Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHÍNH TRỊ học dân CHỦ và PHÁT TRIỂN xã hội ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.19 KB, 137 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển xã hội loài người, từ khi xuất hiện giai cấp và nhà
nước là lịch sử đấu tranh cho tự do, dân chủ. Dân chủ là khát vọng giải phóng từ
bao đời nay của nhân dân lao động trong các cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc
lột và nô dịch, xoá bỏ ách nô lệ để giành lấy quyền tự do, quyền làm chủ của con
người trong xã hội. Dân chủ là giá trị văn hoá, là một trong những thước đo tiến
bộ xã hội. Chính vì lẽ đó, ngay từ thời cổ đại, dân chủ đã được các nhà tư tưởng,
các nhà cải cách chính trị đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Bản chất của dân chủ đó là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước. Song trên thực tế, nhân dân sau khi đã trao quyền,
uỷ quyền cho nhà nước, lại thường đứng trước nguy cơ bị mất quyền dân chủ do
sự tha hoá quyền lực, sự lộng quyền, lạm quyền của những người nắm giữ
quyền lực gây nên. Quan liêu, tham nhũng, chuyên chế, độc tài là những mặt
đối lập của dân chủ. Đó là những phản dân chủ tệ hại nhất, là vật cản lớn nhất
của phát triển. Do vậy, đấu tranh cho tự do, dân chủ là tất yếu, khách quan, là
động lực phát triển của xã hội loài người. Sự vận động, phát triển của lịch sử
nhân loại, sự chuyển đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn chính là những bước tiến của giá trị dân chủ.
Xã hội càng phát triển, tiến bộ, dân chủ với tư cách là một hình thức thể
chế nhà nước hay một giá trị xã hội phải ngày càng được hoàn thiện hơn, tức là
quyền làm chủ của nhân dân phải được đảm bảo, không dừng lại ở những lời
tuyên bố, mà phải được thể chế hóa thành hiến pháp và pháp luật, phải được bảo
đảm thực hiện trên thực tế ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó chính là yêu
cầu tất yếu đối với mọi quốc gia dân tộc nhằm phát triển và phát triển bền vững.
Ngày nay, trong xu thế phát triển mạnh mẽ của xã hội đương đại, với
cách mạng KHCN, toàn cầu hoá, xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức, sự phát


2



triển hay suy thoái của một quốc gia đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đối với
các quốc gia khác. Dân chủ gắn liền với nhu cầu công khai hoá, minh bạch hoá
các vấn đề quốc tế, các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội giữa các nước
trong quá trình hội nhập, cạnh tranh và hợp tác càng trở nên cấp thiết, nhất là đối
với các nước thuộc nhóm nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Thực tiễn chính trị thế giới trong những thập niên qua đã đặt ra nhiều
vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển xã hội, đòi hỏi các
nhà nghiên cứu lý luận, các nhà hoạt động chính trị thực tiễn phải chuyên tâm
nghiên cứu. Phải chăng dân chủ càng cao, quyền làm chủ của nhân dân càng
được đảm bảo, xã hội càng phát triển và ngược lại? Đây là một vấn đề cần có sự
luận giải xác đáng, bởi trên thực tế, có những quốc gia khi thực hiện dân chủ
hoá xã hội đã có những bước phát triển đáng kể như Việt Nam, Trung Quốc,
song cũng có không ít các quốc gia khác lại trở nên trì trệ, kém phát triển như
các nước ở châu Phi, và thậm chí có một số quốc gia đã trở nên giàu có, phát
triển khi trải qua chế độ chuyên chế trong một giai đoạn lịch sử nhất định như
Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản…
Tất cả những vấn đề đó chứng tỏ, không phải nền dân chủ nào cũng
đương nhiên thống nhất và tỉ lệ thuận với sự phát triển xã hội. Dân chủ, nếu
không được thực hiện đúng với bản chất của nó, nếu không có những đảm bảo
kinh tế, pháp luật và đạo đức, nếu không có những cơ chế vận hành và kiểm soát
tốt để ngăn chặn những biến dạng lệch lạc có thể xảy ra, tất yếu sẽ dẫn đến phản
phát triển; trái lại, dân chủ thực sự là mục tiêu và động lực của phát triển, một
khi nó xuất phát từ nhu cầu, từ đòi hỏi thực tiễn của xã hội. Điều này có nghĩa
là, xã hội càng phát triển, nhu cầu làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước, làm chủ
bản thân của mỗi con người ngày càng lớn; và các quyền dân chủ ấy cao hay
thấp, ít hay nhiều thực sự chỉ có thể được khẳng định và được bảo đảm trên cơ
sở những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội nhất định.
Vấn đề đặt ra hiện nay là, làm thế nào để xây dựng được một nền dân
chủ bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân lao động? Đây là bài toán xã



3

hội không đơn giản, cần có lời giải chính xác đối với mỗi quốc gia dân tộc trong
quá trình thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Đối với nước ta, nhất là trong
thời kỳ đổi mới hiện nay, vấn đề dân chủ hoá xã hội, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động mọi nguồn lực để phát triển xã hội là việc làm cần thiết
và cấp bách. Để thực hiện được vấn đề này, đòi hỏi phải kết hợp đồng bộ nhiều
biện pháp nhằm đạt được hiệu quả thực chất. Đó là không chỉ tạo lập các điều
kiện cần thiết để nhân dân thực hiện quyền dân chủ như: Xây dựng và phát triển
nền KTTT định hướng XHCN; đổi mới và hoàn thiện HTCT theo hướng dân
chủ - pháp quyền; xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc…, mà còn phải chú trọng giáo dục ý thức dân chủ, trau dồi năng lực dân
chủ, trình độ làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ trong xã hội, trước hết là
dân chủ trong Đảng, làm cho nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng quyền làm chủ của
mình, từ đó khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, tập trung quan liêu và thói
tự do vô chính phủ, bảo đảm cho dân chủ thực sự là mục tiêu và động lực của
công cuộc đổi mới xã hội - nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững ở nước
ta như Văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định.
Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu vấn đề “Dân chủ và phát triển xã
hội ở nước ta hiện nay” trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ Chính trị học, là
việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đưa nước ta trở thành nước công nghiệp phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dân chủ và dân chủ hoá là một trong những vấn đề xã hội được rất
nhiều học giả từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây quan tâm nghiên cứu. Tuỳ theo
từng góc độ tiếp cận khác nhau, với mục tiêu và mức độ nghiên cứu khác nhau,
mà dân chủ được bàn đến từ nhiều khía cạnh, lát cắt khác nhau: Bản chất và
nguồn gốc dân chủ, các thể chế, thiết chế dân chủ, các nguyên tắc và các giá trị

dân chủ… Rất nhiều tác phẩm kinh điển, cũng như các lý thuyết, các dòng tư
tưởng khác nhau của nhiều tác giả có tên tuổi của các thời đại đã đề cập đến
những vấn đề này: C.Mác, F.Ăngghen, V.I.Lênin bàn về dân chủ, tư tưởng Hồ


