Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Ảnh hưởng của các loại thức ăn lên năng suất trứng bào xác Artemia franciscana dòng Vĩnh Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.66 KB, 10 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI THỨC ĂN LÊN NĂNG SUẤT TRỨNG
BÀO XÁC Artemia franciscana DỊNG VĨNH CHÂU
Nguyễn Văn Sáng1, Võ Minh Sơn1*

TĨM TẮT
Trong nghiên cứu này, Artemia được cho ăn với thức ăn Ami-Ami từ phế phụ phẩm trong quy
trình sản xuất bột ngọt có và khơng kết hợp với tảo nhằm mục đích tìm ra cơng thức thức ăn thích
hợp có thể thay thế một phần thức ăn Artemia truyền thống. Thí nghiệm bao gồm Nghiệm thức tảo
(AL) (Tảo tươi Chaeotoceros mulleri, tảo khô Nannochloropsis oculata và Isochrysis galbana),
Ami-Ami (AA), Ami-Ami và vi tảo (AA+AL), Ami-Ami lên men (FA), Ami-Ami lên men và vi tảo
(FA+AL). Thí nghiệm được tiến hành trên bể 500 L ở độ mặn 70-82 ppt. Mỗi nghiệm thức có 3 bể,
thời gian ni 8 tuần. Kết quả cho thấy nghiệm thức thức ăn kết hợp giữa Ami-Ami + vi tảo (FA
+AL) cho kết quả tốt nhất về tỉ lệ cá thể mang trứng đạt 40,0% sau 4 tuần nuôi, sức sinh sản trứng
trên buồng trứng đạt 49,6±5,50 trứng/cá thể sau 3 tuần nuôi, năng suất thu hoạch đạt 8,4 trứng khô/
m3 trong 8 tuần và tỉ lệ nở đạt 95%.
Từ khóa: Ami-Ami, Artemia, năng suất trứng, vi tảo.

I. GIỚI THIỆU
Trứng bào xác Artemia là một trong những
nguồn thức ăn tự nhiên tươi sống quan trọng bật
nhất cho sự phát triển của các ấu trùng/cá bột
trong sản xuất giống các loài động vật thuỷ sản.
Lượng trứng Artemia tiêu thụ trên toàn thế giới
tăng dần từ vài tấn trong những năm của thế kỷ
17 cho đến 2.000 tấn trong năm 2001 (Lavens
and Sorgeloos, 1996) và tăng lên 3.050-4.050
tấn (Nguyễn Văn Hịa, 2016). Từ năm 1986,
Artemia được ni thử nghiệm thành công tại
Vĩnh Châu (Rothuis, 1987). Đến năm 1990,


khoảng 1,4 tấn trứng Artemia thô được thu từ 16
ha ruộng muối và được thương mại hố thành
cơng (Brands và ctv., 1995). Sản lượng trứng
bào xác Artemia tăng 20 tấn khô/1.000 ha ruộng
muối ở Vĩnh Châu và có giá trị khoảng 60-80 tỷ
đồng/năm (Nguyễn Văn Hịa, 2016).
Hiện nay, Artemia được ni trên ruộng
muối với độ mặn hơn 80 ppt, độ sâu từ 30-40
cm, mật độ ấu trùng từ 60-100 con/L, thức ăn

chủ yếu là phân heo và gà, ngồi ra cịn bổ sung
thêm phân vô cơ, thức ăn tôm và bột thức ăn
cho nuôi Artemia do Đại học Cần Thơ sản xuất
(Nguyen Thi Ngoc Anh và ctv., 2010).
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá
thức ăn Ami-Ami (từ phế phụ phẩm trong sản
xuất bột ngọt) và hỗn hợp tảo tươi (Chaetoceros
muelleri), tảo khô Nannochloropsis oculata,
Isochrysis galbana đến tăng trưởng về chiều
dài, mật độ quần thể, sức sinh sản, phương thức
sinh sản, năng suất trứng và đánh giá chất lượng
trứng thông quả tỷ lệ nở.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
Trứng Artemia Vĩnh Châu (Artemia
franciscana) được cung cấp từ Trường Đại
học Cần Thơ. Ami-Ami được cung cấp từ nhà
máy sản xuất bột ngọt Ajinomoto Việt Nam
với thành phần bao gồm protein 70,3%, lipid

