Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa của việc nghiên cứu đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.17 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
___***___

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa của
việc nghiên cứu đó trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên.

Họ và tên

: Nguyễn Thị Ngọc Khuyên

Mã số sinh viên

: 23

Lớp TC

: Triết học Mác -

Lênin(121)_09.
GV hướng dẫn

: T.S Lê Thị Hồng

Vĩnh Phúc, ngày 12 tháng 12 năm 2021

0


0


LỜI NĨI ĐẦU
Xã hội lồi người đã tồn tại hơn 2 triệu năm, triết học
cũng đã ra đời từ khoảng thế kỷ VII đến thế kỷ VI TCN ở các
quốc gia văn minh cổ đại như: Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc. Và
cho đến nay, có thể nói, Triết học Mác được phát triển và gắn
chặt với những thành tựu khoa học, có quan niệm đúng đắn và
thực tiễn đối với đời sống xã hội. Triết học Mác là một trong ba
bộ phận của chủ nghĩa Mác (triết học Mác, kinh tế chính trị MácLênin, chủ nghĩa xã hội khoa học). Trong đó, triết học Mác đã tìm
ra chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội (chủ nghĩa duy vật
lịch sử). Trước triết học Mác, các nhà triết học đã có những tư
tưởng có giá trị kế thừa, song vẫn còn những quan niệm sai lầm.
Các nhà triết học duy tâm quy tính tính cực của con người vào
hoạt động tinh thần và tìm biện pháp cải tạo xã hội ở lĩnh vực
tinh thần. Còn các nhà triết học duy vật tuyệt đối hóa vai trị của
hồn cảnh địa lý trong sự phát triển của loài người hoặc áp dụng
quy luật tự nhiên, sinh học một cách máy móc vào đời sống xã
hội, bỏ qua tính thực tiễn. Vì thế, phát kiến lớn tìm ra chủ nghĩa
duy vật lịch sử đã giúp con người có nhận thức đúng đắn về thế
tự nhiên, sự vận động của xã hội, tư duy của lồi người.
Trải qua q trình phát triển và tiến hóa khơng ngừng, lồi người
đã rút ra được những kinh nghiệm quý báu, kế thừa những
thành tựu của thế hệ đi trước. Cũng giống như hình thái kinh tếxã hội rằng, mỗi thời đại lại có một hình thái kinh tế-xã hội phản
ánh đúng, phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước và thời
đại thì ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Phần nội dung dưới
đây sẽ đi sâu vào tìm hiểu đề tài: ‘’ Quan điểm duy vật lịch sử về
mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý
nghĩa của việc nghiên cứu đó trong nghiên cứu, học tập của sinh

viên’’.
Hiểu rõ được mối quan hệ biện chứng này, bạn khơng
chỉ giải thích được rất nhiều hiện tượng trong đời sống xã hội mà
còn giúp con người nhận thức được trách nhiệm của mình đối
với xã hội.

2

0

0


3

0

0


I,Tìm hiểu chung về chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1, Khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử (chủ nghĩa duy vật biện chứng về
xã hội) là khoa học triết học về xã hội và giải quyết một cách
duy vật các vấn đề cơ bản của triết học khi vận dụng nó vào lịch
sử. Hay nói cách khác, chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống
quan điểm duy vật biện chứng về xã hội, là kết quả của sự vận
dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
vào các hiện tượng của đời sống xã hội, vào nghiên cứu xã hội,
nghiên cứu lịch sử xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử giải thích sự tiến hóa của xã hội
lồi người dựa vào trình độ sản xuất. Trình độ sản xuất thay đổi
làm quan hệ sản xuất cũng thay đổi, từ đó những mối quan hệ
xã hội thích ứng với quan hệ sản xuất và những tư tưởng nảy
sinh trong quan hệ xã hội đó cũng thay đổi theo kéo theo hệ
thống pháp lý và chính trị.
2. Vai trị của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một phát kiến vĩ đại của triết học
Mác, tạo nên bước ngoặt cơ bản trong sự phát triển tư tưởng xã
hội lồi người. Nó đặt ra một nền tảng khoa học logic, vững
chắc, thay đổi tư tưởng, quan điểm duy tâm và phương pháp tư
duy siêu hình trong nhận thức về lịch sử- xã hội trước đó. Đây là
cơ sở lý luận khoa học để Đảng cộng sản dựa vào đó đánh giá,
phân tích tình hình thời thế và xác định những đường lối chiến
lược đúng đắn trong tình hình mới.
Trong lĩnh vực qn sự vơ sản, chủ nghĩa duy vật là cơ sở
thế giới quan và phương pháp luận trực tiếp cho nền khoa học
quân sự, góp phần hình thành và phát triển các phương pháp
nghiên cứu khoa học cho cán bộ trong quân đội, nâng cao trình
độ và là vũ khí sắc bén giúp họ đấu tranh tư tưởng và lý luận.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở khoa học cho đổi
mới tư duy về vấn đề bảo vệ Tổ Quốc, cơ sở để phát huy truyền
thống đấu tranh bảo vệ nước nhà.
4

