Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

luận văn thạc sĩ chính trị học chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh nam định hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.15 KB, 111 trang )

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1. Nhân tố tác động đến sự suy thoái đạo đức, lối sống của
cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Nam Định
Biểu đồ 2.1. Niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam của cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh
Nam Định
Biểu đồ 2.2. Đánh giá thái độ của cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Nam
Định đối với sự nghiệp đổi mới
Biểu đồ 2.3. Đánh giá sự suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ
tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Nam Định
Biểu đô 2.4. Đánh giá năng lực tư duy lý luận của cán bộ tuyên giáo cấp
huyện ở tỉnh Nam Định
Biểu đồ 2.5. Đánh giá năng lực lãnh đạo, tổ chức của cán bộ tuyên giáo cấp
huyện ở tỉnh Nam Định
Biểu đồ 2.6. Đánh giá trình độ lý luận chính trị của cán bộ tuyên giáo cấp
huyện ở tỉnh Nam Định
Biểu đồ 2.7. Đánh giá năng lực diễn thuyết của cán bộ tuyên giáo cấp huyện
ở tỉnh Nam Định


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GCCN



: Giai cấp công nhân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC


4

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc” [34, tr.309] và “Công việc thành công hoặc thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi cán bộ, như người làm
vườn vun trồng những cây cối quý báu” [34, tr.313]. Như vậy, có thể thấy,
nâng cao chất lượng của cán bộ luôn là một yêu cầu, đồng thời cũng là nhiệm
vụ thường xuyên, liên tục mang tính lịch sử kế thừa xuất phát từ thực tiễn.
Hiện nay, trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế, để phát triển đất nước với
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, cán
bộ trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và
củng cố chính quyền vững mạnh. Đặc biệt là cán bộ tuyên giáo, lực lượng
xung kích của Đảng thì càng phải có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện
sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng.

Cùng với đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp, cán bộ tuyên giáo cấp
huyện có vị trí, vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của Ban Tuyên giáo; là những người trực tiếp tham mưu cho cấp ủy về chủ
trương, chính sách ở những lĩnh vực có liên quan tới tư tưởng, văn hóa, khoa
giáo; thay mặt cấp ủy chỉ đạo, tuyên truyền, phổ biến nghị quyết, chủ trương
của Đảng và cấp ủy cùng cấp; các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương vào quảng đại quần chúng nhân dân. Do đó, chất lượng cán bộ
tuyên giáo cấp huyện ảnh hưởng to lớn đến sức mạnh của hệ thống chính trị ở
địa phương, tác động đến sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước. Tỉnh
Nam Định không nằm ngoài bối cảnh chung đó.
Nam Định là tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, dân số khoảng
gần 2 triệu người, gồm 09 huyện và 01 thành phố. Nhìn chung, những năm
qua, cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh đã tích cực, chủ động bám sát tình
hình, nhiệm vụ của đất nước, địa phương; tập trung tuyên truyền, cổ vũ việc
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà


5

nước, thực hiện các nhiệm vụ về văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng, đối
ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị; chủ động,
nhạy bén, sắc sảo, linh hoạt trong đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hoà
bình". Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn gặp phải một số yếu kém: trình độ, năng
lực còn hạn chế; việc tổ chức học tập, quán triệt, hướng dẫn tuyên truyền và
kiểm tra thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng chưa có nhiều cách làm
mới cho nên hiệu quả chưa cao; công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước có
lúc chưa sắc bén, kịp thời; công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện Chỉ thị
03-CT/TW của Bộ Chính trị về "Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh" chưa đạt kết quả như mong muốn; công tác đấu
tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái của các thế lực phản động, thù

địch, cơ hội thực hiện chưa đủ mạnh, chưa đủ nhiều, thiếu tính thuyết phục,
chưa tạo thành một trận tuyến rộng khắp...
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu chất lượng cán bộ tuyên
giáo cấp huyện của tỉnh Nam Định là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả
về mặt lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Chất lượng cán bộ
tuyên giáo cấp huyện của tỉnh Nam Định hiện nay” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp trình độ thạc sỹ chính trị học, chuyên ngành công tác tư tưởng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, vấn đề chất lượng cán bộ đã thu hút sự quan tâm,
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay, đã có một số công trình
được công bố với những mức độ thể hiện khác nhau.
Một số công trình nghiên cứu về năng lực cán bộ gồm:
-

GS.TS Nguyễn Ngọc Long, Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới
tư duy, Tạp chí Cộng sản, Số 10 - 1987.

-

Hồ Bá Thâm (1995), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


6

-

PGS Trần Đình Huỳnh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của năng lực trí tuệ
và lý luận, Tạp chí Xây dựng Đảng, Số 2 - 1995.