4,5%, tro 5,2%, xơ 0,4%, độ ẩm 5%. Tảo khô

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản II
* Email:
1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021

31


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Nannochloropsis oculata và Isochrysis galbana
(mật độ 2x1011 tế bào/g) được mua từ Công ty
Proviron, Bỉ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm bao gồm 5 nghiệm thức được
bố trí hồn tồn ngẫu nhiên (Bảng 1) được thực
hiện trong bể compoiste 0,5 m3 với 3 lần lặp lại
cho mỗi nghiệm thức. Mật độ ấu trùng Artemia
ban đầu là 200 con/lít. Độ mặn dao động từ 7082 ppt trong suốt q trình ni.
2.2.2. Phương pháp nuôi tảo và ấp Artemia
Tảo Chaeotoceros muelleri (nhận từ Đại
học Gent, Bỉ) được nuôi trên môi trường F/2,
nồng độ muối 80 ppt. Tảo được nuôi trong bể
composite 5 m3 ngồi trời. Thời gian ni 3-4

ngày, mật độ đạt 1x107 tế bào/mL.

Trứng Artemia 1-5 g/L được ấp trong nước
biển 30-35 ppt, nhiệt độ 28-300C, ánh sáng
1.000 lux, sục khí liên tục 24 giờ.
2.2.3. Thức ăn và quản lý
Chuẩn bị thức ăn: Ami-Ami được lên men
với liều lượng là Ami-Ami 10%, chế phẩm EM
(effective microorganism) 5% từ một công ty
thương mại, nấm men 2,5%, mật rỉ đường 2,5%
được hoà tan vào 80 L nước biển 15 ppt. Hỗn
hợp lên men được lọc qua lưới 50 µm sau khi
được ủ yếm khí 48 giờ. Dịch sau khi lọc được
dùng làm thức ăn cho Artemia (Bảng 1).
Quản lý và chăm sóc: Artemia được cho
ăn 4 lần/ngày vào lúc 6:00, 10:00, 16:00, 20:00
giờ.

Bảng 1. Lượng thức ăn cho Artemia hàng ngày, lượng Ami-Ami được bổ sung theo độ trong
(Nguyen Thi Ngoc Anh và ctv., 2014).
Nghiệm thức
Loại thức ăn và cách cho ăn
Tảo tươi Chaetoceros muelleri: 1x105 tế bào/mL; 1 lần/ngày.
Vi tảo (AL)

Tảo khô Nannochloropsis oculata (Nanno) và Isochrysis
galbana (Iso) (tỷ lệ 1:1); 1x105 tế bào/mL; 3 lần/ngày.
AA: cho ăn 4 lần/ngày, lượng cho ăn được điều chỉnh dựa theo
độ trong khi >20 cm.

Ami-Ami (AA)


Tảo tươi Chaetoceros muelleri: 1x105 tế bào/mL; tảo khô.
Nannochloropsis oculata (Nanno) và Isochrysis galbana (Iso)
(tỷ lệ 1:1); 1x105 tế bào/mL; 1 lần/ngày.

Ami-Ami + tảo (AA+AL)

Ami-Ami lên men + vi tảo (FA+AL)

Ami-Ami: 3 lần/ngày.
Tảo tươi Chaetoceros muelleri: 1x105 tế bào/mL; tảo khô.
Nannochloropsis oculata (Nanno) và Isochrysis galbana (Iso)
(tỷ lệ 1:1); 1x105 tế bào/mL; 1 lần/ngày.
Ami-Ami lên men: 3 lần/ngày.

Ami-Ami lên men (FA)

FA: cho ăn 4 lần/ngày.

2.2.4. Thu thập số liệu
Các thông số môi trường gồm nhiệt độ (0C),
độ mặn (%0), tổng nitơ dạng ammonia (TAN,
mg/L), nitrite (NO2−N, mg/L) được theo dõi hàng
tuần. NO2−N được phân tích bằng phương pháp
sử dụng thuốc thử Gressi và TAN được phân tích
bằng phương pháp Nessler (ALPHA, 2005).
32

Tăng trưởng theo chiều dài (mm) của
Artemia được đo ở tuần thứ 2. Mật độ và cấu
trúc quần thể Artemia được kiểm tra vào tuần

thứ 4 và thứ 8. Mẫu nước 500 mL được lọc và
thu nhận Artemia. Cấu trúc quần thể Artemia
gồm ấu trùng và trưởng thành (ấu niên + trưởng
thành).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