0

0



3. Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu những quy luật
chung nhất của sự phát triển xã hội loài người cũng như các
mơn khoa học khác. Nhưng nhìn chung, nó đều phản ánh đúng
đắn đối tượng được nghiên cứu. Những phạm trù của chủ nghĩa
duy vật biện chứng về xã hội chỉ ra vị trí và vai trị của mỗi mặt,
nét cơ bản của xã hội, phản ánh những mối liên hệ khách quan,
tất yếu giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
II. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
1. Tồn tại xã hội.
a, Khái niệm của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con người
là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật chất xã hội, là các
quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các
quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên và quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ
cơ bản nhất.
b, Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Những yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội là phương thức sản
xuất vật chất, môi trường tự nhiên, dân số, mật độ dân số,…
trong đó thì phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quyết định.
Các Mác viết: ‘’phương thức sản xuất đời sống vật chất
quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị, tinh thần nói
chung .Không phải ý thức con người quyết định tồn tại của họ;
trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ’’. Qua đó,
Các Mác đã khắc phục được quan điểm chủ nghĩa duy tâm, xây
dựng quan điểm chủ nghĩa duy vật về mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội, vai trò quyết định của tồn tại xã hội lên

ý thức xã hội.

5

0

0


Tồn tại xã hội không chỉ quyết định ý thức xã hội mà cịn quyết
định hình thức và nội dung của nó. Mỗi yếu tố của tồn tại xã hội
phản ánh một hình thái ý thức xã hội khác nhau từ các góc độ
khác nhau và ngược lại.
2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội.
a, Khái niệm của ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là xã hội tự nhận thức về minh, sự tồn tại xã
hội của mình và về hiện thực xung quanh minh. Nó là mặt tinh
thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh
thần của xã hội.
b, Kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội (tình cảm, tâm trạng,
truyền thống, …) và hệ tư tưởng xã hội (quan điểm, học thuyết,
tư tưởng). Qua quá trình biện chứng phức tạp, thanh quả của
mối quan hệ hoạt động, tích cực của con người, học thuyết Mác
cho rằng: ‘’ Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội’’.
Ý thức xã hội khác với ý thức cá nhân. Trong khi ý thức cá
nhân mang tinh riêng lẻ, tách biệt từng cá nhân khác nhau và
phản ánh ít nhiều tồn tại xã hội nhưng không phải bao giờ cũng
đại diện cho quan điểm chung, phổ biến của cả cộng đồng thì ý
thức xã hội phản ánh dưới nhiều dạng khác nhau, chung nhất và

phổ biến nhất của cộng đồng con người.
Ý thức xã hội thông thường (ý thức thường ngày) là những
tri thức, quan niệm của con người hình thanh một cách trực tiếp
trong các hoạt động trực tiếp hằng ngày nhưng chưa được hệ
thống hóa, tổng hợp và khái quát hóa. Kiểu ý thức này ở trình độ
thấp, song lại phong phú hơn ý thức luận.
Ý thức luận (ý thức khoa học) là những tư tưởng, quan điểm
được tổng hợp, hệ thống hóa và khai quát thanh những học
thuyết, khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Kiểu ý thức này
phản ánh hiện thực một cách khách quan, sâu sắc, chinh xác và
có thể phản ánh vượt thời đại.
6

