Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

LUAN VAN thạc sĩ chính trị học chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở tỉnh thanh hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.06 KB, 110 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1: CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN............................9
1.1. Tuyên truyền miệng và công tác tuyên truyền miệng.................................9
1.2. Chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác tun truyền
miệng................................................................................................18
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay...................................................................33
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ
CHẤT LƯỢNG CƠNG TÁC TUN TRUYỀN MIỆNG Ở
TỈNH THANH HỐ HIỆN NAY (Qua khảo sát ở các Đảng
bộ cấp huyện)...................................................................................41
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền miệng ở tỉnh Thanh Hóa.........................................................41
2.2. Thực trạng chất lượng công tác tuyên truyền miệng của các Đảng bộ
huyện ở tỉnh Thanh Hóa....................................................................45
2.3. Những vấn đề đặt ra về chất lượng cơng tác tun truyền miệng ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay..........................................................................62
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CƠNG TÁC TUN TRUYỀN MIỆNG Ở TỈNH
THANH HĨA HIỆN NAY..............................................................68
3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay...................................................................68
3.2. Giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay...................................................................72
KẾT LUẬN....................................................................................................92
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................94


DANH MỤC BIỂU Đ


Biểu đồ 2.1. Trình độ lý luận đội ngũ báo cáo viên
Biểu đồ 2.2. Trình độ chuyên môn đội ngũ báo cáo viên
Biều đồ 2.3. Chất lượng hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
Biểu đồ 2.4. Khả năng diễn thuyết của báo cáo viên
Biểu đồ 2.5. Thơng tin báo cáo viên trình bày
Biểu đồ 2.6 Năng lực đối thoại của báo cáo viên
Biểu đồ 2.7. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân sau khi
nghe báo cáo viên truyền đạt


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác tư tưởng ln giữ vai trị quan trọng trong tồn bộ hoạt động
của Đảng. Để tiến hành cơng tác tư tưởng có hiệu quả Đảng ta đã thông qua
công tác lý luận, cơng tác tun truyền và nhiều hình thức, phương thức,
phương pháp hoạt động cụ thể phong phú, sinh động khác, trong đó tun
truyền miệng là một hình thức được Đảng ta hết sức quan tâm ngay từ khi còn
hoạt động bí mật cho đến lúc giành được chính quyền và lãnh đạo toàn xã hội.
Tuyên truyền miệng được Đảng ta sử dụng như một công cụ sắc bén để xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức góp phần quan trọng
trong việc tuyên truyền, hướng dẫn mọi người thực hiện thắng lợi đường lối
chính trị của Đảng.
Từ khi Đảng ta ra đời đến nay, công tác tư tưởng của Đảng đã góp phần
xứng đáng vào mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hoạt động tuyên
truyền miệng (TTM) của đội ngũ báo cáo viên (BCV), tuyên truyền viên
(TTV) là một kênh thông tin, tuyên truyền quan trọng trong công tác tư tưởng
của Đảng. Đảng lấy công tác tuyên truyền miệng làm hình thức tuyên truyền
chủ yếu để giác ngộ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, lôi cuốn các
tầng lớp nhân dân đi theo cách mạng, góp phần quan trọng vào việc tuyên

truyền đường lối chính trị của Đảng, các khẩu hiệu hành động đúng lúc và sát
hợp với nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng; truyền bá Chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân, biến chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
thành hành động tự giác của hàng triệu quần chúng, thành cao trào cách mạng
rộng lớn, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.


2
Ngày nay, công tác tuyên truyền miệng tiếp tục phát huy được thế mạnh của
mình, góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu của
Đảng, của dân tộc.
Thực tiễn hơn 30 năm qua đã chứng minh rằng: BCV, TTV vẫn là lực
lượng nòng cốt, chủ yếu trực tiếp tun truyền, phổ biến thơng tin chính trị xã hội đến nhân dân mà không một phương tiện thơng tin nào có thể thay thế
được. Bởi vì, tun truyền miệng vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật
chuyển tải được rất nhiều thông tin, từ thông tin chính thống có tính chất hệ
thống, phân tích tỉ mỉ về kinh tế - xã hội đến những thông tin về khoa học, kỹ
thuật... nhằm giáo dục, phổ biến, quán triệt mọi chủ trương, đường lối, chính
sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước; thông báo kịp thời và có định hướng
các vấn đề thời sự quan trọng trong nước và quốc tế, các vấn đề nóng bỏng
mà dư luận quan tâm. Tuyên truyền miệng là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu
tranh chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng
nước ta; tun truyền có khả năng đưa được những thơng tin nội bộ, những
thơng tin mà về lý do nào đó không đưa trên các phương tiện thông tin đại
chúng được.Với ý nghĩa đó trong mỗi giai đoạn cách mạng Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn coi trọng công tác tuyên truyền miệng.
Trong giai đoạn hiện nay, đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp và
cấp bách cần được nhận thức đúng và giải quyết kịp thời. Trên thế giới cũng
đang diễn ra nhiều sự kiện có tính “đảo lộn”, cực kì phức tạp, hàng ngày hàng

giờ đang tác động vào tư tưởng, tình cảm của hàng triệu đảng viên và quần
chúng nhân dân; cuộc đấu tranh chống lại âm mưu “diễn biến hịa bình” của
các thế lực thù địch diễn ra vô cùng gay gắt, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận và thông tin. Các thế lực thù địch đã ra sức lợi dụng những khó khăn
khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội để tấn công ráo riết vào chủ nghĩa Mác -