2.2.5. Sức sinh sản và phương thức sinh sản
30 cá thể cái mang túi trứng được thu mẫu
ngẫu nhiên trong bể nuôi. Túi trứng được mổ
để đếm trứng dưới kính hiển vi. Sức sinh sản
được biểu thị như là số trứng/cá thể cái. Thu
mẫu 30 con cái đang mang trứng để đếm tỷ lệ
phần trăm kiểu sinh sản đẻ con (ovoviviparity)
hay đẻ trứng (oviparity). Sức sinh sản, tỷ lệ đẻ
con và đẻ trứng được đánh giá hàng tuần. Sức
sinh sản của Artemia được tính trên một buồng
trứng (trứng/buồng trứng), thu thập hàng tuần
từ tuần thứ 2 trở đi.
Đánh giá chất lượng trứng thông qua tỷ lệ
nở (%): Ấp 1g trứng trong 1 lít nước biển 25
ppt, sau thời gian 24 giờ thu mẫu trước và sau
khi 24 giờ. Tỷ lệ nở (%) = 100 x (số lượng ấu
trùng/tổng số lượng trứng).

2.2.6. Xử lý số liệu
Số liệu của các nghiệm thức thức ăn được

phân tích ANOVA một nhân tố để tìm sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức
và phép thử Tukey được sử dụng (P<0,05)
trong phần mềm SPSS version 13.0 (SPSS Inc.,
2004). Trước khi phân tích, số liệu phần trăm
được chuyển sang dạng số thập phân bằng hàm
Acsin trong Excel.
III. KẾT QUẢ
3.1. Chỉ tiêu thuỷ lý hố nước ni
Các yếu tố môi trường như nhiệt độ (27,8 ±
0
0,9 C), pH (7,7 ± 0,1), độ mặn (80,9 ± 4,2 ppt)
dao động trong khoảng thích hợp cho sự phát
triển của Artemia. Ammonia tổng số (NH3-N:
5,12 - 6,46 mg/L) và nitrite (NO2-N: 1,13 - 1,55
mg/L) tăng cao trong tất cả các nghiệm thức
trong 8 tuần ni (Hình 1 và 2).

Hình 1. Diễn biến hàm lượng ammonia tổng số (mg/L) trong 8 tuần nuôi.
3.2. Tăng trưởng chiều dài
Chiều dài trung bình Artemia (mm) ở các
nghiệm thức [FA+AL] và [AL] đạt theo thứ tự
là 8,00 ± 0,12 mm và 7,90 ± 0,16 mm, cao khác
biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức [AA+AL],
[FA] và [AA] theo thứ tự là 7,20 ±0,15 mm,
7,22 ± 0,15 mm và 7,05 ± 0,15 mm sau 2 tuần
nuôi (Bảng 2).

Bảng 2. Chiều dài trung bình của Artemia
(mm) ở tuần thứ 2. Số liệu trung bình (n=30),

các chữ cái thường thể hiện sự khác biệt có ý
nghĩa (p<0,05) giữa các nghiệm thức.
Nghiệm thức
AL
FA + AL
FA
AA
AA+AL

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021

Chiều dài (mm)
7,90 ± 0,16a
8,00 ± 0,12a
7,22 ± 0,14b
7,05 ± 0,15b
7,20 ± 0,15b
33


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 2. Diễn biến hàm lượng nitrite tổng số (mg/L) trong 8 tuần ni.
3.3. Mật độ quần thể Artemia

Hình 3. Mật độ và cấu trúc quần thể Artemia sau 4 tuần nuôi. Các chữ cái thường và hoa khác
nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05).

Hình 4. Mật độ và cấu trúc quần thể Artemia sau 8 tuần ni.
34


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Sau 4 tuần nuôi, mật độ ấu trùng Artemia
ở 2 nghiệm thức 390,0±40,4 cá thể/L [AL] và
360,0±30,6 cá thể/L [FA+AL] cao khác biệt có
ý nghĩa so với các nghiệm thức 276,7±14,5 cá
thể/L [AA+AL], 193,3±6,7 cá thể/L [FA] và
123,3±14,5 cá thể/L [AA]; mật độ ấu niên &
trưởng thành ở 03 nghiệm thức 320,0±11,5 cá
thể/L [AL], 320 cá thể/L [FA+AL], 286 cá thể/L
[AA+AL] cao khác biệt có ý nghĩa so với 253
cá thể/L [AA] và 206 cá thể/L [FA]. Mặt khác,
mật độ tổng số Artemia ở nghiệm thức 710±36,1
cá thể/L [AL], 680,0±40,0 cá thể/L [FA + AL]
và 563,3±27,3 cá thể/L [AA+AL] cao khác biệt
có ý nghĩa so với 2 nghiệm thức còn lại [FA]
400,0±11,5 cá thể/L và [AA] 376,7±8,8 cá thể/L
3.4. Sức sinh sản