-

Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

-

GS.TSKH Vũ Huy Từ, Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ
cơ sở, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 05 - 2002.

-

Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở
tỉnh Hà Tĩnh hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Báo chí
và tuyên truyền…
Hay công trình khoa học nghiên cứu về trình độ cán bộ, đó là:

-

Đỗ Cao Quang (1996), Nâng cao trình độ tư duy cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã miền núi hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Báo chí và
tuyên truyền.
Những công trình trên trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến năng lực,
trình độ cán bộ; bản chất, vai trò của năng lực, trình độ và sự cần thiết phải
phát triển năng lực, nâng cao trình độ cho cán bộ. Đó là những đóng góp có
giá trị và có ý nghĩa đối với sự phát triển lý luận, làm sáng tỏ bản chất khoa
học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu chuyên sâu còn có những bài viết:

- Hà Quang Ngọc, Đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở: Thực trạng và
giải pháp, Tạp chí Cộng sản, số 2 - 1999.
- Nguyễn Đức Vân (2003), Bàn về tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ cán
bộ, công chức, Tạp chí Lao động - xã hội.
- Trịnh Xuân Toản, Đổi mới, hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công
chức nhà nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 04 - 2003.


7

- Trần Anh Tuấn (2006), Thấy gì qua 2 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ,
công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 12 - 2006.
- Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cơ sở ở Hải Dương, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 9 - 2009.
Những công trình khoa học này đã đề cập tương đối toàn diện về cán
bộ, đặc điểm, vai trò của cán bộ, phương thức tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ
cán bộ... Thành công của các công trình trên là đã đi sâu đánh giá đúng thực
trạng cán bộ của các đối tượng cụ thể; từ đó xác định mâu thuẫn và hướng
giải quyết; xác định yêu cầu và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoặc
nâng cao chất lượng cán bộ trong giai đoạn mới.
Ngoài ra, có thể kể đến những đóng góp quý báu của một số công trình
khoa học khác như:
-

PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm (chủ biên) (2003),
Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

-


Tô Huy Rứa, Bàn về chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng trong giai đoạn
mới, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, số 6 - 2006.

-

PGS.TS Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (2008), Giáo trình Nguyên lý công tác
tư tưởng (tập 1; 2), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Dưới góc độ khoa học, các công trình nghiên cứu trên là hết sức có giá
trị đối với những người đã và đang nghiên cứu về chất lượng cán bộ. Tuy
nhiên, đến nay, đề tài “Chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh
Nam Định hiện nay” là công trình nghiên cứu đầu tiên mang tính toàn diện
đối với cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh Nam Định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Tìm ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp
huyện của tỉnh Nam Định hiện nay.


8

3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng cán bộ
tuyên giáo cấp huyện;
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện
và những vấn đề đặt ra về chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh
Nam Định;
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh Nam Định hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp
huyện của tỉnh Nam Định hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề chất lượng cán bộ tuyên giáo
cấp huyện của tỉnh Nam Định hiện nay.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp
huyện của tỉnh Nam Định hiện nay được thực hiện từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn vận dụng lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng ta về chất
lượng cán bộ nói chung và cán bộ tuyên giáo nói riêng. Đồng thời, luận văn
còn kế thừa một số công trình khoa học của các tác giả đi trước về vấn đề này.
Luận văn sử dụng các phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng
hợp, điều tra xã hội học, thống kê.
Luận văn còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính
quyền của tỉnh Nam Định.
6. Cái mới của luận văn


9

- Luận văn bước đầu xác định được những tiêu chí về chất lượng cán
bộ tuyên giáo; làm rõ hơn vai trò của việc nâng cao chất lượng đối với hoạt
động của đội ngũ này.
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ yêu cầu cấp thiết phải nâng cao chất
lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ tuyên
giáo cấp huyện và những vấn đề đặt ra về chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp
huyện của tỉnh Nam Định.

- Luận văn đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng của đội
ngũ cán bộ này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch
định chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ
tuyên giáo.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập, thực
hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết, 84 trang.

Chương 1


10

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG
CÁN BỘ TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN
1.1. Cán bộ tuyên giáo cấp huyện và chất lượng cán bộ tuyên giáo
cấp huyện
1.1.1.