0

0


Tâm lý xã hội gồm tất thảy những tư tưởng, tình cảm, tâm
trạng, … của một người, một nhóm người hay cả cộng đồng lồi
người. Nó phản ánh trực tiếp và tụ phát những điều kiện sinh
hoạt hàng ngày nên chưa đủ sâu sắc để vạch ra những mối
quan hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang tính quy luật của
các sự vật và các quá trình xã hội.
Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã
hội, nó đi sâu vào bản chất của các mối quan hệ xã hội, là kết
quả của sự tổng kết, khai quát của hóa những kinh nghiệm xã
hội để hình thành những quan điểm, tư tưởng về chính trị, pháp
luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, …
III, Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng

giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
1, Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã
hội quyết định
Triết học Mác – Lênin khẳng định vật chất quyết định ý
thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại đối với vật chất, đó là mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng điều này
vào xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nhưng ý
thức xã hội lại tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Khẳng định
vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội – đó là
quan điểm duy vật về lịch sử - đây là công lao to lớn của C.Mác
và Ph.Ăngghen, các ông đã phát triển chủ nghĩa duy vật đến
đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên
trong lịch sử triết học, các ông đã giải quyết một cách khoa học
vấn đề hình thành và phát triển của ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội nấy. Đời sống tinh thần
của xã hội hình thành và phát triển dựa trên đời sống vật chất.
Vì vậy mà ý thức xã hội phản ánh và phụ thuộc vào tồn tại xã
hội. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm và
xu hướng biến đổi, phát triển của ý thức xã hội.Mỗi khi tồn tại xã
hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi, thì những tư tưởng
và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật (tức những ý thức xã
hội)… sớm muộn sẽ biến đổi theo. Vì thế, ở những thời kì lịch sử
7

0

0



khác nhau, chúng ta lại thấy những quan điểm, lí luận, tư tưởng
khác nhau, bởi đó là do xã hội loài người sinh sống trong những
điều kiện đời sống vật chất khác nhau.
Tồn tại xã hội không quyết định ý thức xã hội một cách đơn
giản, trực tiếp mà thường thông qua rất nhiều bước trung gian.
Trên thực tế, không phải bất kỳ quan điểm, tư tưởng hay lý luận
nào cũng phản ánh một cách trực tiếp và rõ ràng các quan hệ
kinh tế của thời đại. Và chúng ta cần phải xem xét tỉ mỉ, kĩ
lưỡng, đến cùng các mối quan hệ kinh tế của thời đại mới phản
ánh được ý thức xã hội. Do vậy, khi xem xét sự phản ánh của ý
thức xã hội đối với tồn tại xã hội, địi hỏi chúng ta phải có thái
độ biện chứng chứ khơng nên cứng nhắc.
2, Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Trong phần một, ý thức bị quyết định bởi tồn tại xã hội.
Tuy nhiên, ý thức xã hội khơng phải là yếu tố hồn toàn thụ
động hay tiêu cực. Mặc dù chịu sự quy định của tồn tại xã hội
nhưng ý thức xã hội khơng những có tính độc lapah tương đối
mà cịn có thể tác động mạnh mẽ vào tồn tại xã hội, đặc biệt nó
cịn vượt trước cả tồn tại xã hội.
a, Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
V.I.Lênin đã từng nói rằng: ‘’sức mạnh của tập quán ở hàng
triệu và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê gớm
nhất’’.Và Ph.Ăngghen cho rằng :’’ chúng ta đau khổ khơng
những vì những người đang sống mà cịn vì những người đã chết
nữa. Người chết nắm lấy người sống’’.
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã
mất đi, bị thay thế rất lâu rôi, song ý thức xã hội ở xã hội thời
đại đó vẫn cịn được tiếp tục sản sinh và tồn tại. Điều này là
bởi :
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ,

thường xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của
con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có

8

0

0


thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Bên cạnh đó, thường
tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội mới thay đổi theo sau đó.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán
cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã
hội. Và điều kiện tồn tại xã hội mới cũng chưa đủ làm xã hội lồi
người qn đi những thói quen, tập qn và truyền thống ông
cha để lại.
Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm,
tập đồn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy,
những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội
phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm bảo vệ và duy trì quyền
lợi ích kỷ của họ.
Vì vậy, để xây dụng một xã hội mới cần có thời gian để xóa
bỏ được những tàn dư lạc hậu, bồi đắp và phát triển những ý
thức xã hội mới, tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống
lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng
thù địch về mặt tư tưởng.
b, Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Triết học Mác thừa nhận rằng ý thức xã hội thường lạc hậu
hơn tồn tại xã hội nhưng cũng có thể vượt trước tồn tại xã hội.