3
Lênin, con đường và chế độ xã hội chủ nghĩa, hòng làm lung lạc niềm tin của
cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân đối với chế độ xã hội xã hội chủ
nghĩa tốt đẹp mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng.
Cho nên, để giành thế chủ động trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chúng ta
phải coi trọng việc lãnh đạo và tổ chức phối hợp thật tốt các kênh tuyên
truyền. Đặc biệt, phải coi trọng xây dựng đội ngũ BCV từ Trung ương đến cơ
sở vững mạnh về phẩm chất chính trị, năng lực và trình độ lý luận chính trị,
nhằm kịp thời nắm bắt và phản ánh đúng chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; các xu hướng biến động của đời sống xã
hội, nhằm định hướng tuyên truyền, giáo dục thuyết phục quần chúng đáp ứng
với yêu cầu cũng như tình hình thực tế ở cơ sở.
Thực tế cho thấy, đội ngũ BCV các cấp nói chung, đội ngũ BCV ở tỉnh
Thanh Hóa nói riêng cịn trong tình trạng thiếu tính chun nghiệp, trình độ lý
luận chính trị cịn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng hiện nay. Do vậy, việc nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng
cho đội ngũ BCV ở nước ta hiện nay nói chung, ở các địa phương nói riêng, là
nhiệm vụ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức cấp bách.
Với ý nghĩa đó, học viên lựa chọn đề tài: “Chất lượng công tác tuyên
truyền miệng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
Chính trị học chun ngành cơng tác tư tưởng nhằm góp phần nâng cao chất
lượng cơng tác tuyên truyền miệng của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Cơng tác tư tưởng nói chung và CTTTM nói riêng đã có một số cơng
trình khoa học nghiên cứu, cách luận giải và phân tích các vấn đề cũng khác
nhau, đề tài khoa học đề cập đến ở những cách tiếp cận khác nhau, nhưng chất


4
lượng CTTTM ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay chưa có cơng trình khoa học nào
nghiên cứu một cách có hệ thống. Hiện nay, đề cập đến chất lượng CTTTM
đã có một số tài liệu liên quan sau:
- PGS,TS. Phạm Quang Nghị (chủ biên) (1977) “Một số vấn đề lý luận
và nghiệp vụ cơng tác tư tưởng”, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội. Tác giả đã chỉ ra những tư tưởng mang tính chỉ đạo, làm cơ sở lý luận
cho công tác tư tưởng, đồng thời nêu ra những yêu cầu nghiệp vụ, góp phần
nâng cao hiệu quả của cơng tác tư tưởng.
- PGS,TS. Hồng Quốc Bảo (2006), “Học tập phương pháp tuyên truyền
cách mạng Hồ Chí Minh”, Nxb Lý luận chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Cuốn sách này giúp người đọc tìm hiểu nguồn gốc lý luận của hoạt động
tuyên truyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua việc nêu gương đặc trưng cơ
bản của phương pháp tuyên truyền của Bác.
- PGS,TS. Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (2008)“Nguyên lý công tác tư
tưởng” tập 1 - 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tài liệu này giới thiệu
những vấn đề chung nhất của hoạt động tư tưởng, những nội dung cơ bản
chỉ đạo hoạt động tuyên truyền và những quan điểm thể hiện sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác tuyên truyền. Đây là tài liệu tham khảo hết sức
bổ ích cho những làm cơng tác tuyên truyền và những người quan tâm đến
vấn đề này.
* Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đã công bố như:
- Nguyễn Thế Chuyền, Đổi mới tổ chức hoạt động báo cáo viên cấp uỷ
tỉnh Hưng Yên giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ Khoa học Chính trị, chun
ngành cơng tác tư tưởng. Đề tài nêu lên việc cần thiết phải đổi mới phương

thức, cách thức hoạt động của báo cáo viên, đồng thời nói lên sự cần thiết phải
kiện toàn và bồi dưỡng để đội ngũ báo cáo viên hoạt động có hiệu quả.


5
- Phạm Tuyết Lệ, Phát huy vai trò tuyên truyền miệng qua hoạt động
của đội ngũ báo cáo viên tỉnh Cà Mau hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học
Chính trị, chuyên ngành công tác tư tưởng - Học viện Báo chí và Tun
truyền. Đề tài nhấn mạnh vai trị, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền
miệng trong công tác tư tưởng Đảng bộ tỉnh.
- Vũ Văn Vở, Chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở tỉnh Hải
Dương, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh. Đề tài luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn chất lượng công tác
tuyên truyền miệng ở tỉnh Hải Dương; đã nghiên cứu tìm hiểu quan niệm, vai
trị, vị trí, đặc điểm và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên làm công tác tuyên
truyền miệng; phân tích thực trạng đội ngũ báo cáo viên, cơng tác tun
truyền miệng, qua đó đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng cơng tác tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên ở
tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.
- Ngơ Đình Quy, Chất lượng cơng tác tun truyền miệng của Đảng bộ
phường ở quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Chính trị, chun ngành Cơng tác tư tưởng. Đề tài nhấn mạnh và
làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác tuyên truyền miệng, khảo
sát và đánh giá chất lượng công tác tuyên truyền miệng của Đảng bộ phường
ở quận Tân Phú. Luận văn đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công
tác tuyên truyền miệng của Đảng bộ phường ở quận Tân Phú, thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay.
Ngồi ra, gần đây có một số bài viết của PGS, TS. Hồng Quốc Bảo,
như: “Tính dễ hiểu - một đặc trưng cơ bản trong phương pháp tuyên truyền
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa; “Sự thống nhất giữa lý luận với

thực tiễn trong hoạt động tuyên truyền của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học;