Cán bộ tuyên giáo cấp huyện
1.1.1.1. Cán bộ
- Về khái niệm:
Từ xưa đến nay, ở Việt Nam và trên thế giới, sự thành công, thất bại
của công việc, hoặc sự tồn vong, thịnh suy của mọi quốc gia đều phụ thuộc rất
lớn vào những người cán bộ. Đối với cách mạng nước ta hiện nay, vấn đề xây
dựng cán bộ có tầm quan trọng vừa mang tính khoa học, là yêu cầu của cuộc

sống, vừa có tính cấp bách, lại có tính cơ bản lâu dài.
Như chúng ta đã biết, cán bộ được hình thành và phát triển cùng với
công cuộc giải phóng đất nước, bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo nghĩa Hán Việt thì “cán” là đảm đang, “bộ” là bộ phận; “cán bộ” là
phần tử hoạt động trọng yếu trong một tổ chức, có khả năng đảm đang, gánh
vác một bộ phận công việc nhất định. Có thể nói, khái niệm “cán bộ” (cadres)
được sử dụng từ lâu và bao hàm một diện rộng.
Trong Từ điển Tiếng Việt, “cán bộ” được định nghĩa là :
+ Người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ trong cơ quan Nhà nước,
Đảng và đoàn thể;
+ Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người không có chức vụ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng định nghĩa: “Cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [34, tr.309].


11

Luật Cán bộ, công chức năm 2008 gồm 10 chương, 87 điều, có hiệu lực
thi hành vào ngày 01/01/2010 đã có những quy định phân biệt giữa cán bộ với
công chức tại điều 4 như sau:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương,
ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm

vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải
là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng [28, tr.1].
Trong luận văn này, tác giả đi theo định nghĩa về cán bộ trong Luật
Cán bộ, công chức năm 2008
- Về vị trí, vai trò của cán bộ:
Trong hệ thống các nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về
cán bộ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc”, Hồ Chí Minh coi: "Vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần
kíp" [34, tr.313].
Cán bộ là nguồn nhân lực quan trọng trong bộ máy hành chính nhà
nước từ trung ương tới địa phương. Hiệu lực của hệ thống chính trị nói chung
và của bộ máy hành chính Nhà nước nói riêng, xét đến cùng được quyết định
bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả của cán bộ.
1.1.1.2. Cán bộ tuyên giáo
- Về khái niệm:


12

Để định nghĩa cán bộ tuyên giáo trước hết phải tìm hiểu về cán bộ tư
tưởng. Đội ngũ cán bộ tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta xét theo lĩnh vực và
hoạt động nghề nghiệp, bao gồm: cán bộ nghiên cứu, giảng dạy lý luận; cán
bộ tuyên giáo; cán bộ báo chí, xuất bản; cán bộ văn hóa - thông tin; cán bộ
hoạt động văn hóa - nghệ thuật; cán bộ chính trị trong lực lượng vũ trang…Ở
đây chỉ đề cập đến đội ngũ cán bộ tuyên giáo - những người có chức năng
tham mưu, giúp cấp ủy chỉ đạo, quản lý, kiểm tra các mặt hoạt động của công
tác tư tưởng.
Tóm lại, cán bộ tuyên giáo là người hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng

-văn hóa, là cán bộ trong biên chế hoặc hợp đồng của Ban Tuyên giáo ở các
cấp, các ngành, các đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội; là cán bộ hoạt
động tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị và trung tâm thông tin; có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ nhất định; có chức năng tham mưu, giúp cấp ủy chỉ
đạo, quản lý, kiểm tra và tác chiến trên các mặt hoạt động của công tác tư
tưởng.
- Về vị trí, vai trò:
Trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh và
kể cả khi cuộc đấu tranh oanh liệt này bị kẻ thù dìm trong biển máu, những cán
bộ tuyên truyền của Đảng vẫn gan góc chiến đấu, đưa đường lối của Đảng đến
với quần chúng công nông, thắp lên trong họ niềm tin mãnh liệt vào lý tưởng
cộng sản, vào thắng lợi của dân tộc. Nhiều cán bộ tuyên truyền đã cùng đồng
chí, đồng bào mình biến nhà tù đế quốc thành trường học đấu tranh cách mạng;
biến nhà máy, hầm mỏ, đồng ruộng, rừng núi thành nơi rèn luyện ý chí chiến
đấu, nơi gắn kết máu thịt mang tính sống còn giữa Đảng với nhân dân. Thắng lợi
của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là thắng lợi của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh, của đường lối độc lập, tự


13

chủ đầy sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, đồng thời cũng là thành tựu vĩ đại của
công tác tư tưởng - văn hóa do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, cán bộ tuyên giáo đã tích cực tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm sáng tỏ hơn nhiều vấn đề lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trực tiếp
góp phần hình thành, xác định và phát triển đường lối đổi mới, nỗ lực tìm tòi
các sáng kiến của nhân dân để khẳng định, cổ vũ và đưa vào cuộc sống; củng
cố niềm tin và lý tưởng, khơi dậy sức sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức mạnh