4

Chí Minh về dân chủ, “thuyết dân chủ trong Đảng” của Đặng Tiểu Bình, tư
tưởng về “chủ quyền tối thượng của nhân dân” của Jean Jacques Rousseau, hay
tư tưởng về “tự do cá nhân và xã hội” của John Stuart Mills…
Ở nước ta, trong 20 năm đổi mới, dân chủ, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân đã thực sự trở thành một chủ đề quan trọng thu hút sự quan tâm,
không chỉ đối với các nhà nghiên cứu lý luận, mà còn đối với các nhà hoạt động
chính trị thực tiễn. Có thể tóm lược những thành tựu từ các công trình khoa học,
các bài viết nghiên cứu về dân chủ ở những khía cạnh sau đây:
Một là, nhóm tác phẩm, bài viết, các công trình nghiên cứu khoa học
bàn về khái niệm, nguồn gốc và bản chất của dân chủ, về thể chế, thiết chế dân
chủ và các giá trị dân chủ, về nguyên tắc và cơ chế thực hiện dân chủ như: Đề
tài khoa học cấp bộ “Mở rộng và phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng Cộng
sản, vấn đề và giải pháp” do PGS,TSKH Phan Xuân Sơn làm chủ nhiệm,
“Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu” của GS,TS Hoàng Chí Bảo,
“Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ” của Nguyễn Đăng Quang, “Dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa” của Thái Ninh và GS,TS Hoàng Chí Bảo,
“Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa - Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì
dân trong sạch vững mạnh” của nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười, “Một số suy
nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” của TS Đỗ Trung Hiếu,
“Dân chủ và tập trung dân chủ, lý luận và thực tiễn” của TS Nguyễn Tiến
Phồn, “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” do TS
Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông làm chủ biên…

Hai là, nhóm tác phẩm, bài viết bàn về các tư tưởng dân chủ, về các
hình thức, mô hình dân chủ như: Đề tài khoa học “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ và sự vận dụng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” do TS Phạm Hồng
Chương làm chủ nhiệm,“Quá trình hình thành tư tưởng về dân chủ vô sản của K.
Marx”, “Tư tưởng của Lênin về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản vì dân chủ và
chủ nghĩa xã hội” của PGS,TS Lê Minh Quân, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà


5

nước của dân, do dân, vì dân” của TS Nguyễn Đình Lộc, “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về thực hành dân chủ” của Lê Văn Tuấn, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền
làm chủ của nhân dân” của TS Nguyễn Thị Hiền Oanh, “Mô hình dân chủ đa số
và mô hình dân chủ đồng thuận” của Nguyễn Thị Lan vv…
Ba là, nhóm các tác phẩm và công trình nghiên cứu khoa học về Quy
chế dân chủ ở cơ sở, về dân chủ hoá và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới ở nước ta hiện nay như: Đề tài
khoa học “Vai trò của đoàn thể nhân dân trong việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở
hiện nay” do PGS,TSKH Phan Xuân Sơn làm chủ nhiệm, đề tài khoa học
“Bảo đảm và phát huy dân chủ trong chế độ một Đảng cầm quyền ở nước ta
hiện nay” do PGS,TS Mạch Quang Thắng làm chủ nhiệm, “Thực hiện Quy chế
dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay” do TS Nguyễn
Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông làm chủ biên, “Phát huy dân chủ ở xã,
phường” của PGS,TS Vũ Văn Hiền, “Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở” của PGS,TS Lương Gia Ban, “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và
dân chủ hoá đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các
tỉnh miền núi phía Bắc nước ta” của PGS,TS Nguyễn Quốc Phẩm, “Khâu đột
phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ mới” của Tòng Thị
Phóng, “Bài học về dân chủ và dân chủ hoá ở Đông Âu và Liên Xô trong đổi
mới” của Nguyễn Vi Khải, “Đảng và Nhà nước đối với công tác thực hành tiết

kiệm, chống tham ô lãng phí, phát huy dân chủ ở cơ sở trong thời kỳ mới”
vv… Nhìn chung, những công trình nghiên cứu này đã đề cập đến vai trò của
dân chủ đối với sự phát triển xã hội, về sự cần thiết tất yếu, khách quan của
việc đảm bảo thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong đời
sống xã hội, về những thành tựu đạt được, những mặt hạn chế và những vấn đề
đặt ra trong quá trình triển khai và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong
những năm qua. Đặc biệt là, nhiều học giả đã thừa nhận rằng, vấn đề thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở là khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.


6

Bên cạnh các học giả trong nước, nhiều học giả nước ngoài cũng rất
quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt là, trong thời kỳ hiện nay - thời kỳ mà cùng
với sự khủng hoảng của CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là sự thành
công, phát triển của các nước XHCN còn lại, với việc thực hiện đường lối đổi
mới, cải cách theo hướng dân chủ một cách đúng đắn và phù hợp. Trong bối
cảnh đó đã xuất hiện nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu khoa học bàn
về dân chủ, mô hình dân chủ, về khuynh hướng xã hội dân chủ, về quá trình
thực hiện dân chủ cũng như những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn triển
khai dân chủ cơ sở ở các nước, nhất là ở Trung Quốc… Có thể kể đến các công
trình khoa học như: “Dân chủ” của Gioóc-giơ Mác-se, “Toàn cầu hoá và dân
chủ” của I.B.Levin, “Bàn về phát triển nền chính trị dân chủ và xây dựng văn
minh chính trị xã hội chủ nghĩa” của Liễu Thành Diệm, “Thuyết dân chủ hoá
trong Đảng nhìn từ góc độ phát triển chính trị” của Xiao Gongqin, “Then chốt
để xây dựng năng lực cầm quyền: Thúc đẩy toàn diện dân chủ xã hội chủ nghĩa từ
góc độ văn minh chính trị” của Chú Tác Hàn, “Hãy để dân chủ trở thành một bộ
phận trong đời sống nhân dân” của Lý Trữ Vọng, “Tác dụng của dân chủ nông
thôn và tính hạn chế của nó” của Từ Dũng…

Phát triển và phát triển bền vững trong xã hội hiện đại là mối quan tâm
của mọi quốc gia dân tộc, nhất là đối với những quốc gia đã trải qua những tháng
năm ròng rã chiến đấu hy sinh cho độc lập dân tộc, cho tự do, hạnh phúc của nhân
dân. Vấn đề tìm kiếm, lựa chọn các mô hình, phương thức phát triển bền vững
đã trở thành mục tiêu của mỗi quốc gia. Trên thực tế, đã có nhiều lý thuyết,
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về phát triển xã hội dưới nhiều góc độ,
khía cạnh khác nhau (kinh tế học, văn hoá học, xã hội học…).
Ở cấp độ lý thuyết phải kể đến lý thuyết “tăng trưởng cân bằng” của
Nurkse, lý thuyết “cú hích lớn” của Roseinstein Rodan…, song các lý thuyết
này chỉ nhấn mạnh đến yếu tố kinh tế và kỹ thuật của sự tăng trưởng, mà không
chú ý đến nhân tố con người, không thấy được rằng, một xã hội phát triển phải
là một xã hội mà ở đó tất cả đều vì con người, cho con người, vì sự phát triển