6
“Tính ngắn gọn - một đặc trưng độc đáo trong phương pháp tuyên truyền Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền; Bài viết của TS.Trương Minh
Tuấn “Nâng cao tính thuyết phục của cơng tác tun truyền miệng trong tình
hình mới” Tạp chí Tun giáo..., có ý nghĩa tham khảo rất thiết thực.
Nhìn chung, các đề tài, cơng trình nghiên cứu nêu trên đã tiếp cận và
phân tích về công tác tư tưởng của Đảng, CTTTM, đội ngũ BCV và vai trị to
lớn của nó trong cơng tác tư tưởng của Đảng, tạo nên cơ sở khoa học, kiến
thức liên quan đến đề tài mà tác giả đang nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng công
tác tuyên truyền miệng; khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng công tác
tuyên truyền miệng của các Đảng bộ huyện ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay; luận
văn đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền miệng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác tuyên truyền miệng và những vấn
đề lý luận có liên quan đến cơng tác tun truyền miệng dưới góc độ chun
ngành cơng tác tư tưởng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng cơng tác tun truyền miệng
của các Đảng bộ huyện ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
CTTTM ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu



7
Chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4.2. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu chất lượng cơng tác
tun truyền miệng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay (qua khảo sát thực trạng chất
lượng công tác tuyên truyền miệng của các Đảng bộ cấp huyện).
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng ta về CTTTM và hoạt động của đội ngũ BCV, đặc biệt là
Văn kiện Đại hội XI và Chỉ thị số 17-CT/TW Đảng (khóa X) “Về tiếp tục đổi
mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình
hình mới”.
Luận văn kế thừa có chọn lọc các cơng trình khoa học, các luận án, luận
văn của một số tác giả đã nghiên cứu về cơng tác tư tưởng nói chung cũng
như cơng tác tuyên truyền miệng của Đảng bộ cơ sở; sử dụng các chỉ thị, nghị
quyết, các báo cáo sơ kết, tổng kết, đánh giá thực tiễn về công tác tuyên
truyền miệng của Tỉnh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử; sử dụng các phương phân tích và tổng hợp, lơgic và lịch sử, thống kê, so
sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Cái mới của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất
lượng công tác tuyên truyền miệng của các Đảng bộ huyện tỉnh ở Thanh Hóa.



8
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan thực tiễn công tác tuyên
truyền miệng, luận văn đưa ra những vấn đề đặt ra về chất lượng công tác
tuyên truyền miệng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Luận văn sử dụng nhiều phương pháp để nghiên cứu thực tiễn, tiến
hành khảo sát, thăm dị thực tế và phân tích đánh giá chất lượng cơng tác
tun truyền miệng, từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu,
phù hợp với thực tiễn cơ sở để thực hiện công tác tuyên truyền miệng tốt hơn
trong thời gian tới, góp phần vào việc nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền miệng ở cơ sở.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể là nguồn tài liệu cho cấp ủy và Ban Tuyên giáo ở tỉnh
Thanh Hóa tham khảo và vận dụng trong việc nâng cao chất lượng CTTTM
hiện nay.
- Có thể dùng làm tài liệu tham khảo và bồi dưỡng nghiệp vụ CTTTM
cho đội ngũ BCV.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết, 93 trang.


9
Chương 1
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Tuyên truyền miệng và công tác tuyên truyền miệng
1.1.1. Khái niệm tuyên truyền và công tác tuyên truyền miệng
* Khái niệm tuyên truyền
Tuyên truyền là một hoạt động quan trọng của công tác tư tưởng. Theo

tiếng La tinh, “tuyên truyền” (propaganda) là truyền bá, truyền đạt một quan
điểm nào đó. Theo một số tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền đầu tiên
đã được nhà thờ La Mã sử dụng để chỉ hoạt động của các nhà truyền giáo với
sứ mệnh thuyết phục, lôi kéo những người khác phấn đấu theo đức tin của đạo
Kitô. Về sau thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng rộng rãi hơn, nhằm biểu
cảm một cách cụ thể (qua ngơn ngữ, hình ảnh, đạo cụ...) tác động đến suy
nghĩ, tư tưởng tình cảm của người khác, hướng họ hành động theo một
khuynh hướng nhất định.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Tun truyền là giải thích rộng rãi để
thuyết phục, vận động mọi người làm theo” [56, tr.1735].
Trong tác phẩm “Người tuyên truyền và cách tuyên truyền”, Hồ Chí
Minh cho rằng: “Tun truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ,
dân theo, dân làm. Nếu không đạt mục tiêu trên đó là tuyên truyền thất bại”
[39, tr.162].
Tuy có cách thể hiện khác nhau, nhưng theo các quan điểm nêu trên,
tun truyền là hoạt động có mục đích của chủ thể tác động đến khách thể
nhằm biến nhận thức của khách thể, tạo niềm tin cho khách thể, thúc đẩy
khách thể hoạt động tích cực theo định hướng của chủ thể. Như vậy có thể xác
định tuyên truyền là hoạt động tác động đến thế giới nội tâm của con người,