sau 4 tuần ni (Hình 3). Có thể nhận thấy rằng
nghiệm thức có bổ sung tảo cho kết quả mật độ
cao hơn khi không dùng tảo.
Sau 8 tuần nuôi, mật độ ấu trùng Artemia
ở các nghiệm thức 513 cá thể/L [AA+AL], 480
cá thể/L [FA+AL] và 413,3±67,7 cá thể/L [AA]
cao khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức còn

lại là 313 cá thể/L [AL] và 260 cá thể/L [FA];
trong khi đó mật độ ấu niên & trưởng thành ở tất
cả các nghiệm thức đều giảm mạnh, trong khi
đó mật độ Artemia ở nghiệm thức cho ăn bằng
tảo đạt 156 cá thể/L [AL] cao khác biệt so với
các nghiệm thức còn lại, dao động từ 30-43 cá
thể/L (Hình 4).

Hình 5. Sức sinh sản (trứng/cá thể) của Artemia ở các nghiệm thức thức ăn trong 8 tuần nuôi.
Sức sinh sản của Artemia ở các nghiệm
thức [FA], [FA+AL], [AL], [AA+AL] tăng
cao vào tuần thứ 3 và 4, sau đó giảm dần vào
tuần thứ 5 và 6. Kết quả cho thấy quần thể mẹ
ban đầu sau 3-4 tuần cho sức sinh sản cao hơn
quần thể con sau 7-8 tuần. Điều này có thể liên
quan về vấn đề dinh dưỡng và chất lượng môi
trường kém. Sau 3 tuần, các nghiệm thức thức
3.5. Phương thức sinh sản
Tỷ lệ cá thể đẻ trứng (oviparity) tăng mạnh
vào tuần thứ 3 và 4 ở nhóm thế hệ bố mẹ,

ăn [FA], [FA+AL], [AL] đạt 51,8±3,07 trứng/
cá thể, 49,6±5,50 trứng/cá thể và 44,4±4,31
trứng/cá thể cao khác biệt có ý nghĩa so với các
nghiệm thức còn lại [AA+AL] 35,8±5,06 trứng/
cá thể và 0 trứng/cá thể [AA] (Hình 5). Điều
này chứng tỏ thức ăn có sự hiện diện của tảo
giúp cho Artemia mang trứng nhiều hơn.

trong khi đó thế hệ đàn con tăng nhẹ vào tuần

thứ 7 (Hình 6). Tuần thứ 3, các nghiệm thức

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021

35


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

thức ăn tảo và tảo kết hợp với Ami-Ami tăng
cao đạt [AL] 40,0% và [AA+AL] 33,3% hơn
các nghiệm thức còn lại. Vào tuần thứ 4, các
nghiệm thức thức ăn kết hợp với tảo như 43,3%
[AL], 40,0% [FA+AL], 37,7% [AA+AL] tăng

cao khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức
chỉ dùng Ami-Ami như 23,3% [FA] và 3,3%
[AA]. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của
tảo và Ami-Ami có thể thay thế một phần vào
cơng thức thức ăn cho quy trình ni Artemia.