Trong những điều kiện nhất định, một bộ phận của ý thức xã hội
là những tư tưởng khoa học, tiên tiến có thể vượt trước sự phát
triển của tồn tại xã hội, hướng dẫn, chỉ đạo cho hoạt động thực
tiễn của con người, dự báo các khả năng xảy ra trong tương lai,
để từ đó đề ra những nhiệm vụ mới phải giải quyết do sự phát
triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Sự thật
rằng nhiều tư tưởng khoa học và triết học trong những điều kiện
nhất định có thể vượt trước tồn tại xã hội của thời đại rất xa. Sở
dĩ ý thức xã hội có khả năng đó là do nó phản ánh đúng những
mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu và bản chất của tồn tại xã
hội. Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn
phải qua một thời gian có thể ngắn hoặc rất dài mới được thực
tiễn xác nhận.

9

0

0


c, Ý thức xã hội có tính thừa kế trong sự phát triển của nó
Trong q tình phát triển khơng ngừng của mình, ý thức xã
hội có tính kế thừa nên khơng thể giải thích một tư tưởng nào đó
nếu chỉ dựa vào trình độ phát triển kinh tế và các quan hệ kinh
tế - xã hội. Vào thế kỉ XVIII, trình độ phát triển của Pháp kém xa
Anh nhưng tư tưởng lý luận thì nước Pháp tiên tiến hơn nhiều.
Hay nền kinh tế Đức đầu thế kỉ XIX kém xa nước Anh và Pháo
nhưng nền triết học lại vượt xa hai nước kia. Điều này chứng
minh rằng, sự phát triển của ý thức xã hội không phải bao giờ

cũng song hành với sự phát triển hinh tế và các quan hệ kinh tế.
Mác và Ăngghen cũng thừa nhận rằng: ‘’ngay cả chủ nghĩa
cộng sản phát triển cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy
vật Pháp’’ và ‘’nếu trước đó khơng có triết học Đức, đặc biệt là
triết học Hêghen, thì sẽ khơng bao giờ có chủ nghĩa xã hội khoa
học Đức, chủ nghĩa xã hội duy nhất khoa học từ trước đến nay’’.
Và chủ nghĩa Mác cũng vậy, không chỉ tiếp thu những tinh hoa
lịch sử văn minh nhân loại mà còn kế thừa triết học cổ điển Đức,
kinh tế chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác
nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận
những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Ví dụ, khi làm
cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên tiến
của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và
nhân bản của thời cổ đại.
Ngược lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì
tiếp thu, khơi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản
tiến bộ của những thời kỳ lịch sử trước. Nhìn vào lịch sử, giai cấp
phong kiến các nước Tây Âu trung cổ ở thời kỳ suy thoái đã ra
sức khai thác triết học của Platôn và những yếu tố duy tâm
trong hệ thống triết học của Arixtốt thời kỳ cổ đại Hy Lạp, biến
chúng thành cơ sở triết học của các giáo lý đạo Thiên chúa.
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tính kế thừa của ý
thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn
10

0

0



hoá tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin nhấn mạnh
rằng, văn hoá xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành
tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hố nhân loại từ
cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan mác-xít. Ơng viết: “Văn hố
vơ sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến
thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội
tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”.
d, Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự
phát triển của chúng.
Các hình thái ý thức xã hội đều có quy luật phát triển riêng nội
tại và đều phản ánh tồn tại xã hội. Nhưng trong quá trình phát
triển, giữa chúng ln có sự tác động qua lại, ảnh hưởng, thúc
đẩy lẫn nhau. Ở mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể có
những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động
mạnh đến các hình thái ý thức khác. Trong sự tác động lẫn nhau
giữa các hình thái ý thức thì ý thức chính trị có vai trị đặc biệt
quan trọng. Thơng thường ý thức chính trị của giai cấp cách
mạng, tiến bộ sẽ đóng vai trò định hướng cho sự phát triển theo
chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
e, Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội
quyết định, nhưng ý thức xã hội lại tác động tích cực trở lại tồn
tại xã hội. Nếu ý thức xã hội là khoa học, đúng đắn, tiến bộ phù
hợp với tồn tại xã hội thì nó sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển.
Ngược lại, nếu ý thức xã hội không đúng đắn, khơng phù hợp nó
sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Như Ph.Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật,
triết học, tơn giáo, văn học, nghệ thuật… đều dựa trên cơ sở sự
phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn

nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.