tổng hợp đưa đất nước vượt qua mọi thử thách, làm nên những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Những năm gần đây, cán bộ tuyên giáo đã góp phần quan
trọng làm cho văn hóa ngày càng thấm sâu và trở thành nền tảng tinh thần của
đời sống xã hội. Các phương tiện và điều kiện công tác tư tưởng có nhiều thuận
lợi so với trước, song không thay thế hoàn toàn nhiệt tình cách mạng và ý thức
nghề nghiệp của những cán bộ làm công tác tuyên giáo.
1.1.1.3. Cán bộ tuyên giáo cấp huyện
- Về khái niệm:
Cán bộ tuyên giáo cấp huyện là người hoạt động trong lĩnh vực tư
tưởng - văn hóa ở cấp huyện. Cán bộ tuyên giáo cấp huyện được biên chế
hoặc hợp đồng của Ban Tuyên giáo huyện ủy và tương đương, thực hiện
nhiệm vụ Ban tuyên giáo giao phó. Cán bộ tuyên giáo cấp huyện còn là những
người hoạt động tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, các trung
tâm thông tin cấp huyện.
- Về chức năng: tham mưu cho Ban Chấp hành Đảng bộ huyện trong
lĩnh vực công tác tuyên giáo, có chức năng: chỉ đạo, hướng dẫn triển khai,
kiểm tra, tổng kết thực tiễn về công tác chính trị - tư tưởng, văn hoá - văn
nghệ, khoa giáo, lịch sử Đảng, dư luận xã hội, biên soạn tin, bài viết, xuất bản


14

ấn phẩm của huyện; hướng dẫn dư luận, đấu tranh chống các quan điểm sai
trái trên địa bàn huyện.
- Về nhiệm vụ:
Theo dõi, tổng hợp và nắm tình hình tư tưởng trong Đảng và xã hội;
kịp thời đề xuất với Ban Chấp hành Đảng bộ huyện và cấp ủy cấp trên các
giải pháp về công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị - tư tưởng, văn
hoá - văn nghệ, khoa giáo, lịch sử Đảng,... Đồng thời, hướng dẫn, đôn đốc,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện những nội dung công tác theo quy định.

Tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền,
giáo dục để các tổ chức cơ sở đảng, nhân dân nắm rõ chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của Đảng bộ huyện.
Phối hợp với Ban Tổ chức, Trung tâm bồi dưỡng chính trị tổ chức các
lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, học tập nghị quyết, tập huấn chuyên môn,
nghiệp vụ của các ban đảng, các tổ chức đoàn thể cho cán bộ, đảng viên, đoàn
viên, hội viên theo nội dung, chương trình kế hoạch của cấp uỷ và cấp trên.
Giúp cấp uỷ theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thuộc lĩnh vực chính
trị - tư tưởng, văn hoá - xã hội ở địa phương.
Sưu tầm, biên soạn và chỉ đạo các tổ chức cơ sở biên soạn lịch sử
Đảng bộ địa phương; tuyên truyền giới thiệu, phát huy truyền thống cách
mạng của Đảng tới cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong huyện.
- Về vị trí, vai trò:


15

Một là, cán bộ tuyên giáo cấp huyện có vai trò to lớn trong việc phát
triển kinh tế - xã hội của huyện. Tức là, tham gia vào quá trình cụ thể hóa
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành chủ trương, biện pháp phát
triển kinh tế - xã hội của huyện.
Hai là, cán bộ tuyên giáo cấp huyện có vai trò hết sức quan trọng trong
công tác giáo dục lý luận chính trị. Trên cơ sở nắm vững chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử Đảng và cách mạng Việt Nam, nắm
vững cương lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng, người làm công tác tuyên
giáo tổ chức bồi dưỡng lý luận chính trị, thông tin thời sự, tuyên truyền chính
sách theo các chương trình của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy; bồi dưỡng và
hướng dẫn nghiệp vụ công tác tuyên giáo cho ban tuyên giáo cấp ủy cấp dưới,
các đảng bộ cơ sở, trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện.
Ba là, cán bộ tuyên giáo có vai trò quyết định đưa đường lối, chính

sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị của đất nước, của tỉnh, huyện đến với nhân
dân. Cụ thể là, cán bộ tuyên giáo cấp huyện chịu trách nhiệm tổ chức nghiên
cứu, tuyên truyền, quán triệt, hướng dẫn triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quy chế của Đảng; kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, các ban,
ngành, đoàn thể trong việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy
chế của Trung ương, của tỉnh trong lĩnh vực tuyên giáo.
Bốn là, cán bộ tuyên giáo cấp huyện nắm vững và định hướng dư luận
xã hội trong huyện bằng việc nghiên cứu, theo dõi, tổng hợp tình hình tư
tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; những âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa ở địa bàn huyện; dự
báo diễn biến, xu hướng tư tưởng có thể xảy ra; kịp thời báo cáo, kiến nghị
với Huyện ủy phương hướng, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp giải quyết.