Hình 6. Tỉ lệ cá thể Artemia đẻ trứng (oviparity) ở các nghiệm thức thức ăn.
Đối với tỷ lệ cá thể đẻ con (ovoviviparity), tăng ở nghiệm thức [AA] 26,7% và [AA+AL]
nhìn chung kiểu sinh sản này cũng có su hướng 16,7% tăng cao đáng kể so với các nghiệm thức
tăng vào tuần thứ 3 và 4 thuộc thế hệ bố mẹ, còn lại từ 0-0,08%. So sánh 2 kiểu sinh sản trên
tuần thứ 8 thuộc thế hệ đàn con (Hình 7). Tuần cho thấy nếu sử dụng bột Ami-Ami [AA] đơn
thứ 3, tỷ lệ cá thể đẻ con ở các nghiệm thức và Ami-Ami lên men + tảo [FA+AL] cho tỷ lệ
sử dụng thức ăn bột Ami-Ami [AA] 30%, bột đẻ con cao và nếu dùng tảo đơn [AL] và tảo kết
Ami-Ami lên men + tảo [FA+AL] 26,7% cao hợp với bột Ami-Ami [AA+AL] và Ami-Ami
khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức lên men [FA+AL] cho tỷ lệ cá thể Artemia đẻ

[FA] 16,7%, [AL] 10% và [AA+AL] 6,7%. trứng cao.
Đến tuần thứ 8, tỷ lệ cá thể đẻ con ở thế hệ con

Hình 7. Tỉ lệ cá thể Artemia đẻ con (ovoviviparity) ở các nghiệm thức thức ăn.
36

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

3.6. Năng suất trứng bào xác

Hình 8. Năng suất trứng bào xác khơ (g/m3) sau 8 tuần nuôi.
Lượng trứng bào xác khô trung bình thu với nghiệm thức [AA] là 4,5 g, [AA+AL] là 4,5
được ở nghiệm thức tảo [AL] đạt cao nhất 14 g và [FA] là 4,1 g (Hình 8).
3.7. Đánh giá chất lượng trứng thơng
g/m3 và cao khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so
với các nghiệm thức còn lại, tiếp theo là nghiệm qua tỷ lệ nở
thức [FA+AL] 8,4 g cao khác biệt có ý nghĩa

Hình 9. Tỉ lệ nở của trứng Artemia sau 24 giờ ở các nghiệm thức khác nhau.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021

37


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Tỉ lệ nở ở các nghiệm thức khơng khác

biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ nở ở các nghiệm
thức [AL], [FA + AL], [FA], [AA], [AA+AL]
lần lượt là 94,5%, 95,3%, 94,1%, 94,2%, 94,9%
(Hình 9).
IV. THẢO LUẬN
Theo Lavens và Sorgeloos (1996) cho rằng
nồng độ ammonia tổng số 1.000 mg/L và nitrite
320 mg/L không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống ấu
trùng Artemia. Trong nghiên cứu này, nồng độ
ammonia tổng số (5,12 - 6,46 mg/L) và nitrite
(1,13 - 1,55 mg/L). Do vậy hàm lượng nitrogen
không phải là yếu tố chính gây ảnh hưởng đến
tăng trưởng Artemia (Lavens và Sorgeloos,
1996).
Chiều dài Artemia phụ thuộc vào loài và
loại thức ăn. Theo Evjemo và Olsen (1999) báo
cáo rằng A. franciscana khi ni trong điều kiện
phịng thí nghiệm với thức ăn tối đa, trưởng
thành khi đạt chiều dài 10,4–11,6 mm sau 16
ngày và (Anh và ctv., 2009) công bố chiều dài
dưới 10 mm sau 3 tuần nuôi. Trong nghiên cứu
này, chiều dài Artemia Vĩnh Châu đạt trung
bình thấp hơn là 8,3 mm sau 4 tuần nuôi.
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ cá thể có kiểu
sinh sản đẻ trứng chiếm 43,3% ở nghiệm thức
[AL] và 40,0% ở nghiệm thức [FA+AL] ở tuần
thứ 4. Một vài nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ
cá thể cái sinh sản đẻ trứng đạt 32,9% khi nuôi
trong ruộng muối (Hoa et al., 2007) và 80%
khi ni trong hệ thống tuần hồn (Lavens và

Sorgeloos, 1984). Sức sinh sản của Artemia ở
các nghiệm thức đạt từ 44,4-51,8 trứng/cá thể ở
các nghiệm thức [FA], [FA+AL], [AL] ở tuần
thứ 3. Sức sinh sản từ 20-50 trứng/cá thể cái
khi Artemia được nuôi trong ruộng muối ở Vĩnh
Châu (Hoa, 1990). Theo nghiên cứu của Anh và
ctv. (2009) đã sử dụng các loại thức ăn như tảo
xanh, cám gạo, đậu nành và phân heo. Kết quả
cho thấy ở các nghiệm thức có tỷ lệ cá thể cái đẻ
con đạt 15,8-17,5% ở tuần thứ 2, sau đó chuyển
sang kiểu sinh sản đẻ trứng. Trong nghiên cứu
38