7

toàn diện và tự do của mỗi người. Điều này có nghĩa là, sự phát triển bền vững
trong xã hội hiện đại phải gắn liền với việc phát huy nhân tố con người, gắn liền
với công bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội, song trên thực tế, không ít các quốc
gia được coi là những nước phát triển nhất lại là nơi có nhiều áp bức, bất công
và mất dân chủ nhất, hoặc là xã hội càng phát triển, KHCN càng đạt được nhiều
thành tựu, thì các giá trị nhân văn, các chuẩn mực đạo đức càng bị đảo lộn, môi
trường sinh thái càng bị suy thoái. Đó chính là nghịch lý của sự phát triển. Để
luận giải cho vấn đề này, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều bài viết
của các học giả trong và ngoài nước đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau
của vấn đề phát triển. Có thể kể đến các công trình sau đây: “Chủ nghĩa xã hội
hiện thực, khủng hoảng, đổi mới và xu hướng phát triển” của GS,TS Hoàng Chí
Bảo, “Triết lý phát triển ở Việt Nam, mấy vấn đề cốt yếu” do GS,TS Phạm
Xuân Nam làm chủ biên, “Phát triển xã hội với tư cách là đối tượng của khoa
học chính trị” của PGS,TSKH Phan Xuân Sơn, “Văn hoá với sự phát triển của

xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của Lê Quang Thêm, “Một
số vấn đề về dân tộc và phát triển” của PGS,TS Lê Ngọc Thắng, “Các lý thuyết
phát triển và chính trị” của ThS Hồ Ngọc Minh, “Phát triển là quyền tự do”
của Amartya Sen, “Phát triển - cái giá phải trả của chủ nghĩa tự do” của
R.Bergeran, “Phát triển bền vững và xã hội thông tin: Xu thế, vấn đề, mâu
thuẫn” của Levin A.I. vv… Các tác phẩm này bàn về khái niệm phát triển và
phát triển bền vững, về những thành quả cũng như những khuyết tật trong các
mô hình phát triển, về các nhân tố ảnh hưởng, tác động đến các quá trình phát
triển của thế giới đương đại, và đặc biệt là, trong một chừng mực nhất định, các
tác giả cũng đề xuất những cách thức, con đường giải quyết các mâu thuẫn,
nghịch lý, tạo động lực bảo đảm cho xã hội phát triển và phát triển bền vững.
Dân chủ và phát triển xã hội có mối quan hệ với nhau. Đó là mối quan
hệ biện chứng. Song trên thực tế, còn rất ít tác phẩm, công trình khoa học đề cập
đến vấn đề này một cách lôgíc và hệ thống. Có chăng chỉ là đề cập một cách đan
xen, lồng ghép về vai trò, tác dụng của dân chủ đối với sự phát triển xã hội, hoặc


8

là xem dân chủ là một trong những tiêu chí cơ bản của sự phát triển xã hội.
Chẳng hạn như, tác phẩm “Dân chủ, kinh tế thị trường và phát triển - từ góc
nhìn châu Á” của Farrukh Iqbal và Jong-ll You, “Dân chủ và phát triển” của
Philippe Marchesin, “Những thách thức của phương Nam” của Ban phương
Nam phong trào Không liên kết…
Như vậy, với khả năng tiếp cận tư liệu của bản thân, chúng tôi thấy
rằng, ở Việt Nam chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về mối quan hệ
này một cách cơ bản, hệ thống, do đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa dân
chủ và phát triển xã hội ở nước ta hiện nay là một hướng nghiên cứu mới, có ý
nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, mà bản luận văn này là một cố gắng ban
đầu của tác giả nhằm góp phần giải quyết vấn đề đã đặt ra.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ
và phát triển trong điều kiện đổi mới kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay dựa
trên những cứ liệu thực tiễn 20 năm đổi mới (1986-2006).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ và phát triển xã hội
trong 20 năm đổi mới ở nước ta, từ đó xác định phương hướng và một số giải
pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và phát triển xã hội trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Luận giải những cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ, phát triển
và mối quan hệ giữa chúng.
- Phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển trong quá
trình dân chủ hoá, xây dựng nền dân chủ XHCN và phát triển xã hội trong thời
kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay.


9

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy
quá trình dân chủ hoá và phát triển xã hội ở nước ta trong những năm sắp tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về dân
chủ và dân chủ hoá, về phát triển và phát triển xã hội.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành
như phương pháp so sánh chính trị học, kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích và
tổng hợp vv…
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn

- Góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển trong
điều kiện đổi mới ở Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện
dân chủ và phát triển bền vững ở nước ta trong tiến trình CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần nâng cao nhận thức
xã hội về dân chủ, thúc đẩy quá trình dân chủ hoá đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy, học tập những vấn đề liên quan đến dân chủ và phát triển
xã hội trong khoa học chính trị, trong thực tiễn quản lý xã hội và đổi mới hệ
thống chính trị.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.


10

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ DÂN CHỦ VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

1.1. KHÁI NIỆM DÂN CHỦ VÀ PHÁT TRIỂN
1.1.1. Dân chủ - nguồn gốc, bản chất và khái niệm
1.1.1.1. Nguồn gốc của thuật ngữ “dân chủ”
Thuật ngữ “dân chủ” ra đời vào khoảng thế kỷ VII - VI TCN. Theo
đánh giá của Aristotle (384 - 322 TCN), Solon (638 - 559 TCN) là người đầu tiên
đặt nền tảng cho nguyên lý dân chủ. Là một nhà hoạt động chính trị thực tiễn với
những tư tưởng cải cách tiến bộ, Solon mong muốn xây dựng một nhà nước dân

chủ trên cơ sở tuyển cử và quản lý xã hội bằng pháp luật, bởi vì theo ông, đó là
hai nhân tố cơ bản bảo đảm dân chủ, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Xét về mặt ngữ nghĩa, “dân chủ” là một từ ghép, xuất phát từ tiếng
Hy Lạp cổ - demoskratia, trong đó, demos là nhân dân, kratia là cai trị, là quyền
lực, chính quyền. Do vậy, theo nghĩa gốc, dân chủ là nhân dân cai trị hay dân
chủ là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực.
Như vậy, thuật ngữ “dân chủ” chỉ xuất hiện khi xã hội bắt đầu phân
hoá thành giai cấp và tổ chức thành nhà nước, khi có sự uỷ quyền của nhân dân
cho nhà nước trong việc thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, tức là
khi nhân dân là chủ thể của quyền lực và có quyền năng áp đặt ý chí của mình
lên nhà nước. Điều này chứng tỏ rằng, vấn đề dân chủ đã được các nhà tư tưởng,
các nhà hoạt động chính trị thực tiễn đặt ra nghiên cứu ngay từ thời cổ đại - ngay
sau khi hình thức nhà nước đầu tiên - nhà nước chiếm hữu nô lệ ra đời. Đây là
hình thái dân chủ chính trị trong các xã hội chính trị với sự xuất hiện của chế độ
tư hữu, giai cấp và nhà nước.
Ở đây, nảy sinh hai vấn đề cần phải làm sáng tỏ, đó là:


11

Một là, tại sao thuật ngữ “dân chủ” lại xuất hiện gắn liền với sự ra
đời, tồn tại và phát triển của nhà nước, trong khi ở xã hội cộng sản nguyên thuỷ,
theo đánh giá của Morgan, đã có mặt hầu hết những giá trị dân chủ?
Một trong những lý do để luận giải vấn đề này là ở chỗ, nguyên nhân
chủ yếu mà các nhà tư tưởng đặc biệt quan tâm nghiên cứu về vấn đề dân chủ,
với tư cách là một chế độ chính trị, là do trong xã hội đã xuất hiện tình trạng tha
hoá quyền lực của giới cầm quyền. Từ chỗ là những người tự do, những người
được hưởng sự bình đẳng, bác ái, được sống trong một tập thể thân ái, gắn bó,
với những quyền cá nhân ngang nhau mà chế độ thị tộc mang lại, họ đã trở
những người dân bị tước đoạt các quyền tự do, dân chủ, bị áp bức, bóc lột sau

khi đã trao quyền, uỷ quyền cho nhà nước. Những bất công phi nhân tính đó đã
thúc giục họ tích cực đấu tranh cho dân chủ, giành quyền làm chủ và mong
muốn xây dựng một nhà nước dân chủ - một thể chế chính trị tiến bộ, mà ở đó
quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Chính vì lẽ đó, cùng với sự ra đời,
tồn tại và phát triển của nhà nước, thuật ngữ “dân chủ” cũng xuất hiện và dân chủ
ở đây được xem xét, nghiên cứu như là một hình thái nhà nước.
Hai là, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân hay nhân dân là chủ
thể của quyền lực. Vậy, nhân dân là ai? Có phải tất cả quần chúng nhân dân lao
động đều là chủ thể của quyền lực trong tất cả các thời đại lịch sử không?
Các nhà tư tưởng chính trị trước Mác đều khẳng định rằng: dân chủ là
nhân dân cai trị, là quyền lực thuộc về nhân dân. Song ở đây, nhân dân không
phải là số đông những người lao động - những người sản xuất ra của cải vật
chất, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển xã hội, mà nhân dân chỉ là số ít trong
giới cầm quyền - những người nắm giữ quyền lực. Trong xã hội chiếm hữu nô
lệ, nhân dân chính là giai cấp chủ nô, các nhà thông thái và các công dân tự do
được nhà nước công nhận, còn đa số nô lệ không được coi là con người, mà chỉ
là những “công cụ biết nói”, những thân phận nô lệ. Trong xã hội phong kiến,
khi mà quyền lực thuộc về một người - đó là vua, nhân dân lao động cũng không
được xem là nhân dân, mà chỉ là thần dân, thảo dân, con đen, con đỏ, không có


12

một chút quyền lực chính trị nào, nếu không muốn nói đó là những người đứng
ngoài chính trị, không được tham gia vào công việc chính trị, công việc nhà
nước. Nhân dân - đó là vua và quân tử - những người thuộc giai cấp thống trị,
những người nắm giữ quyền lực. Như vậy, có thể kết luận rằng, quan điểm
“nhân dân” trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến chỉ thuộc về giai cấp
thống trị, còn giai cấp bị trị - giai cấp chiếm số đông và cũng là lực lượng lao
động chủ yếu tạo ra của cải vật chất cho xã hội không được coi là nhân dân.

Đến CNTB, sự ra đời của nền dân chủ tư sản đã đánh dấu một bước
tiến mới trong lịch sử đấu tranh cho dân chủ, xã hội thần dân đã chuyển thành
xã hội công dân, quyền con người, quyền công dân đã được pháp luật tư sản
thừa nhận và bảo đảm thực hiện phần nào trên thực tế. Song về bản chất, đó chỉ
là một nền dân chủ hạn chế, nền dân chủ chỉ đảm bảo dân chủ đối với giai cấp tư
sản cầm quyền, còn chuyên chế đối với các giai tầng khác, nhất là giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Như vậy, trong xã hội tư bản, mặc dù người lao
động được coi là nhân dân, được pháp luật tư sản bảo đảm các quyền dân chủ quyền được hưởng “tự do, bình đẳng, bác ái”, nhưng phần lớn mới chỉ dừng lại
ở sự thừa nhận pháp lý. Trên thực tế, mặc dù nhà nước tư sản đã điều chỉnh chức
năng quản lý xã hội, bảo đảm phần nào lợi ích của người lao động, song xét đến
cùng, các quyền dân chủ ấy chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định, thường
bị hạn chế và cắt xén.
Cho đến khi CNXH hiện thực ra đời sau thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga, 1917 và nước Nga Xô viết được thành lập, thì dân chủ, từ lý
tưởng mới trở thành hiện thực. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nhân dân lao
động, từ thân phận nô lệ, lầm than đã được giải phóng, họ trở thành chủ thể của
quyền lực. Điều đó chứng tỏ rằng, chỉ có trong CNXH, người lao động mới thực
sự là nhân dân, thực sự là chủ thể của mọi quyền lực. Dân chủ, với ý nghĩa đích
thực của nó là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, chính là cơ sở, nền tảng, là nội
dung hợp thành của phát triển và phát triển bền vững.
1.1.1.2. Bản chất của dân chủ