16

Năm là, cán bộ tuyên giáo cấp huyện còn có vai trò thông tin chính trị,
thời sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng…
cho nhân dân trong huyện. Đặc biệt, định hướng để người dân hiểu được diễn
biến chính trị trong nước và quốc tế.
Hơn 80 năm đã trôi qua, đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp nói chung
và cấp huyện nói riêng có quyền tự hào về những đóng góp thiết thực vào
những thành công qua các thời kỳ cách mạng và sự nghiệp đổi mới đất nước,
nhất là trong thời điểm hiện nay, đội ngũ này cần phải tiếp tục đổi mới toàn
diện, mạnh mẽ về nội dung và phương thức, không ngừng nỗ lực nâng cao
chất lượng và hiệu quả; tích cực góp phần trực tiếp xây dựng Đảng về chính
trị, tư tưởng, đạo đức và văn hóa; gắn chặt nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái
về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên.
1.1.2.


Chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện
1.1.2.1. Chất lượng
Chất lượng là khái niệm quen thuộc với loài người ngay từ thời cổ đại,
tuy nhiên đây cũng là một khái niệm khó xác định, khó đo lường, gây nhiều
tranh cãi.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Chất là phạm trù triết học
dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, đó là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện
tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện
tượng khác. Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của
sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính,
yếu tố cấu thành nó. Như vậy, theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, bất


17

cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt
đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Nxb Đà Nẵng xuất bản
năm 2000 lại định nghĩa: "Chất lượng: Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một
con người, một sự vật, sự việc" [37, tr. 144].
Tựu chung, chất lượng là một khái niệm động với nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Có thể liệt kê một số góc độ tiếp cận sau:
Thứ nhất, chất lượng là sự vượt trội. Đây là cách tiếp cận mang tính
truyền thống, coi chất lượng đồng nhất với sự đặc biệt, sự nổi trội. Có nghĩa
là, chất lượng không thể đo đếm bằng những tiêu chuẩn đo lường thông
thường, mà là cái riêng biệt, hoàn thiện, không phổ biến đối với mọi sự vật.
Cách tiếp cận này có nhược điểm là không đưa ra được một công cụ cụ thể để

đo lường, đánh giá chất lượng, dẫn tới tuyệt đối hóa khái niệm chất lượng.
Thứ hai, chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chí. Theo đó, hệ thống
tiêu chí được xem là công cụ - phương tiện trung gian để đánh giá, kiểm tra
chất lượng, thể hiện những thuộc tính cần có của chất lượng một sự vật. Theo
đó, chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chí được định trước. Cách tiếp cận
này cho phép định trước một hệ thống thông số mang tính quy chuẩn cần đạt
tới của một sự vật, để sự vật đó đảm bảo các hoạt động của mình ở mức cao.
Điểm cốt yếu là ở chỗ, để có một bộ tiêu chí chuẩn, vấn đề xác định cơ sở xây
dựng bộ tiêu chí là hết sức quan trọng, đòi hỏi sự chuẩn xác, khoa học cao và
điều này là hết sức khó khăn.
Từ các góc độ tiếp cận trên có thể đưa ra kết luận tổng quát: Thứ nhất,
các góc độ tiếp cận chất lượng dù khác nhau song có những điểm giao thoa;
thứ hai, chất lượng là khái niệm có tính động và khó định nghĩa nó như một
khái niệm đơn nhất; thứ ba, bao quát nhất, chất lượng là sự biểu hiện ra bên


18

ngoài sự vật qua các thuộc tính, nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật
trong một thể thống nhất và không tách rời sự vật.
Tóm lại, chất lượng là khái niệm chỉ mức độ của một tập hợp các thuộc
tính căn bản, thống nhất hữu cơ, cấu thành nên sự vật, đảm bảo cho sự vật khả
năng đáp ứng tốt nhất những mục đích xác định.
1.1.2.2. Chất lượng cán bộ tuyên giáo
Chất lượng cán bộ là đặc tính bên trong của cán bộ có được do quá
trình tích lũy thực tế, trong đào tạo…đáp ứng do yêu cầu của công việc
trong những điều kiện cụ thể. Đó là một hệ thống phẩm chất, giá trị được kết
cấu như một chỉnh thể toàn diện thể hiện qua phẩm chất chính trị, phẩm chất
đạo đức, trình độ, năng lực, khả năng hoàn thành nhiệm vụ và phát triển của
mỗi cán bộ.