11

0

0


IV. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm duy vật lịch
sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội vào nghiên cứu, học tập của sinh viên.
Một xã hội phát triển luôn đồng hành với một nền giáo dục
phát triển như Mỹ, Phần Lan, Na Uy, Anh, Hàn Quốc, ... Đó là
những quốc gia chi đầu tư vào cơ sở vật chất cũng như chất
lượng giảng dạy top đầu trên thế giới. Vì vậy, khơng khó để có
thể so sánh nền giáo dục của các nước phát triển với Việt Nam một quốc gia đang phát triển.
Trong tiềm thức của đa số học sinh, sinh viên Việt Nam
hiện nay, học vì điểm. Họ mơ hồ về sở thích, năng lực, chú trọng
vào thành tích. Trong khi đó, ở các nước có hệ thống giáo dục
phát triển, ngay từ giáo dục mầm non đến trung học phổ thơng
học sinh ln được khuyến khích để bày tỏ quan điểm cá nhân
của mình trong bất cứ vấn đề gì, khuyến khích năng lực tự tư
duy, tự làm chủ, nâng cao phong cách, khả năng suy nghĩ độc
lập, giao tiếp và sáng tạo. Phương pháp của họ là hướng dẫn và
kích thích sự hứng thú qua đó thúc đẩy học sinh, sinh viên tìm
tịi, khám phá và tự đúc kết cho mình. Ở đây hồn tồn khơng
có kiểu ‘’ thầy đọc, trị chép’’ như ở Việt Nam mình. Các nền
giáo dục tiên tiến chú trọng phát triển tư cách con người bằng
rất nhiều các hoạt động ngoại khóa. Thơng qua những hoạt

động này, giáo viên cũng phát hiện ra được những tố chất của
học sinh, sinh viên, qua đó có định hướng để tập trung phát
triển (ở mọi mặt chứ không coi môn nào là môn chính, mơn
phụ). Một bên chú trọng đến thành tích, một bên chú trọng vào
thành tựu. Đó là những quan điểm của hai hệ thống giáo dục
khác nhau. Ta thấy rõ được, ở những nước phát triển ấy có
những cơ sở vật chất phát triển, có năng lực để đầu tư vào toàn
bộ hệ giáo dục. Đối với những đất nước chưa phát triển hay
đang phát triển, hệ thống giáo dục còn non trẻ, nhiều lỗ hổng
khiến cách tiếp cận của học sinh, sinh viên với đời sống thực
tiễn mơ hồ. Quan hệ của tồn tại xã hội các quốc gia này quyết
định lên ý thức xã hội của một bộ phận là học sinh, sinh viên
quả thực rõ ràng. Và đồng thời ý thức xã hội cũng đã phản ánh
được trình độ phát triển của quốc gia đó ra sao, như thế nào.

12

0

0


Những quốc gia có hệ thống giáo dục phát triển đã đào
tạo nên những con người có lối suy nghĩ mở, tư duy tốt và khả
năng sáng tạo. Một phần lớn rằng họ đã kế thừa được những
thành tựu của thế hệ trước. Điển hình là Mỹ và các nước Tây Âu
như: Bỉ, Hà Lan, Thụy Sỹ, ... Đến độ tuổi trưởng thành, họ nằm
trong lực lượng lao động rất có tiềm năng đối với đất nước, tạo
ra nhiều của cải vật chất nhờ trí tuệ và khả năng sáng tạo. Khi
đó, đất nước lại càng phát triển. Qua những ví dụ về hệ thống

giáo dục cũng như lối tư duy, tinh thần của học sinh, sinh viên,
ta thấy rằng, mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội của triết học Mác-Lênin rất chặt chẽ, đúng đắn. Từ
đó rút ra được những bài học để có thể nâng cao ý thức, tư duy
sáng tạo của học sinh và sinh viên học học tập. Và chính phủ
Việt Nam cần làm những gì để nâng cao hệ thống giáo dục nước
ta.
Nói riêng về Việt Nam, chúng ta cần phải công nhận rằng hệ
thống giáo dục hiện tại đã phát triển hơn trước rất nhiều, kể từ
vài năm gần đây. Nếu ngày trước trong thời kì chiến tranh, số
người được học hết cấp hai có tỷ lệ rất ít. Việt Nam đã từng bị trị
và là nạn nhân của chính sách ngu dân của thực dân Pháp.
Chúng làm vậy để ta phục từng nghe lệnh, xâm lược đất nước.
Thì kể từ sau khi Việt Nam thống nhất mai miền Nam- Bắc, nền
kinh tế bắt đầu khôi phục và kéo theo đó là hệ thống giáo dục
được tân trang và đầu tư hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói :“Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu” . Đã 46 năm kể từ ngày hoàn
toàn được giải phóng, Việt Nam đã và đang nỗ lực để thay đổi
nền giáo dục với mục tiêu phù hợp với mọi đối tượng, mọi cấp
học. Hầu hết trường hợp đều đáp ứng đủ cho học sinh những
thiết bị tốt nhất trong khả năng, giúp tinh thần học sinh tiếp thu
được tốt nhất. Những bài giảng truyền thống được thay thế dần
bằng những bảng trình chiếu, slide, video, hình ảnh sáng tạo và
năng động giúp học sinh dễ ghi nhớ bài. Thế hệ giáo viên cũng
đáp ứng đủ trình độ chun mơn, kiến thức xã hội và cách
truyền tải.
Xu thế hội nhập với thế giới cùng với bối cảnh xã hội bị chi phối
bởi covid 19, học sinh, sinh viên đã dần thích nghi với việc học,
ơn tập và thực tập online (đối với một số ngành nghề nhất định
13