13

Ngày nay, về cơ bản, thuật ngữ “dân chủ” vẫn còn giữ nguyên nghĩa,
song để hiểu bản chất của dân chủ, cần phải có cách tiếp cận đúng đắn về phạm
trù dân chủ. Dân chủ là một phạm trù đa diện, với nội dung rất phong phú, đa
dạng và nhiều tầng nấc, thể hiện rõ bản chất sâu rộng của nó. Do đó, khi nghiên
cứu bản chất của dân chủ, cần phải hiểu dân chủ ở tất cả các khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, dân chủ là một chế độ nhà nước.
Với tư cách là một chế độ chính trị, chế độ nhà nước, dân chủ đối lập
với chế độ chuyên chế, thần quyền hay chế độ cực quyền. Vậy, chế độ dân chủ
là gì? Về bản chất, chế độ dân chủ là cách thức tổ chức và thực thi quyền lực
của nhân dân, là sự phản ánh các giá trị dân chủ vào đời sống hiện thực, là nền
chính trị nhân văn thực sự của con người, cho con người, vì sự phát triển toàn
diện bản chất người, tức là nhân tính. Những tư tưởng dân chủ và nhân đạo của
C.Mác hồi trẻ cũng đã từng nói đến khả năng bộc lộ và thể hiện những sức mạnh
bản chất Người của con người.
Vấn đề đặt ra là, thực tiễn vận động của các nền dân chủ chính trị
trong lịch sử nhân loại dường như không tự động trùng hợp, trùng khít với bản
chất đích thực của dân chủ. Vốn đã là con người, tất yếu phải được hưởng tự do,
bình đẳng, mà trước hết là bình đẳng về cơ hội phát triển, nhưng trên thực tế, vẫn
còn tồn tại sự bất bình đẳng, không chỉ là bất bình đẳng giữa các giai cấp, các nhóm
xã hội, mà còn là bất bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc. Vậy, con người cần phải
làm gì để đạt được các giá trị tự do, dân chủ ấy?
Để lý giải cho vấn đề này, nhiều học thuyết tôn giáo, dân tuý, khai
sáng… đã ra đời, nó đáp ứng phần nào khát vọng tự do, dân chủ của con người
(cho dù chỉ ở lĩnh vực đời sống tinh thần là chủ yếu). Cho đến nay, chỉ có học
thuyết mà nền dân chủ chính trị đưa ra là hợp lý và được áp dụng rộng rãi trong
đời sống xã hội, bởi vì tiền đề xuất phát của dân chủ chính trị chính là hiện thực
- đó là vấn đề trao quyền, uỷ quyền cho nhà nước nhằm mục đích bảo đảm
quyền tự do, bình đẳng cho mọi công dân, trên cơ sở quyền lực nhà nước thực
sự thuộc về nhân dân, vận hành theo ý chí chung và phục vụ lợi ích của nhân


14

dân. Tất cả những vấn đề này chỉ có thể được bảo đảm trong một chế độ dân chủ
đích thực - một thể chế nhà nước tiến bộ, mà ở đó tất cả quyền lực thực sự thuộc

về nhân dân.
Lịch sử nhân loại, từ khi xuất hiện giai cấp và nhà nước đến nay, đã
trải qua các chế độ dân chủ - dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và dân chủ XHCN.
Hiện nay, nhiều học giả nước ngoài đã phỏng đoán về những dấu hiệu đầu tiên
của một nền dân chủ thông tin mang tính toàn cầu trong điều kiện bùng nổ toàn
cầu hoá và cuộc cách mạng khoa học công nghệ - thông tin [14, tr. 12], song đây
vẫn là vấn đề còn nhiều tranh cãi.
Như vậy, trong lịch sử nhân loại đã có một thời kỳ dài nhà nước tồn
tại trong sự thiếu vắng dân chủ, nếu không muốn nói là xa lạ và đối lập với dân
chủ. Đó là chế độ phong kiến phân quyền ở Tây Âu chuyên chế, hà khắc với
hàng trăm năm đêm trường Trung Cổ, từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XIV và chế độ
phong kiến tập quyền ở châu Á kéo dài hàng ngàn năm. Tuy nhiên, cũng phải
thừa nhận rằng, trong chế độ phong kiến, nếu như ở một nơi, một lúc nào đó,
con người đạt được những thành quả dân chủ nhất định, thì đó chính là kết quả
đấu tranh của đông đảo quần chúng chống lại chính quyền, chống lại sự độc
đoán, chuyên quyền của giai cấp phong kiến cầm quyền, hoặc là khi quốc gia
dân tộc phải đối mặt với những thách thức lịch sử, ảnh hưởng trực tiếp đến sự
tồn vong của dân tộc (ví dụ như nạn ngoại xâm), đòi hỏi giai cấp phong kiến
phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, phải “thực hành dân chủ” để đáp ứng nhu
cầu giải phóng dân tộc. Ở Việt Nam, Hội nghị Diên Hồng thời Trần thế kỷ XIII
là một ví dụ. Điều này chứng tỏ, không phải lúc nào dân chủ cũng hiện diện
trong mối quan hệ giữa nhân dân và nhà nước, không phải chế độ nhà nước nào
cũng là một chế độ dân chủ đích thực. Một nhà nước được gọi là dân chủ, tiến
bộ, song nếu tự nó không khắc phục được tệ quan liêu, tham nhũng, tự do vô
chính phủ, rơi vào tình trạng tha hoá như đã thường xảy ra ở mọi chế độ nhà
nước, thì đến một lúc nào đó nhà nước ấy (kể cả nhà nước XHCN) cũng trở nên
mất dân chủ, phản dân chủ. Do vậy, đấu tranh cho dân chủ, giành quyền làm chủ


15


cho nhân dân là điều tất yếu, khách quan, là quy luật phát triển nội tại của các
chế độ xã hội theo chiều tiến hoá, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn, nhằm xây dựng chế độ dân chủ thực sự - một sự thống nhất, phù hợp,
trùng hợp giữa chế độ nhà nước với chế độ dân chủ.
Một chế độ dân chủ thực sự là nền dân chủ như thế nào? Khi xem xét
dân chủ là một chế độ nhà nước, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng, dân chủ
là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể quyền lực và chi phối quyền
lực; không có dân chủ chung chung, dân chủ phải gắn với một chế độ xã hội
nhất định, do đó, dân chủ, đặc biệt là dân chủ chính trị luôn mang tính giai cấp.
Bản chất giai cấp của dân chủ là do bản chất giai cấp của nhà nước quy định.
Điều đó có nghĩa là, mức độ dân chủ hay mức độ thực thi quyền lực của nhân
dân là cao hay thấp, ít hay nhiều sẽ tuỳ thuộc phần lớn vào cách thức tổ chức,
vận hành nhà nước của giai cấp cầm quyền và việc thực hiện hai chức năng cơ
bản - chức năng chính trị và chức năng xã hội của nhà nước đó. Nói một cách
khác, mối quan hệ giữa nhân dân và nhà nước có dân chủ hay không, nhân dân
có thực hiện được các quyền dân chủ hay không là phụ thuộc vào hai tiêu chí:
một là, mức độ tham gia của các công dân vào công việc nhà nước và xã hội;
hai là, khả năng phối hợp giữa nhà nước và công dân để tạo nên sự đồng thuận
[41, tr.9]. Đây cũng là hai tiêu chí cơ bản để đảm bảo dân chủ trong thực tế, bảo
đảm vai trò động lực của dân chủ đối với sự phát triển xã hội. Chế độ nhà nước
nào thiết lập được phương thức hoạt động bảo đảm cho nhân dân tham gia kiểm
tra, kiểm soát quyền lực, thì tất yếu sẽ tạo lập được sự đồng thuận xã hội, tạo lập
được cơ sở, nền tảng để phát huy quyền làm chủ của người dân, thúc đẩy xã hội
phát triển theo hướng tiến bộ. Có như vậy, dân chủ mới thực sự trở thành mục
tiêu và động lực của sự phát triển xã hội.
Lênin đã từng nhắc nhở những người cộng sản rằng:
Không phải chỉ tuyền truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân
chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho “những
người đại diện” nhân dân trong những cơ quan đại biểu là đủ. Cần phải xây dựng