10
thuyết phục họ bằng những căn cứ lý luận khoa học, nhằm thúc đẩy hoạt
động của họ theo mục đích của chủ thể.
* Khái niệm tuyên truyền miệng
Hiện nay, trên các sách báo và trong các cơng trình nghiên cứu đang có
những quan niệm khác nhau về tuyên truyền miệng.
Trong cuốn “Nguyên lý công tác tư tưởng” của PGS,TS. Lương Khắc
Hiếu chủ biên có viết:
Tuyên truyền miệng là một phương thức tuyên truyền được

tiến hành bằng lời nói trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận
thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của
người nghe [29, tr.69].
Định nghĩa này nhấn mạnh tính mục đích của hoạt động tuyên truyền
miệng, một phương thức tuyên truyền quan trọng hiện nay.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thanh Thơi:
Tuyên tuyền miệng là phương thức tuyên truyền được tiến
hành bằng lời nói trực tiếp giữa người nói và người nghe mà
khơng có sự ngăn cách nhào nhằm mục đích nâng cao nhận thức,
củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của người
nghe [48, tr.13].
Tuyên truyền miệng chủ yếu được tiến hành bằng lời nói. Hiện nay, khi
thực hiện cơng tác tun truyền miệng, BCV, TTV có thể sử dụng thêm các
phương tiện hỗ trợ như: máy tính, màn hình, các chương trình trình chiếu...
nhưng phương tiện chủ yếu của họ vẫn là lời nói trực tiếp.
Đảm bảo đạt được mục đích tuyên truyền của chủ thể tuyên truyền đặt ra
là: nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của
người nghe theo mục đích tuyên truyền đã đề ra.


11
Từ cách tiếp cận trên, chúng ta có thể hiểu về khái niệm tuyên truyền
miệng như sau: Tuyên truyền miệng là một phương thức tuyên truyền được tiến
hành chủ yếu bằng lời nói trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức, thay
đổi thái độ, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của người nghe.
* Công tác tuyên truyền miệng
Là một trong những kênh thông tin quan trọng nhất, trực
tiếp truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phổ biến, giáo dục, quán triệt các quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; định hướng tư

tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước các vấn đề thời
sự quan trọng trong nước và quốc tế; góp phần tạo sự thống nhất
tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm
tin, cổ vũ phong trào cách mạng. Đồng thời, đây là một trong
những vũ khí sắc bén, kịp thời đấu tranh chống âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch, phê phán các
quan điểm sai trái, lệch lạc, phản động [22].
1.1.2. Những ưu thế và hạn chế của hoạt động tuyên truyền miệng
* Những ưu thế của tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng là loại hình tuyên truyền trực tiếp, sử dụng lời nói
làm phương tiện chủ yếu để chuyển tải thơng tin. Tun truyền miệng có
những ưu thế sau:
- Ưu thế của ngơn ngữ nói
Ngơn ngữ là một trong những yếu tố quyết định quá trình phát
triển của loài người và sự phát triển của mỗi cá nhân. Nhờ ngôn ngữ mà


12
con người thiết lập được các mối quan hệ với nhau và mối quan hệ giữa
con người với xã hội, thực hiện sự trao đổi, giao lưu ý nghĩ, tình cảm...
Nói cách khác, con người thiết lập sự giao tiếp với nhau bằng ngơn
ngữ.
Ngơn ngữ có ba chức năng: chức năng chỉ nghĩa, chức năng thông
báo và chức năng điều khiển, điều chỉnh. Chức năng chỉ nghĩa là quá
trình dùng một từ, một câu để chỉ một nghĩa nào đó, tức là q trình
gắn từ đó, câu đó với một sự vật, hiện tượng. Chức năng thông báo là
chức năng truyền đạt nội dung thông tin, sự biểu cảm từ người này với
người kia hoặc tự mình nói với lịng mình. Chức năng điều khiển, điều
chỉnh là chức năng thiết lập và giải quyết các hoạt động, trong đó có
hoạt động trí tuệ. Trong tuyên truyền miệng sử dụng linh hoạt các chức

năng của ngơn ngữ.
Ngơn ngữ nói là thứ ngơn ngữ có trước và được biểu hiện bằng âm
thanh, được tiếp thu bằng cơ quan thính giác. Có hai loại ngơn ngữ nói
là ngơn ngữ độc thoại và ngơn ngữ đối thoại. Ngơn ngữ đối thoại có đặc
điểm là tính chất tình huống, liên quan chặt chẽ với hồn cảnh đối
thoại, cấu trúc khơng chặt chẽ, câu nói thường được rút gọn do có sự hỗ
trợ của cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nụ cười... Ngôn ngữ độc thoại là ngơn
ngữ của người nói cho những người khác nghe. Sử dụng ngơn ngữ độc
thoại địi hỏi phải chuẩn bị kỹ càng, chu đáo, lời nói phải trong sáng,
chính xác, dễ hiểu và có khả năng truyền cảm...
So với các phương tiện thơng tin khác, ngơn ngữ nói có ưu thế là mang
tính phổ biến trong giao tiếp xã hội. Khoảng 2/3 lượng thông tin mà con người
thu nhận được hàng ngày là nhờ giao tiếp bằng lời nói. Cơng cụ là lời nói, phát
biểu miệng có khả năng truyền đạt thông tin đến mọi đối tượng, kể cả đối
tượng khơng biết chữ, khơng có khả năng tiếp thu thơng tin bằng chữ viết.
Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư


13
tưởng. Cho nên, bằng ngơn ngữ nói, người phát biểu có thể trình bày
vấn đề một cách có hệ thống; diễn đạt các quan điểm, tư tưởng, phạm
trù, quy luật một cách rõ ràng, chính xác, cụ thể, sát với trình độ nhận
thức, trình độ tư duy của người nghe, trong khi các phương tiện âm
thanh khác, ánh sáng, điệu bộ, cử chỉ không thể diễn đạt rõ ràng được.
Lời nói có ưu thế là sử dụng linh hoạt, hiệu quả thơng tin cao. Lời nói
có thể sử dụng trong mọi hồn cảnh, điều kiện giao tiếp: trong phịng ở, nơi
làm việc, trên giảng đường, câu lạc bộ, trong giờ giải lao hay trong cuộc
họp, nơi công cộng, lúc trao đổi tọa đàm, với một người hoặc với nhiều
người... Do đó, việc tổ chức một buổi phát biểu đơn giản, ít tốn kém kinh
phí, không cần nhiều đến thiết bị, phương tiện kỹ thuật; người thực hiện