Từ khái niệm trên ta có thể hiểu: Chất lượng cán bộ tuyên giáo là tiêu
chí tổng hợp đánh giá phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực và khả năng
thích ứng, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao của họ. Để đánh giá
đúng thực trạng và xác định các giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ tuyên
giáo, cần phải xác định rõ các tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, cũng như
hiểu rõ những yếu tố tác động đến chất lượng cán bộ tuyên giáo.
1.1.2.3. Chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện
Đối với người cán bộ tuyên giáo cấp huyện, chất lượng là khái niệm
tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái, thể lực, trí lực, kỹ năng,
phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nguồn nhân lực. Nói cách khác
là trình độ học vấn, trạng thái sức khỏe, trình độ chuyên môn, cơ cấu nghề
nghiệp, thành phần xã hội… của nguồn nhân lực, trong đó trình độ học vấn,
kỹ năng nghề nghiệp là tiêu chí quan trọng để đánh giá, phân loại chất lượng
nguồn nhân lực.
Tóm lại: Một đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện có chất lượng là đội
ngũ có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có trình độ, năng lực và có


19

khả năng vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước một cách có hiệu quả nhất nhằm nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội của nhân dân tại địa phương, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
1.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện
Tiêu chí là “tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự
vật, một khái niệm” [56, tr.123]. Tiêu chí đánh giá chất lượng được coi là
khái niệm có vai trò công cụ để nhận thức trong quá trình kiểm định và đánh
giá chất lượng. Đánh giá chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện là việc so
sánh, phân tích mức độ đạt được của quá trình phấn đấu, thực hiện và rèn

luyện công việc của người cán bộ theo tiêu chuẩn và yêu cầu đề ra. Xây dựng
tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện là quá trình tiếp cận
một cách tự giác ở trình độ tư duy lý luận đối với yêu cầu nâng cao chất lượng
đội ngũ này.
Đánh giá chất lượng cán bộ phải dựa trên nguyên tắc: tôn trọng tính
mục tiêu của việc đánh giá; đảm bảo tính chính xác, khách quan và công
bằng; tôn trọng nhân cách của người được đánh giá; đảm bảo tính hệ thống và
tính lịch sử.
Về phương pháp đánh giá: có thể sử dụng một số phương pháp phổ
biến như tự đánh giá, đánh giá của tập thể, đánh giá của các tổ chức chính trị xã hội (Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên…); đánh giá của thủ trưởng đơn
vị; đánh giá của cơ quan quản lý; đánh giá của dư luận…
Các tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện:
1.2.1. Về phẩm chất chính trị
Phẩm chất là gì? Chất có nghĩa là cái vốn có, là tính quy định bên trong
một vật này khác với vật khác. Phẩm chất chỉ tính chất và đặc điểm vốn có
của sự vật. Khái niệm phẩm chất vừa có nghĩa hẹp vừa có nghĩa rộng. Theo
nghĩa hẹp, phẩm chất là khái niệm sinh lý học, chỉ đặc điểm sẵn có của cơ thể


20

như hệ thần kinh, các giác quan và cơ quan vận động. Đặc điểm sẵn có là cơ
sở tự nhiên để con người tiếp nhận các hiện tượng tâm lý và thuộc tính tâm lý.
Theo nghĩa rộng, phẩm chất chỉ các đặc điểm tâm lý như: tính cách, ý chí,
hứng thú, tính khí, phong cách của con người. Như vậy, có thể hiểu, phẩm
chất của người cán bộ không chỉ là những đặc trưng đơn giản có sẵn của sinh
lý học mà là tổng hòa các yếu tố bên trong, trên cơ sở các phẩm chất sinh lý,
hình thành phẩm chất tâm lý thông qua hoạt động, quan hệ giao lưu trong
thực tiễn đời sống và trong công tác của người đó.
Chính trị theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc Nhà nước hay

công việc xã hội liên quan với Nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những
quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là
vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước.
Phẩm chất chính trị bao gồm ý thức chính trị và hành vi chính trị.
+ Ý thức chính trị
Từ khái niệm về chính trị và ý thức, có thể nhận thấy rằng ý thức chính
trị là sự hiểu biết, quan tâm đến những vấn đề chính trị. Cụ thể hơn, ý thức
chính trị là sự phản ánh các quan hệ kinh tế - xã hội, phản ánh những lợi ích
cơ bản và địa vị của các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp đó trong
việc giành hoặc duy trì quyền điều hành Nhà nước. Ý thức chính trị rất phong
phú nhưng cái cốt lõi của nó là hiểu biết, nhận thức của một giai cấp về địa vị
lịch sử, về đường lối, chiến lược, sách lược, những nhiệm vụ của giai cấp
mình trong sự phát triển của lịch sử. Ngày nay, trước tình hình thế giới và
trong nước có nhiều biến động, cán bộ tuyên giáo phải không ngừng nâng cao
ý thức chính trị. Tuy nhiên, trong điều kiện mới thì ý thức chính trị của người
cán bộ cũng có những biểu hiện mới:
Biểu hiện thứ nhất là sự giác ngộ về giai cấp. Giác ngộ về giai cấp (ý
thức về giai cấp) là sự nhận thức về chính bản thân mình trong mối quan hệ