này, tỷ lệ kiểu sinh sản đẻ con đạt từ 6,7%33,3% ở tuần thứ 2 đến thứ 4, thứ hạng cao
cho nghiệm thức [FA+AL]. Tuy nhiên, kiểu
sinh sản đẻ trứng cũng tăng từ tuần thứ 2 đến
thứ 4. Riêng nghiệm thức thức ăn [AA] có
kiểu sinh sản đẻ con cao ở tuần thứ 2 và giảm
dần đến tuần thứ 5, trong khi đó kiểu sinh
sản đẻ trứng tăng từ tuần thứ 2 đến thứ 4 đạt
30% [AA] ở tuần thứ 7. Điều này cho thấy
thức ăn chỉ có Ami-Ami chưa đủ cho Artemia
phát triển và thành thục tốt. Trong khi đó sử
dụng thức ăn lên men và kết hợp với tảo như
[FA+AL] cho tỷ lệ kiểu sinh sản đẻ con và
đẻ trứng cao đáng kể so với các nghiệm thức
thức ăn không lên men. Theo Moore (1986)
thức ăn bổ sung trực tiếp vào ao nuôi sẽ hoạt
động theo 3 các là thức ăn trực tiếp, hoàn tan
trong cột nước và vi khuẩn bám vào và phân

hủy tạo ra các mùn bã hữu cơ như là thức ăn
cho Artemia. Các chất mùn bã hữu cơ cũng
là nguồn dinh dưỡng để vi khuẩn và protozoa
phát triển, chúng cũng là nguồn dinh dưỡng
cao cho Artemia (Intriago và Jones, 1993).
Theo Wurtsbaugh và Maciej Gliwicz (2001)
cho rằng, Artemia tăng trưởng và thành thục
tốt khi ăn thức ăn có hỗn hợp tảo, vi khuẩn,
protozoa, hữu cơ. Trong nghiên cứu này, việc
sử dụng vi sinh có lợi để ủ thức ăn tổng hợp/
Ami-Ami có thể đã tạo ra hỗn hợp bao gồm vi
khuẩn, protozoa, nấm men, thức ăn phân hủy và
đó là nguồn thức ăn thích hợp cho Artemia.
V. KẾT LUẬN
Sự kết hợp giữa thức ăn bột Ami-Ami lên
men và tảo (FA+AL) cho kết quả tương đối đạt
so với các nghiệm thức khác, ngoại trừ nghiệm
thức cho ăn bằng 100% tảo [AL]. Sức sinh sản
đạt 49,6±5,50 trứng/cá thể sau 3 tuần nuôi, tỷ
lệ kiểu sinh sản đẻ trứng đạt 40,0% sau 4 tuần
nuôi, tỷ lệ kiểu sinh sản đẻ con đạt 33,3% sau 4
tuần nuôi, năng suất thu hoạch trứng bào xác đạt
8,4 g trứng khô/m3 trong 8 tuần và tỉ lệ nở của
trứng đạt 95%. Bột Ami-Ami lên men có tiềm

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II


năng sử dụng như là thức ăn bổ sung cho nuôi
Artemia sản xuất trứng.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được tài trợ bởi tổ chức
East Flanders và sự hợp tác với Đại học Gent,
Bỉ và Đại Học Cần Thơ. Chúng tôi chân thành
cảm ơn TS. Nguyễn Văn Hòa và GS. Gilbert
Van Stappen đã tham gia thảo luận và thiết kế
thí nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

ALPHA, 2005. Standard methods for the examination
of water and wastewater, 21st Edition, 2005 APHA 4500-NH3 F.
Anh, N. T. N., Van Hoa, N., Van Stappen, G.,
and Sorgeloos, P. (2009). Effect of different
supplemental feeds on proximate composition
and Artemia biomass production in salt ponds.
Aquaculture 286, 217-225.
Evjemo, J. O., and Olsen, Y., 1999. Effect of food
concentration on the growth and production rate
of Artemia franciscana feeding on algae (T. iso).
Journal of Experimental Marine Biology and
Ecology 242, 273-296.
Hoa, N. V., 1990. Practical of cyst artemia production
in Vinh Chau-Hau Giang. CTU. 49 pp.
Hoa, N. V., Van, N. T. H., Anh, N. T. N., Ngan, P.
T. T., Toi, H. T., and Le, T. H., 2007. Artemia:
research and application in aquaculture.
Agriculture Publication.
Intriago, P., and Jones, D. A., 1993. Bacteria as food