16

ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào ý kiến của bản thân quần chúng,
với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không
có “sự giám sát” từ trên, không có quan lại [16, tr.366-367].
Đồng thời, để xây dựng nền dân chủ mới - một nền dân chủ của đại đa
số quần chúng nhân dân với những cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện và
phát huy quyền làm chủ của mình trong việc tham gia vào công việc nhà nước
và xã hội, Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ trong bầu cử. Ông khẳng
định: “Dân chủ là sự thống trị của đa số. Chỉ có thể gọi cuộc bầu cử là dân chủ
khi nào nó là phổ thông, trực tiếp và bình đẳng. Chỉ có những uỷ ban nào do
toàn dân bầu ra trên cơ sở quyền phổ thông đầu phiếu mới là những uỷ ban dân
chủ” [16, tr.66].
Cụ thể hơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
Nước ta là một nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ đều do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [23, tr.698].
Như vậy, nền dân chủ chính trị ưu việt và thực chất từ trước đến nay
chính là nền dân chủ XHCN - một thể chế chính trị dân chủ tạo lập được cơ chế
bảo đảm quyền làm chủ thực sự của người dân, bảo đảm được ý nghĩa đích thực
của khái niệm dân chủ - “dân là chủ, dân làm chủ”, đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định.
Tuy nhiên, đó là nguyên tắc và lý tưởng, trong thực tiễn vẫn còn nhiều
vấn đề đòi hỏi phải có sự lý giải xác đáng để từ đó có những bước đi thích hợp,

đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại. Với gần 600 năm tồn tại và phát triển,
nền dân chủ tư sản, tuy còn nhiều hạn chế, nhưng vẫn có những giá trị nhất định.
Chính những giá trị tiến bộ đó đã hình thành nên ý thức dân chủ, tập quán dân


17

chủ cho mọi công dân, nhất là ở các nước tư bản phát triển hiện nay. Trong khi
đó, nền dân chủ XHCN, tuy bản chất ưu việt, tiến bộ, song chưa có nhiều thời
gian trải nghiệm trong thực tiễn và vẫn còn đang trong quá trình xây dựng, chưa
thực sự trưởng thành. Ở Việt Nam, việc xây dựng nền dân chủ XHCN trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là nhiệm vụ quan trọng, có
không ít những khó khăn, thách thức đối với Đảng, Nhà nước và toàn dân ta.
Xuất phát từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lại không
trải qua nền dân chủ tư sản, chưa được thừa hưởng các giá trị dân chủ tư sản,
tư tưởng tiểu nông còn ăn sâu trong tư duy, ý thức, tâm lý, lối sống và tập quán
của mỗi con người, nên đã có một thời kỳ dài chúng ta đã không quan tâm
đúng mức đến vấn đề dân chủ, vi phạm nghiêm trọng các quyền dân chủ, làm
mất lòng tin của dân đối với Đảng, làm cho kinh tế - xã hội trở nên trì trệ, kém
phát triển, thậm chí lâm vào khủng hoảng. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới
đến nay, với ý thức nhìn thẳng vào sự thật và quyết tâm sửa chữa sai lầm, Đảng
ta đặc biệt coi trọng việc xây dựng chế độ dân chủ. Dân chủ thực sự là mục
tiêu và động lực của công cuộc đổi mới, là cơ sở, nền tảng của sự phát triển và
phát triển bền vững. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, nền dân chủ mà chúng ta
đang xây dựng là nền dân chủ mới đang vận động trong điều kiện KTTT định
hướng XHCN, trong bối cảnh mở cửa, hội nhập..., nên tất yếu sẽ xuất hiện
những yếu tố mới, mà tư duy truyền thống về dân chủ trước đây có nhiều điểm
không còn phù hợp nữa. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với các cấp, các ngành và
mọi công dân là phải có một tư duy mới, nhận thức mới về dân chủ, phải tạo
lập được ý thức và tập quán dân chủ, làm cho dân chủ trở thành một nhu cầu

thiết yếu trong đời sống hàng ngày của mỗi người dân, phải “phát triển dân
chủ đến triệt để” đúng như chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định.
Dân chủ chính trị là một phạm trù lịch sử, nó xuất hiện, tồn tại và phát
triển cùng với sự ra đời, vận động và thay thế nhau của các chế độ nhà nước.
Khi nhà nước tiêu vong, dân chủ chính trị gắn với nhà nước cũng sẽ không còn
tồn tại như Lênin đã từng nói, còn dân chủ với tư cách là một giá trị xã hội gắn


18

với bình đẳng, công bằng, với tự do, sáng tạo và quyền làm chủ chân chính của
con người sẽ mãi mãi tồn tại và phát triển. Đó là thước đo của giải phóng và tiến
bộ xã hội mà toàn nhân loại hướng đến.
Thứ hai, dân chủ là một giá trị xã hội.
Đây là mặt bản chất thứ hai của phạm trù dân chủ. Trước đây, xuất phát
từ sự luận giải của Lênin về sự tiêu vong của nhà nước, nên đã có lúc dường như
có quan niệm cho rằng, phải chăng khi nhà nước tiêu vong thì dân chủ sẽ trở nên
thừa và không cần thiết? phải chăng dân chủ chỉ là một hiện tượng tạm thời, chỉ
tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà nước?... Quan niệm này là đúng hay sai
và nên hiểu như thế nào?
Dân chủ là một phạm trù đa diện, nhiều tầng bản chất. Do đó, dân chủ
không thể chỉ dừng lại ở cách tiếp cận thể chế nhà nước, với tư cách là một
phạm trù lịch sử. Dân chủ còn là vấn đề liên quan đến sự tồn tại và phát triển
của cá nhân lẫn cộng đồng, nó không chỉ hiện diện trong đời sống chính trị, mà
còn có mặt trong tất cả các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hoá, xã hội..., tức là
trong đời sống hiện thực của xã hội. Chính vì thế, trong lịch sử nhân loại, ngay
cả khi xã hội chưa có giai cấp và nhà nước (thời kỳ cuối cộng sản nguyên thuỷ)
đã có các yếu tố dân chủ như là những mầm mống phôi thai. Ăngghen, trong tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, đã trích
dẫn lời của Morgan khi viết về chế độ thị tộc:

Toàn thể các thành viên của thị tộc đều là những người tự do, có nghĩa
vụ bảo vệ tự do cho nhau, họ đều có những quyền cá nhân ngang nhau - cả tù
trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự đều không đòi hỏi những đặc quyền, ưu tiên nào cả;
họ kết thành một tập thể thân ái, gắn bó với nhau bởi những quan hệ dòng máu.
Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao giờ được nêu thành công thức, nhưng vẫn
là những nguyên tắc cơ bản của thị tộc... [20, tr.130]
Có thể gọi những yếu tố dân chủ sơ khai đó là dân chủ tiền chính trị.
Đó là một hình thức dân chủ độc đáo - dân chủ không gắn với nhà nước, không