21

với các giai cấp, tầng lớp khác và với tiến trình phát triển chung của xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta, giác ngộ về
giai cấp là yếu tố hàng đầu của ý thức chính trị của người cán bộ. Người cán
bộ có ý thức chính trị cao là nhận thức một cách sâu sắc những vấn đề như:
Về học thuyết Mác - Lênin, về tư tưởng Hồ Chí Minh... Từ đó, đặt niềm tin
tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có thái độ kiên
quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái trong việc nhìn nhận, đánh giá
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Biểu hiện thứ hai về ý thức chính trị của cán bộ tuyên giáo cấp huyện là
sự nhận thức về các tổ chức trong hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị là
một phạm trù dùng để chỉ một chỉnh thể các đảng phái, các tổ chức chính trị xã hội tồn tại trong khuôn khổ của pháp luật với một Nhà nước thuộc giai cấp
cầm quyền để tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội nhằm duy trì và phát
triển chế độ xã hội nhất định nào đó.
Biểu hiện thứ ba về ý thức chính trị của cán bộ tuyên giáo cấp huyện là
thái độ đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước. Thái độ của người cán bộ về
vấn đề này như thế nào cũng là một thể hiện quan trọng về trình độ ý thức
chính trị của mình. Đối với những nội dung của sự nghiệp đổi mới, người cán
bộ có ý thức chính trị khi nhận thức được rằng sự nghiệp đổi mới của chúng
ta có nội dung rất rộng lớn, đổi mới toàn diện mà trước hết là đổi mới tư duy
trong sự lãnh đạo của Đảng, từ đó có sự đổi mới về kinh tế và những mặt
khác của sự phát triển đất nước nói chung và của các địa phương, các ngành,
các cấp, các tổ chức... nói riêng. Người cán bộ có ý thức chính trị còn thể hiện
ở sự yên tâm, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, tin vào sự lãnh
đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước, tiếp tục đưa sự nghiệp này tiến
lên với thành tựu to lớn và vững chắc hơn nữa.


22

Biểu hiện thứ tư về ý thức chính trị của cán bộ tuyên giáo là sự nhận
thức về quyền lợi và nghĩa vụ chính trị của mình. Người cán bộ có ý thức
chính trị là nhận thức được và tuân thủ các quyền, nghĩa vụ cơ bản của mình
được ghi trong Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam; đồng thời hiểu biết và tuân thủ những quyền lợi và nghĩa
vụ cụ thể trong quy chế của ngành, địa phương, đơn vị mình đề ra.
+ Hành vi chính trị
Theo từ điển Tiếng Việt: “Hành vi là cách ứng xử trong một hoàn cảnh
nhất định, được biểu hiện bằng lời nói, cử chỉ, hành động nhất định” [56,

tr.15]. Còn theo nhà tâm lý học - Watson, mọi phản ứng, hành vi được phân
loại theo hai tiêu chí: đó là phản ứng tiếp thu hay di truyền; phản ứng bên
trong hay bên ngoài. Có thể nói, hành vi là tập hợp các phản ứng của cơ thể
đáp lại các kích thích từ môi trường bên ngoài. Như vậy, hành vi của con
người được hiểu là một hành động hay nhiều hành động phức tạp trước một
sự việc, hiện tượng mà các hành động này lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố bên trong và bên ngoài, chủ quan và khách quan. Có rất nhiều yếu tố có thể
tác động đến hành vi của một người như trình độ văn hóa, phong tục tập quán
cộng đồng, kinh tế xã hội, chính trị, luật pháp, nguồn lực, kỹ năng, phương
tiện kỹ năng, thông tin…
Các nhà chính trị lớn trong lịch sử thường có cùng một quy tắc là thích
ứng với điều kiện thực tế, lựa thời lựa thế mềm dẻo uốn theo những biến
chuyển. Hành vi chính trị là hành vi phản ứng của con người đối với hoàn
cảnh chính trị.
Thế giới hiện đại ngày nay là một thế giới phát triển mạnh mẽ về khoa
học kỹ thuật, phát triển công nghệ thông tin và coi trọng giao lưu văn hóa.
Song, chính trị không hề suy giảm vai trò của nó mà vẫn đang phát triển, vì
chúng ta vẫn đang phấn đấu xây dựng một Nhà nước pháp quyền, một nền
dân chủ hiện đại. Xây dựng hành vi chính trị tích cực là nhằm hình thành lối