tuyên truyền miệng nói có thể sử dụng các thuật ngữ, thành ngữ quen
thuộc, các câu châm ngôn, cách ngôn để biểu đạt một cách ngắn gọn, dễ
hiểu về vấn đề, tức là có thể trình bày cơ đọng và chính xác về sự vật, hiện
tượng mà không cần phải nhiều lời.
Tuyên truyền miệng có thể vận dụng, khai thác các yếu tố cận ngôn
ngữ, các biện pháp tu từ để tạo ở sức truyền cảm cho bài nói. Tính
truyền cảm là đặc trưng riêng có của ngơn ngữ nói. Sức mạnh của lời
nói trước hết là ở sự lắng đọng của tình cảm, là khả năng truyền đạt
những sắc thái tinh tế của ý nghĩa và tình cảm mà ngơn ngữ viết khơng
có được. Nhờ yếu tố truyền cảm của lời nói mà người nghe có thể bỏ
qua những thơng tin nhiễu khác như tiếng ồn, sự nóng nực và các tác
động khác của môi trường, tập trung chú ý cho việc tiếp nhận thơng tin.
Tính truyền cảm của lời nói tác động đặc biệt mạnh mẽ tới xúc cảm của
người nghe, khơi dậy ở họ những tình cảm cao thượng, kích thích sự
khao khát vươn tới chiếm lĩnh những trí thức mới, tích cực, sáng tạo
trong hành động.


14
Để tạo ra tính truyền cảm cho bài nói, có thể sử dụng các biện pháp
tu từ như: ẩn dụ, so sánh, các từ láy, điệp ngữ... và các biện pháp tu từ
cú pháp; câu ẩn chủ ngữ, câu hỏi tu từ, câu đảo đối, câu đối chọi, câu
có bổ ngữ đứng ở trước... Đồng thời, có thể sử dụng các yếu tố cận
ngôn ngữ như ngữ điệu, trường độ, cao độ của tiếng nói, các yếu tố về
thanh, sắc... và kết hợp chúng với các yếu tố phi ngôn ngữ như cử chỉ,
điệu bộ, nét mặt, nụ cười, ánh mắt...
- Ưu thế trong việc sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ
Cán bộ tuyên truyền miệng không chỉ sử dụng ngữ điệu của lời nói
mà các nhà nghiên cứu gọi là “mã số ngôn ngữ” để tác động đến người
nghe, thêm vào đó, người ta cịn sử dụng một phương tiện giao tiếp

khác: tư thế, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, nụ cười, ánh mắt, mà các nhà
nghiên cứu gọi là “mã số cảm giác vận động”. Trong giao tiếp, sự biểu
cảm qua phương tiện này không kém phần tác dụng tích cực so với
ngơn ngữ, ngữ điệu. Chúng là người bạn đường thường xuyên của nhau
trong việc thể hiện tình cảm, thái độ của con người và trong việc thông
tin. Nếu như tất cả các phương tiện ngôn ngữ, cận ngôn ngữ, phi ngôn
ngữ được sử dụng linh hoạt, bổ sung cho nhau sẽ làm cho bài phát biểu
trở nên dễ hiểu hơn, lắng đọng hơn, tác động mạnh mẽ đến người nghe.
Cử chỉ điệu bộ có tác động bổ sung cho lời nói, làm cho đối tượng
hiểu rõ hơn sắc thái của lời nói, cử chỉ, điệu bộ có thể tạo đựợc ấn
tượng mạnh ở đối tượng vào những nội dung quan trọng và có tác dụng
mạnh mẽ nhất khi tiếp xúc lần đầu với người nghe hoặc khi có tình
huống xuất hiện trong phát biểu miệng: thính giả đề nghị giải đáp, trả
lời câu hỏi. Khi bắt đầu nói chuyện, cử chỉ, điệu bộ có tác dụng kích
thích, thu hút sự chú ý. Khi kết thúc bài phát biểu, cử chỉ, điệu bộ có


15
tác dụng tạo ra ấn tượng, tình cảm mến phục, mong muốn được tiếp tục
nghe.
Sự vận động của đầu, tay, tư thế cũng biểu đạt thông tin trong phát
biểu miệng. Chẳng hạn, lắc đầu thể hiện sự không đồng ý; gật đầu thể
hiện sự đồng ý, tâm đắc; lắc đầu và bĩu môi thổ hiện sư coi thường.
Cánh tay vận động có ý nghĩa hướng dẫn, chỉ bảo hoặc dơ cao chém
mạnh vào khơng khí có tác dụng khẳng định dứt khoát vấn đề…
Tư thế, tức là sự tương quan kết hợp giữa đầu, cổ, thân người và
tay, chân biểu hiện tính cách, tâm trạng con người. Đi trong tư thế ưỡn
ngực về phía trước thể hiện sự ngạo mạn, kiêu căng. Tư thế đứng thẳng
đĩnh đạc, nghiêm trang thể hiện sự đàng hồng, tính trung thực. Tư thế
khúm núm thể hiện sự sợ hãi, nếu lại xoa hai tay vào nhau thể hiện sự

nhún nhường, nịnh bợ.
Nét mặt, ánh mắt cũng ảnh hưởng đến hiệu quả thông tin. Những
biểu hiện ở vùng trán, lơng mày, mắt, miệng có thể tạo thành một biểu
cảm. Rướn lông mầy biểu hiện sự ngạc nhiên; nhíu lơng mày, mơi mím
chặt biểu hiện sự phẫn nộ; ánh mắt long sòng sọc thể hiện sự tức giận…
Tư thế, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, nụ cười, ánh mắt, có vai trị lớn trong
việc biểu đạt, truyền đạt thơng tin. Chúng hỗ trợ lời nói, làm tăng ý
nghĩa của lời nói, biểu hiện cảm xúc, sắc thái tình cảm của người nói
đối với nội dung, do đó chúng góp phần nâng cao chất lượng phát biểu
miệng.
- Ưu thế của loại hình giao tiếp trực tiếp
Việc trực tiếp theo dõi một diễn giả trình bày, thính giả thường có
cảm giác vấn đề nêu ra thật hơn, hay hơn, chính xác hơn. Chính vì vậy
mà dù hiện nay sách báo nhiều, các kênh thông tin rất đa dạng nhưng
hàng ngày vẫn có hàng triệu học sinh đến trường nghe thầy giáo giảng