19

gắn với các chuẩn mực chính trị, mà chỉ dựa trên các chuẩn mực tự do, công
bằng và bình đẳng trong cộng đồng xã hội. Khi nghiên cứu phạm trù dân chủ,
cần phải phân biệt dân chủ chính trị, mà đặc trưng của nó là nhà nước và dân
chủ xã hội, mang hình thức tự quản, ở bên ngoài các thiết chế quyền lực chính
trị với đặc trưng là quan hệ cộng đồng, hợp tác và đồng thuận. Dân chủ không
chỉ là một thể chế nhà nước, mà còn là giá trị xã hội - một thành quả của nền văn
minh nhân loại. Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể kết luận rằng, dân chủ xuất hiện
từ trước khi có nhà nước và ngay cả khi nhà nước tiêu vong, dân chủ vẫn tồn tại
với tư cách là khát vọng giải phóng ngày càng đầy đủ, ngày càng mạnh mẽ của
con người và xã hội loài người, hướng tới tự do, bình đẳng, công bằng và tiến
bộ, đúng như lời dự báo của C.Mác: Khi nhà nước không còn, xã hội sẽ phát
triển đến trình độ tự quản và thay thế cho nhà nước, đó là “thể liên hiệp của
cộng đồng những con người tự do”. Dự báo này của Mác về xã hội tương lai là
cực kỳ sâu sắc.
Với tư cách là một giá trị xã hội, dân chủ là một nhu cầu bức thiết của
đời sống con người; là thước đo mức độ giải phóng con người và xã hội loài
người thoát khỏi những áp bức, bất công, bất bình đẳng; là lý tưởng sống vì con
người, phụng sự con người, phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với lẽ

phải và phù hợp với khát vọng của toàn nhân loại.
Dân chủ là một học thuyết tiến bộ chứa đựng các giá trị chân, thiện,
mỹ và các giá trị phổ biến khác như: quyền tự do cá nhân, quyền bình đẳng về
cơ hội phát triển của mỗi cá nhân trong xã hội, và sự thống nhất trong tính đa
dạng của các cá nhân trong cộng đồng, giữa các cộng đồng với nhau trong một
quốc gia dân tộc, hay giữa các quốc gia, các nền văn hoá, văn minh trên toàn thế
giới. Dân chủ còn là thước đo của tiến bộ xã hội, là điều kiện hình thành và
hoàn thiện nhân cách con người. Đó chính là những thuộc tính tự nhiên vốn có
và phổ biến của dân chủ để con người biểu hiện và khẳng định sức mạnh bản
chất của mình trong đời sống hiện thực.


20

Một là, khi bàn về quyền tự do cá nhân, các nhà tư tưởng đều gắn liền
dân chủ với tự do. Họ cho rằng, khi điều chỉnh các mối quan hệ hay điều khiển
các công việc chung trong xã hội, con người luôn phải đối mặt với tình huống là
làm thế nào để cân bằng hai khuynh hướng căn bản trong mỗi con người, đó là
khuynh hướng tự khẳng định ý chí của mình một cách chủ động (khuynh hướng
tự do cá nhân) và khuynh hướng liên kết, hợp tác với những người xung quanh
bằng cách tuân thủ những chuẩn mực mà xã hội thừa nhận (khuynh hướng xã
hội). Để dung hoà hai khuynh hướng này, đòi hỏi mỗi người phải hy sinh một phần
quyền tự do cá nhân của mình vào việc nâng cao phúc lợi xã hội và nền an ninh
công cộng, để từ đó họ có thể được hưởng những quyền tự do cao hơn.
Lý giải cho vấn đề này, các nhà tư tưởng lập luận rằng, do nhu cầu, sở
thích và địa vị xã hội khác nhau, mà mỗi cá thể có quan niệm về tự do không giống
nhau, cho nên tự do cho người này có thể cản trở, triệt tiêu tự do của người khác. Vì
vậy, cần phải có một tất yếu xã hội tồn tại dưới hình thức nhà nước, pháp luật, các
chuẩn mực đạo đức vv… để điều chỉnh, hoà giải các mâu thuẫn, khắc phục những
xung đột, va chạm, tạo nên sự hoà hợp và đồng thuận trong xã hội. Điều này có

nghĩa là, để bảo đảm tự do cá nhân trong cuộc sống cộng đồng, đòi hỏi mỗi người
dân, sau khi đã trao quyền, uỷ quyền cho nhà nước, phải xây dựng cho được một thể
chế chính trị dân chủ - một thể chế nhà nước mà ở đó, mỗi người dân (công dân)
được phép hành động tự do những gì mà pháp luật không cấm, còn nhà nước chỉ
được làm những gì pháp luật cho phép. Có như vậy, sự tự do cho một người mới là
điều kiện tự do cho tất cả mọi người và chỉ có dân chủ chính trị mới là nhân tố cơ
bản bảo đảm cho quyền tự do cá nhân được thực thi trong cuộc sống. Lênin đã từng
nhấn mạnh: “Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có gì cao
hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa” [18, tr.414].
Hai là, khi lý giải về quyền bình đẳng về cơ hội phát triển của mỗi cá
nhân trong xã hội, các nhà tư tưởng chính trị đều thừa nhận đó là yếu tố tất yếu
trong đời sống xã hội. Họ quan niệm rằng, các quyền tự nhiên - quyền được
sống, quyền được mưu sinh, mưu cầu hạnh phúc… của mọi cá thể là như nhau,


21

tức là mỗi người đều có cơ hội ngang nhau về mặt pháp lý để phát triển mọi khả
năng, năng lực của mình. Sự bình đẳng về cơ hội phát triển, xét về bản chất,
không thủ tiêu sự khác biệt giữa các cá nhân hay giữa các cộng đồng, dân tộc;
trái lại, với sự tồn tại của nó, một người, một dân tộc muốn được hưởng tự do,
bình đẳng, cần phải thừa nhận tự do, bình đẳng của người khác cũng như của
các dân tộc khác.
Để minh hoạ cho vấn đề này, Kant nhấn mạnh, bình đẳng không có
nghĩa là bình đẳng về tài năng, mà bình đẳng về cơ hội để phát triển tài năng, do
đó, cần phải loại bỏ mọi đặc quyền giai cấp, tông tộc, chủng tộc… trong đời
sống xã hội. Các nhà khai sáng Pháp lại lý giải sự bình đẳng thông qua “luật tự
nhiên”. Họ cho rằng: “Trước khi người ta làm ra luật thì đã có những quan hệ về
sự công bằng tất yếu rồi” [29, tr.38], và sự công bằng tất yếu đó có thể được
hiểu là: Đã là con người, thì ai cũng quan tâm đến an ninh thân thể, đến nhu cầu