23

ứng xử văn hóa giữa công dân và Nhà nước, giữa cá nhân và xã hội, giữa
thành viên của cộng đồng quốc gia dân tộc này với cộng đồng quốc gia dân
tộc khác trong một thế giới vừa cạnh tranh vừa hợp tác.
1.2.2. Về phẩm chất đạo đức, lối sống
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: "Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi

mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân " [34, tr. 292]. Đối với người cán
bộ, nếu thiếu hoặc yếu về đạo đức cách mạng thì không thể làm tốt những
công việc được giao. Đạo đức là hết sức cần thiết cho tất cả mọi người, và đặc
biệt cần thiết cho người cán bộ.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm của quan hệ giữa con
người với con người và con người với xã hội: “Đạo đức cách mạng không
phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát
triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong” [32, tr.293]. Xét theo phương diện xã hội cũng như phương diện hành
vi cỉa mỗi cá nhân, đạo đức là sự thể hiện quan hệ ứng xử và hành vi của con
người, đem lại lợi ích cho người khác và cho xã hội.
Chuẩn mực đạo đức của người cán bộ gồm những quy định nào? Mỗi
chế độ xã hội có hệ thống những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức riêng để
điều chỉnh hành vi của con người. Với điều kiện mới của nước ta hiện nay,
theo PGS.TS Phạm Huy Kỳ, phẩm chất đạo đức bao gồm: trung thành với lý
tưởng xã hội chủ nghĩa; lao động tích cực và trung thực; có lòng yêu nước
thiết tha và tinh thần quốc tế trong sáng; có lòng nhân ái đối với cộng đồng
[17, tr.232-237]. Đây có thể coi là những phẩm chất đạo đức mà người cán bộ
tuyên giáo cần có. Qua thực tiễn lao động, đấu tranh, những nội dung đó sẽ
dần được bổ sung để ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn.


24

1.2.3. Về trình độ
Trình độ không phải là yếu tố duy nhất quyết định hiệu quả hoạt động
của cán bộ tuyên giáo, nhưng đây là tiêu chí quan trọng ảnh hưởng đến hoạt
động quản lý trong đội ngũ này. Nó là nền tảng cho việc nhận thức, tiếp thu
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; là tiền
đề tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật vào trong

cuộc sống. Hạn chế về trình độ sẽ hạn chế về khả năng nhận thức và năng lực
tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, các quy định của pháp luật, cản
trở việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã. Do đó, trình độ là tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực quản lý
nhà nước của cán bộ tuyên giáo cấp huyện. Trình độ bao gồm:
+ Trình độ học vấn
Hạn chế về trình độ học vấn sẽ hạn chế về khả năng nhận thức và năng
lực tổ chức thực hiện các văn bản của Nhà nước, cản trở việc thực hiện nhiệm
vụ quyền hạn và trách nhiệm của người cán bộ. Do vậy, cần phải nâng cao
trình độ học vấn cho cán bộ tuyên giáo cấp huyện, đặc biệt là trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).
+ Trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ được hiểu là những kiến thức chuyên
sâu về một lĩnh vực nhất định được biểu hiện qua những cấp độ: Sơ cấp, trung
cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học. Đó là những kiến thức mà nhà trường
trang bị cho người học theo các chuyên ngành nhất định được thể hiện qua hệ
thống bằng cấp. Nếu cán bộ không có chuyên môn nghiệp vụ, chỉ làm theo
kinh nghiệm hoặc giải quyết mang tính cảm tính, tùy tiện chắc chắn hiệu quả
sẽ không cao, thậm chí còn mắc sai phạm nghiêm trọng.
+ Trình độ lý luận chính trị


25

Trình độ lý luận chính trị của cán bộ tuyên giáo cấp huyện là một trong
những tiêu chuẩn cơ bản, có quan hệ mật thiết đến sự phát triển kinh tế - xã
hội, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, thúc đẩy sự phát
triển chung cho cả tỉnh, vùng và cả nước.
Thực tiễn đã chứng minh rằng: khi xã hội phân chia thành giai cấp thì
bất kỳ một giai cấp, chính đảng nào muốn giữ được địa vị thống trị xã hội thì

phải nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận cho giai cấp mình. V.I.Lênin đã
chỉ rõ: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng” [23, tr.30], “chỉ có chính đảng nào được một lý luận tiền phong dẫn
đường thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” [23, tr. 32].
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
cũng luôn nhắc nhở mọi cán bộ, đảng viên:
Muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải
học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm
ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa
Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa
Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta. Có như thế
chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi
cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.
Như thế là phải học tập lý luận, phải nâng cao trình độ lý luận chung
của Đảng, trước hết là của cán bộ cốt cán của Đảng [31, tr.494].
Tựu chung, trình độ lý luận chính trị đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn của cán bộ tuyên giáo cấp
huyện. Điều đó đòi hỏi người cán bộ tuyên giáo cấp huyện phải có một trình
độ lý luận chính trị nhất định. Cán bộ có nắm vững, hiểu biết lý luận chính trị
thì mới nắm chắc các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,


×