0

0


như: công nghệ thông tin, thiết kế, ...). Học sinh, sinh viên được
tiếp cận với tiếng Anh và các hình thức khoa học khác từ sớm,
giúp phát triển gần như đầy đủ các mặt cần thiết. Rất nhiều cử
nhân, thạc sĩ, tiến sĩ tốt nghiệp hằng năm, nâng cao tri thức và
thành tựu cho nước nhà, Việt Nam đang trên đà phát triển tốt,
có nguồn nhân lực đáng tin cậy và được các nước bạn công
nhận điều này. Hệ thống giáo dục thay đổi dẫn đến sự nhận thức
của học sinh cũng thay đổi, thay vì chỉ hướng tới những bữa ăn
chỉ cần đủ bữa thì ngày nay, nhận thức của học sinh và sinh
viên cần phải vươn mình ra thế giới, giúp đất nước ngày càng
phát triển, tiến bộ và văn minh. Nhận thức của học sinh, sinh
viên nâng cao thì đất nước càng phát triển và ngược lại, cho
thấy chúng có mối quan hệ bền chặt của ý thức xã hội và tồn tại
xã hội

14

0

0


V, Kết luận.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc

lập tương đối của ý thức xã hội đã cho chúng ta thấy bức tranh
phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội và của đời sống
tinh thần của xã hội nói chung, nó bác bỏ các quan điểm siêu
hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội. Tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý
thức xã hội phụ thuộc vào những điểu kiện lịch sử cụ thể, vào
tính chất của những mối quan hệ kinh tế mà trên đó ý thức xã
hội được nảy sinh, tồn tại và phát triển. Tư tưởng tiến bộ cách
mạng có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của xã hội và đồng thời
cũng thấy được những mặt tiêu cực hạn chế của những tư tưởng
lạc hậu, phản động tác động ngược lại sự phát triển của xã hội.
Quan điểm về chủ nghĩa duy vật về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có ý nghĩa rất to lớn trong
việc nghiên cứu, học tập của sinh viên, từ đó sinh viên nhận
thấy được trách nhiệm của mình trong cơng cuộc phát triển đất
nước.

15

0

0


16

0

0



MỤC LỤC
Lời nói đầu ………………………………………………………………
2
Nội dung
I, Tìm hiểu chung về chủ nghĩa duy vật lịch sử.……….
……………
3
1, Khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch
sử………………………
3
2, Vai trò của chủ nghĩa duy vật lịch
sử…………………………
3
3, Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch
sử……………
3
II, Khái niệm về tồn tại xã hội và ý thức xã
hội……………………
4
1, Tồn tại xã hội……………….……………………………………
4
a, Khái niệm của tồn tại xã
hội…………………………………… 4
b, Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã
hội…………………………… 4
2, ý thức xã hội. ……………………….………….………………
4
a, Khái niệm của ý thức xã hội……………….………….
………

4
b, Kết cầu của ý thức xã hội……………….………….
………
5
III, Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội ……………….
……………………………………………. 5
1, Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội
quyết định… 6
2, Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
6
a, Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã
hội……………….. 6
b, Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã
hội…………………..... 7

17

0

0


c, Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của
mình………. 8
d, Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
trong sự phát triển của
chúng………………………………………………………………
9
e, Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã

hội……………………
9
IV. ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm duy vật lịch sử
về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
vào nghiên cứu, học tập của sinh
viên…………………………………………………………………………….
9
V. Kết luận. ………………………………………………………………
12

Tài liệu tham khảo:

PGS.TS. Vũ Kim Dũng, PGS.TS. Nguyễn Văn Cơng, Giáo
trình triết học Mác-Lênin, NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân, 2020

GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS, TS. Nguyễn Hữu Vui, Giáo trình
triết học Mác-Lênin.
/> />18

0

0


/>
19

0

0




×