16
bài, hàng vạn người đến các hội trường nghe cán bộ tuyên truyền nói
chuyện.
Khác với giao tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng, sự
giao tiếp trực tiếp và sinh động trong phát biểu miệng dễ tạo cho người
nghe cảm giác gần gũi thân mật. Giao tiếp trực tiếp cho phép tạo lập
khơng khí cởi mở, xây dựng mối quan hệ thân mật, sinh động với đối
tượng. Nhờ đó, người nói có thể mang đến cho người nghe khơng chỉ
nội dung của lời nói mà cịn mang lại cho họ tình cảm, niềm tin. Chính
vì vậy, V.I. Lênin cho rằng: “ảnh hưởng cá nhân và những lời phát biểu
tại các cuộc họp có ý nghĩa rất lớn. Khơng có những cái đó thì khơng
có hoạt động chính trị”.
Một ưu thế không kém phần quan trọng của giao tiếp trực tiếp là

nói đúng đối tượng. Nhờ nghiên cứu trước về đối tượng và nắm bắt
thêm đặc điểm đối tượng thông qua giao tiếp trực tiếp, người nói có khả
năng hiểu biết rõ nhu cầu, tâm trạng của người nghe, đặt mình vào vị trí
người nghe, trên cơ sở đó xác định nội dung phải nói là gì và nói như
thế nào, để lời nói của mình đi vào tâm hồn người nghe nhanh hơn, hiệu
quả hơn.
Giao tiếp trực tiếp tạo điều kiện cho người nói khả năng vận dụng
linh hoạt cách nói, trong những tình huống khác nhau, sử dụng cử chỉ,
điệu bộ, điều chỉnh âm lượng phù hợp với đối tượng, với bối cảnh.
Trong giao tiếp trực tiếp, người nói hồn tồn có khả năng kiểm sốt
được cách thức tiếp nhận thông tin của người nghe. Nếu biết thường
xuyên quan sát người nghe thì bất cứ lúc nào người nói cũng có thể
thơng qua kênh thơng tin phản hồi, tức là căn cứ vào dáng vẻ bề ngoài,
sự tập trung chú ý, hoặc những yếu tố khác trong hành vi của người
nghe để phán đoán khả năng tiếp thu thông tin, thái độ đối với nội dung


17
thơng tin của người nghe. Nhờ đó mà xác định cách xử lý: thay đổi nội
dung thông tin, chuyển sang cách nói khác, sử dụng cử chỉ, điệu bộ
thích hợp hoặc một biện pháp thủ thuật nào đó để thu hút sự chú ý của
người nghe.
Giao tiếp trực tiếp cho phép chuyển nhanh từ hình thức độc thoại
sang đối thoại. Người nghe có thể được bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của
mình; được hỏi và được trả lời những vấn đề mà mình quan tâm nhưng
chưa được giải thích hoặc trước đó giải thích chưa thấu đáo; được trao
đổi, tranh luận với nhau về những vấn đề còn chưa thống nhất. Do đó,
có thể nói tuyên truyền miệng là kênh thơng tin mang tính dân chủ cao
nhất.
Có thể nói giao tiếp trực tiếp tạo cho người nói và người nghe ưu

thế mà người phát biểu trên vơ tuyến truyền hình, trên đài phát thanh và
khán thính giả của họ khơng thể có được.
* Hạn chế của tuyên truyền miệng
Lời nói trong hoạt động tuyên truyền miệng mang tính tuyến tính,
tức là các tín hiệu ngơn ngữ xuất hiện lần lượt, liên tục, từ này nối từ
kia theo thời gian. Chính tính tuyến tính của lời nói tạo ra những hạn
chế nhất định cho cả người nói và người nghe trong q trình truyền đạt
và lĩnh hội thơng tin.
Đối với người nói, nếu khơng làm chủ được lời nói, khơng biết tự
kiềm chế khi xúc động mạnh và không may nhỡ lời thì khơng có khả
năng sửa lại. “Câu nói như tên, không nên bắn bậy, đã lọt vào tai không
tài nào rút ra được” (Lục Tài Tử). Đó là điều người nói cần ln chú ý.
Cũng do tính tuyến tính của lời nói mà người nghe chỉ có thể tiếp
thu thông tin một cách tức thời, một lần và không có điều kiện quay lại
với những điều chưa hiểu hoặc dừng lại để nghiền ngẫm về những điều


