa, tư tưởng: Dưới chế độ cũ hơn 90% nhân dân bị mù chữ, là
cản trở to lớn để thực hiện dân chủ của nhân dân. Đảng và Hồ Chủ tịch phát
động phong trào “bình dân học vụ” để xóa nạn mù chữ, coi đó là một trong ba
thứ giặc (giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm) phải tiêu diệt. Từ năm 1945 đến
năm 1954, có 10,5 triệu người đã thoát nạn mù chữ21
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa (1954-1985)
Từ tháng 7-1954 miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Trong những năm đầu miền Bắc tiến hành khôi phục kinh tế, tuy có sai
lầm trong cải cách ruộng đất nhưng căn bản đã xác lập được quyền sở hữu
ruộng đất cho nông dân. Từ làm chủ về kinh tế, nông dân miền Bắc có điều
kiện để làm chủ về chính trị. Chính quyền được củng cố và kiên quyết trấn áp
những phần tử phản động định lợi dụng sai lầm của cải cách ruộng đất để phá
hoại cách mạng. Từ năm 1958 tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa với mong
20 . Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương khóa VII.
Lưu hành nội bộ, Hà Nội, tr. 29-30.
21 . Việt Nam con số và sự kiện 1945-1989 (1990), Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 69.


24


muốn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hơn hẳn nền dân chủ tư sản,
nhưng mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung đã bộc lộ nhiều khuyết tật, làm suy
yếu nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Sau ngày đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước bước
vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1975-1986), thực hiện nghị quyết
Đạu hội IV chúng ta đạt được một số thành tựu:
Về chính trị, thành tựu nổi bật là sự thống nhất về mặt nhà nước, ngày
25-4-1976 nhân dân cả nước phấn khởi đi bỏ phiếu bầu các đại biểu vào Quốc
hội của n c Vi t Nam th ng nh t, chính quy n nhân dân c c ng c và xây
d ng t Trung n g xu ng a ph n g theo nguyên t c t p trung dân ch .
Về kinh tế, Đảng và nhân dân ta ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh,
đẩy mạnh sản xuất, giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1976 là 65343,8
triệu đồng thì năm 1978 là 78299,8 triệu đồng22, trong nông nghiệp, hàng
ngàn hécta ruộng đất bị bỏ hoang trong chiến tranh, được rà phá bom mìn và
giao cho nông dân sản xuất.
Sự nghiệp văn hóa giáo dục, y tế phát triển mạnh. Nhà nước đảm bảo
cho con em nhân dân đi học không mất tiền, khám chữa bệnh miễn phí...; xây
dựng nền văn hóa mới, đấu tranh chống tàn dư của văn hóa phản động MỹNgụy để lại...
Bên cạnh đó cũng có những hạn chế:
Chúng ta đã phạm nhiều sai lầm khuyết điểm, dẫn đến vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân, vi phạm dân chủ và công bằng xã hội.
Biểu hiện trong kinh tế: Do không được quyền làm chủ thực sự về tư
liệu sản xuất dẫn đến không có quyền làm chủ trong quá trình sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm, người lao động trở nên thụ động, ỷ lại, không tích cực sản xuất.
Trong sản xuất nông nghiệp, mô hình hợp tác xã của miền Bắc trước đây dựa
trên phương thức tập thể hóa triệt để về tư liệu sản xuất đã bộc lộ nhiều
khuyết tật, sản xuất không phát triển, đời sống của nhân dân giảm sút, chế độ

phân chia sản phẩm theo định suất đã triệt tiêu động lực trực tiếp thúc đẩy
22. Việt Nam 1975-1990, thành tựu và kinh nghiệm (1991), Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 36.
25


×