for Artemia. Aquaculture 113, 115-127.
Lavens, P., and Sorgeloos, P., 1984. Controlled
Production of Artemia Cysts Under Standard
Conditions in a Recirculating Culture System.
Aquaculrural Engineering 3, 221-235.
Lavens, P., and Sorgeloos, P., 1996. Manual on the
production and use of live food for aquaculture.

Laboratory of Aquaculture and Artemia
Reference Center University of Ghent, Ghent,
Belgium. FAO Fisheries Technical Paper 361.
pp.: 295.
Moore, L. B., 1986. Input of organic materials into
aquaculture systems: Emphasis on feeding semiintensive systems. Aquacultural Engineering 5,
123-134.
Nguyen Thi Ngoc Anh, Hoa, N. V., and Sogeloos,
P., 2014. Optimisation of Artemia biomass
production in salt ponds in Vietnam and use as
feed ingredient in local aquaculture. Thesis,
213p. College of Aquaculture and Fisheries, Can
Tho University, Vietnam Campus II, 3/2 street,
Can Tho University.
Nguyen Thi Ngoc Anh, Van Hoa, N., Van Stappen,
G., and Sorgeloos, P., 2010. Effect of partial
harvesting strategies on Artemia biomass
production in Vietnamese salt works. Aquaculture
Research 41, e289-e298.
Wurtsbaugh, W. A., and Maciej Gliwicz, Z., 2001.
Limnological control of brine shrimp population
dynamics and cyst production in the Great Salt

Lake, Utah. Hydrobiologia 466, 119-132.
Nguyễn Văn Hịa, 2016. Quản lý dinh dưỡng ao ni
Artemia. />chuyende/NVHoa-Quan-ly-dinh-duong-aonuoi-art-2016.pdf.
Rothuis, A., 1987. First report on the activities on
the culture of Artemia salina and Macrobrachium
rosenbergii in Can Tho and Vinh Chau in southern
Vietnam. Dutch Committee for Science and
Technology (KWT) and Institute of Agricultural
Engineering, Wageningen, Netherlands, 80 pp.
Brands, J.T., Quynh, V.D., Bosteels, T. and Baert,
P., 1995. The potential of Artemia biomass in the
salinas of Southern Vietnam and its valorisation
in aquaculture, Final scientific report, DG XII
STD3 contract ERBTS3*CT 91 006, 71 pp.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021

39


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

THE EFFECTS OF DIFFERENT FEEDS ON THE CYST YIELD OF
Artemia franciscana, VINH CHAU STRAIN
Nguyen Van Sang1, Vo Minh Son1*
ABSTRACT
In this study, the trial of Ami-Ami (AA) in combination with algae (fresh and dried algae) were
perfomed with the aim to replace partly traditional feeds to culture Artemia. The trial included
fresh algae (AL); fresh Chaeotoceros mulleri and power of Nannochloropsis oculata and Isochrysis
galbana; Ami-Ami (AA); Ami-Ami and algae (FA+AL); fermented Ami-Ami (FA); and Ami-Ami

and algae (AA+AL) treatments. The experients were conducted in 500-L tanks and water salinity
of 70-82 ppt. There were three replicates for each treatment and the experiment period was 8
weeks. The result shows that the food combined between FA+AL is the potential feed combination
for cultivation of Artemia for the oviparity rate of 40.0% at four-week age, female fecundity of
49.6±5.5 eggs/broodsize at three-week age, 8.4 g of dried cyst/m3 tank of 8-week age and hatching
rate of cyst of 95%.
Keywords: Algae, Ami-Ami, Artemia, cyst yield.

Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Anh
Ngày nhận bài: 16/6/2020
Ngày thông qua phản biện: 10/10/2021
Ngày duyệt đăng: 25/12/2021

Người phản biện: TS. Lục Minh Diệp
Ngày nhận bài: 16/6/2020
Ngày thông qua phản biện: 12/10/2021
Ngày duyệt đăng: 25/12/2021

Research Institute for Aquaculture No.2
* Email:
1

40

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021



×