18
chưa hiểu đó (lời nói gió bay). Bởi vì, nếu dừng lại suy nghĩ thì khơng
nghe được những thơng tin tiếp theo. Để khắc phục hạn chế này, người
nói phải rèn luyện khả năng làm chủ lời nói; sử dụng cách nói phổ
thơng, dễ hiểu; lựa chọn ngơn ngữ chính xác, đơn nghĩa; phải dừng lại
giải thích kỹ hơn những nội dung trừu tượng, khó hiểu và phải nắm
vững các thủ thuật thu hút và tái lập sự chú ý của người nghe.
Trong tuyên truyền miệng, cán bộ tuyên truyền miệng là một mắt
khâu rất quan trọng, trạng thái của hệ thống phụ thuộc chủ yếu vào mắt
khâu đó. Nói cụ thể hơn, chất lượng, hiệu quả bài phát biểu hoàn toàn
phụ thuộc vào phẩm chất và năng lực cửa người nói. Một chủ đề hay,
được chuẩn bị tốt nhưng trình bày thiếu hấp dẫn, hoặc nội dung được
chuẩn bị tốt, phương pháp trình bày hấp dẫn nhưng uy tín của người nói

đối với người nghe khơng có thì trong mọi trường hợp trên hiệu quả bài
phát biểu đều thấp.
Phạm vi tác động đến đối tượng, tốc độ truyền thông tin của tuyên
truyền miệng thường hẹp hơn, chậm hơn so với các phương tiện thông
tin đại chúng nhất là báo chí. Khối lượng thơng tin được chuyển tải
trong một buổi nói chuyện tỉ lệ thuận với thời gian buổi nói chuyện đó
diễn ra. Muốn truyền đạt nhiều thơng tin phải kéo dài thời gian buổi nói
chuyện. Điều đó mâu thuẫn với khả năng duy trì sự tập trung, chú ý liên
tục, lâu dài ở người nghe trong suốt quá trình phát biểu.
1.2. Chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng công tác tuyên
truyền miệng
1.2.1. Chất lượng và chất lượng công tác tuyên truyền miệng
1.2.1.2. Chất lượng


19
Chất lượng là khái niệm quen thuộc với loài người ngay từ thời cổ đại,
tuy nhiên đây cũng là một khái niệm khó xác định, khó đo lường, gây nhiều
tranh cãi.
Tùy theo đối tượng sử dụng, từ “chất lượng” có ý nghĩa khác nhau.
Chẳng hạn, người sản xuất coi chất lượng là điều họ phải làm để đáp ứng các
quy định và yêu cầu do khách hàng đặt ra, để được khách hàng chấp nhận.
Chất lượng được so sánh với chất lượng của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo
các chi phí, giá cả. Do con người và nền văn hóa trên thế giới khác nhau, nên
cách hiểu của họ về chất lượng và đảm bảo chất lượng cũng khác nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Chất là phạm trù triết học
dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, đó là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện
tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện
tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có,

làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng
khác. Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những
thuộc tính, những yếu tố cấu thành quy định. Thuộc tính của sự vật là những
tính chất, trạng thái, yếu tố cấu thành sự vật. Đó là cái vốn có của sự vật từ
khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển
của nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được
bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi
sự vật có rất nhiều thuộc tính trong đó mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất
của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Lượng là phạm trù triết học
dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mơ, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự
vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái
khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật


20
khơng phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị
kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mơ lớn hay nhỏ, trình độ
cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…
Như vậy, theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, bất cứ một sự vật,
hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất
hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Nxb Đà Nẵng xuất bản
năm 2000 lại định nghĩa: “Chất lượng: Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của
một con người, một sự vật, sự việc” [42, tr.144].
Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS 9000:2000,
đã đưa ra định nghĩa sau: “Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính
của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách
hàng và các bên có liên quan”. Ở đây, “yêu cầu” là các nhu cầu và mong đợi
được công bố, ngụ ý hay bắt buộc theo tập quán.

Tựu chung, chất lượng là một khái niệm động với nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Có thể liệt kê những góc độ tiếp cận sau:
Thứ nhất, chất lượng là sự vượt trội. Đây là cách tiếp cận mang tính
truyền thống, coi chất lượng đồng nhất với sự đặc biệt, sự nổi trội. Có nghĩa
là, chất lượng không thể đo đếm bằng những tiêu chuẩn đo lường thơng
thường, mà là cái riêng biệt, hồn thiện, không phổ biến đối với mọi sự vật.
Cách tiếp cận này có nhược điểm là khơng đưa ra được một công cụ cụ thể để
đo lường, đánh giá chất lượng, dẫn tới tuyệt đối hóa khái niệm chất lượng.
Thứ hai, chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chí. Theo đó, hệ thống
tiêu chí được xem là cơng cụ - phương tiện trung gian để đánh giá, kiểm tra
chất lượng, thể hiện những thuộc tính cần có của chất lượng một sự vật. Theo


21
đó, chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chí được định trước. Cách tiếp cận
này cho phép định trước một hệ thống thơng số mang tính quy chuẩn cần đạt
tới của một sự vật, để sự vật đó đảm bảo các hoạt động của mình ở mức cao.
Điểm cốt yếu là ở chỗ, để có một bộ tiêu chí chuẩn, vấn đề xác định cơ sở xây
dựng bộ tiêu chí là hết sức quan trọng, địi hỏi sự chuẩn xác, khoa học cao và
điều này là hết sức khó khăn. Bên cạnh đó, thuật ngữ “tiêu chí” cho ý niệm về
một hình mẫu tĩnh tại, nghĩa là khi các tiêu chí đã được xác định, chúng tồn
tại với tư cách là kết quả của một quá trình đã kết thúc, không cần cân nhắc,
xem xét, nhận thức lại hoặc bổ sung nữa, trong khi tri thức, nhận thức, quan
niệm của con người luôn nằm trong sự vận động, biến đổi và phát triển. Vì
thế, nếu chấp nhận sự tĩnh tại của bộ tiêu chí sẽ thiếu tính khoa học, nếu
khơng, địi hỏi phải khắc phục bằng cách khơng ngừng nghiên cứu, bổ sung,
điều chỉnh bộ tiêu chí cho phù hợp.
Thứ ba, chất lượng là sự đáp ứng và phù hợp với mục đích. Đây là cách
tiếp cận thơng dụng, được áp dụng rộng rãi. Theo cách tiếp cận này, chất
lượng khơng gì khác là những thuộc tính căn bản mà sự vật phải có để đáp

ứng và phù hợp với mục đích được áp dụng. Vấn đề mấu chốt trong cách tiếp
cận này là việc xác định mục đích - một khái niệm động phụ thuộc vào các
yếu tố như thời gian, địa điểm, mức độ cao, thấp… Do vậy, chất lượng khơng
có tính tương đối mà hồn tồn phụ thuộc mục đích được xác định hay được
đánh giá tùy vào mục đích. Ví dụ, nếu mục đích của giáo dục đại học là cung
cấp nguồn lao động được đào tạo cho xã hội thì chất lượng ở đây sẽ được xem
là mức độ đáp ứng của sinh viên tốt nghiệp đối với thị trường lao động cả về
số lượng và ngoại hình. Nhược điểm của cách tiếp cận nay là rất khó xác định
được mục tiêu trong từng thời kỳ và cụ thể hóa nó.


22
Thứ tư, chất lượng với tư cách là hiệu quả của việc đạt mục đích. Đây là
phiên bản của cách tiếp cận trên nhưng ở mức độ cao hơn. Theo đó, chất
lượng được đánh giá thơng qua hiệu suất hay hiệu quả đạt mục đích đã được
xác định ở mức cao. Điểm quan trọng mang tính quyết định là vấn đề mức độ
trong việc xác định và thực hiện mục đích. Chất lượng được đánh giá khơng
đơn thuần là bằng tính mục đích mà ở mức độ xác định và mức độ hồn thành
mục đích. Cách tiếp cận này cho phép các đơn vị tự quyết định các tiêu chuẩn
chất lượng và mục tiêu của mình.
Thứ năm, chất lượng với tư cách giá trị chuyển đổi. Đây là cách tiếp cận
bắt nguồn từ khái niệm “thay đổi chất”. Theo cách tiếp cận này, chất lượng
của sự vật A được đánh giá thông qua một sự vật khác B - là kết quả của quá
trình hoạt động mà sự vật A là chủ thể tác động vào đối tượng làm chuyển
biến, thay đổi sự vật B theo chiều hướng tích cực. Gía trị gia tăng của sự vật
B phản ánh chất lượng của sự vật A. Ở đây, việc xác định chất lượng phụ
thuộc vào việc định nghĩa giá trị và việc đo lường giá trị gia tăng.
Từ các góc độ tiếp cận trên có thể đưa ra kết luận tổng quát: Thứ nhất,
các góc độ tiếp cận chất lượng dù khác nhau song có những điểm giao thoa;
Thứ hai, chất lượng là khái niệm có tính động và khó định nghĩa nó như một

khái niệm đơn nhất; Thứ ba, bao quát nhất, chất lượng là sự biểu hiện ra bên
ngoài sự vật qua các thuộc tính, nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật
trong một thể thống nhất và khơng tách rời sự vật.
Tóm lại, chất lượng là khái niệm chỉ mức độ của một tập hợp các thuộc
tính căn bản, thống nhất hữu cơ, cấu thành nên sự vật, đảm bảo cho sự vật khả
năng đáp ứng tốt nhất những mục đích xác định.
1.2.1.3. Chất lượng công tác tuyên truyền miệng


23
Dựa trên cơ sở khoa học nêu trên, có thể hiểu chất lượng CTTTM là tổng
thể những đặc điểm phẩm chất, năng lực, phẩm chất tâm lý, nguồn lực, cơ chế,
điều kiện cần thiết đảm bảo cho CTTTM của Đảng thực hiện đúng mục tiêu,
yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, phù hợp với thực tiễn và sự phát triển xã hội, góp
phần thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng.
Chất lượng CTTTM được thể hiện qua chất lượng đội ngũ BCV. Đội ngũ
BCV phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất, đạo đức tốt, có năng
lực trí tuệ tốt, có khả năng và năng lực nắm bắt các vấn đề và giải quyết các
vấn đề, nhất là các vấn đề mới nảy sinh nhanh, nhạy, linh hoạt, sáng tạo, hết
lòng phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân.
Trong tình hình mới hiện nay, để CTTTM đạt chất lượng, hiệu quả cao
đòi hỏi mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng phải có phương hướng, nhiệm vụ, chương
trình, kế hoạch cụ thể cho CTTTM; CTTTM cũng cần có những trọng tâm,
trọng điểm phù hợp với u cầu, nhiệm vụ chính trị, cơng tác xây dựng Đảng
và tình hình thực tế ở từng địa phương. CTTTM phải được tiến hành toàn
diện và thực hiện đều khắp các cấp uỷ đồng thời phải có sự lãnh đạo chặt chẽ,
thống nhất, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức Đảng với các cơ quan có liên
quan đến cơng tác tuyên truyền, vận động nhân dân.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng công tác tuyên truyền miệng
1.2.2.1. Chất lượng của chủ thể tuyên truyền miệng

Thứ nhất, trình độ học vấn, chun mơn, lý luận chính trị của BCV
Hình thức hoạt động chủ yếu, cơ bản của BCV là tun truyền miệng.
Thơng qua đó cung cấp thơng tin, đặc biệt là những thông tin mới, giá trị mới,
những thông tin mang tính nội bộ về tình hình quốc tế, trong nước; phổ biến,
giải thích các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách lớn, mới, chỉ thị,
nghị quyết của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố,
an ninh, quốc phịng, đối ngoại.


×