mưu sinh và tình hữu ái đồng loại, đến nguyện vọng sống thành xã hội để chia
sẻ tri thức vv… [14, tr.22]. Đó chính là các quyền tự nhiên mà mọi người đều
được bình đẳng như nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đọc bản Tuyên ngôn độc
lập ngày 2-9-1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã nhấn
mạnh: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [22, tr.1]. Như vậy, bình
đẳng là yếu tố không thể thiếu của dân chủ, đấu tranh cho quyền bình đẳng về
cơ hội phát triển giữa các quốc gia dân tộc, giữa các cộng đồng hay giữa các
cá nhân chính là cuộc đấu tranh cho dân chủ, giành quyền dân chủ.
Ba là, đặc trưng thứ ba của giá trị dân chủ là sự thống nhất trong tính
đa dạng. Nhờ sự thống nhất ý chí, mà các cá nhân khác biệt có thể hợp thành xã
hội và tạo lập quyền lực công cộng - điều kiện căn bản để tự do cá nhân được
bảo tồn, tôn trọng và phát triển. Chỉ có trong xã hội dân chủ, sự khác biệt, đa
dạng về lối sống, sắc tộc, luật tục địa phương… mới được chấp nhận và được bảo
vệ bởi pháp luật. Điều này chứng tỏ rằng, với sự thống nhất trong tính đa dạng, các


22

quyền tự do cá nhân, quyền bình đẳng về cơ hội phát triển của các cá nhân, các dân
tộc sẽ được thực sự bảo đảm trong chế độ dân chủ.
Bốn là, dân chủ là điều kiện và tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội, là con
đường dẫn đến sự phát triển. Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng, dân chủ là một
trong những nội dung hợp thành của tiến bộ xã hội, là động lực thúc đẩy phát
triển xã hội. Do đó, dân chủ có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tiến bộ xã
hội, nó quyết định trực tiếp đến tính chất, mức độ, tốc độ của tiến bộ xã hội. Vai
trò to lớn đó được thể hiện ở hai khía cạnh sau đây:
- Mỗi bước phát triển của tiến bộ xã hội sẽ đánh dấu một trình độ mới,
một bước tiến mới của dân chủ. Dân chủ, với tư cách là một nội dung hợp thành
không thể thiếu của tiến bộ xã hội, sẽ vừa là kết quả được tạo ra bởi tiến bộ xã

hội, vừa là tiêu chuẩn, điều kiện để xác định, đánh giá về tiến bộ xã hội. Lịch sử
phát triển của xã hội loài người đã trải qua các thời đại khác nhau và đã đạt được
những thành quả vô cùng to lớn về mọi phương diện, xét đến cùng, đó là thành
quả của dân chủ. Dân chủ có mặt trong những tinh hoa văn hoá nhân loại, trong
những thành tựu của các nền văn minh, cho nên dân chủ là thước đo của tiến bộ,
của phát triển, của văn minh.
- Tiến bộ xã hội là một nhu cầu tự nhiên, một xu hướng tất yếu của
vận động xã hội. Có vô số các nhân tố giữ vai trò “động lực” đối với tiến bộ xã
hội, trong đó, dân chủ là một động lực đặc biệt, bảo đảm thúc đẩy xã hội phát
triển một cách nhanh chóng, bền vững theo xu hướng tiến bộ. Với ý nghĩa đó,
dân chủ chính là con đường dẫn đến sự phát triển và tiến bộ xã hội - một sự phát
triển bền vững của con người, do con người và cho con người, tất cả vì sự giải
phóng triệt để con người, bảo đảm quyền làm chủ của con người trong quá trình
chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội.
Năm là, dân chủ là điều kiện thực hiện và phát triển nhân cách con
người. Không có dân chủ thực chất, đúng nghĩa, thì không có nhân cách trung
thực, sáng tạo. Chỉ khi nào sống và làm việc trong một môi trường dân chủ thực
sự, trong một thể chế dân chủ chân chính, con người mới có thể bộc lộ được


23

chính mình, mới có thể tự do phát biểu ý kiến, tự do sáng tạo, tự do tham gia
thảo luận, quyết định những vấn đề chung của tập thể và có thể bảo đảm các
quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng về cơ hội phát triển của mỗi cá nhân
trong tập thể, cộng đồng và xã hội. Thông qua quá trình đó, với tư cách là chủ
thể của mọi hành động, con người hình thành và không ngừng hoàn thiện nhân
cách. Nếu một nền dân chủ chính trị chỉ mang tính hình thức - dân chủ giả tạo,
dân chủ trên danh nghĩa, thì những con người sống trong môi trường ấy sẽ trở
thành những người không trung thực, luồn lách, lắt léo, đánh mất chính kiến,

không dám nói sự thật, không dám đấu tranh cho lẽ phải, công bằng vv… Chính
môi trường phi dân chủ đó đã kìm hãm sự sáng tạo vốn có của con người, ảnh
hưởng tiêu cực đến quá trình hoàn thiện nhân cách, thậm chí là làm méo mó, thui
chột nhân cách con người. Hiện tượng đó gọi là sự “phân thân” với những giả
nhân cách, còn trong chính trị, đó là sự dung dưỡng thói cơ hội, tùy thời và chủ
nghĩa cơ hội. Do vậy, dân chủ, với ý nghĩa đích thực của nó, chính là môi trường
thuận lợi để con người hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách - một nhân
cách in đậm tính nhân văn, nhân đạo cao cả.
Từ góc nhìn giá trị xã hội, dân chủ là phạm trù vĩnh viễn, gắn liền với
sự ra đời, tồn tại và phát triển của con người và cộng đồng loài người. Lịch sử
phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử đấu tranh cho dân chủ, cho tự
do, bình đẳng, công bằng và tiến bộ nhằm mục đích cuối cùng là giải phóng con
người và phát triển toàn diện các năng lực, sức mạnh bản chất của con người, là
sự hoàn thiện nhân tính.
Ngoài ra, dân chủ còn là phương thức tổ chức xã hội hiện đại, là
nguyên tắc tổ chức và hoạt động chủ yếu của các tổ chức chính trị, chính trị - xã
hội… Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, nguyên tắc dân chủ và tập trung dân chủ,
nếu chỉ bao hàm ý nghĩa thiểu số phục tùng đa số, sẽ có những mặt trái của nó,
đó là khi đa số chỉ là đa số trung bình, thậm chí yếu kém, lạc hậu. Lúc đó,
“những nguyên tắc dân chủ lại mở đường cho những kẻ mị dân, cơ hội, kém văn
hóa, những kẻ đục nước béo cò… thoán đoạt chính quyền” [42, tr. 20]. Hơn nữa,


24

trong thực tế không phải lúc nào và ở đâu, đa số cũng đồng nhất với chân lý. Có
không ít trường hợp, chân lý lại thuộc về thiểu số. Điều này thường thấy trong
hoạt động nghiên cứu khoa học. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn
đến trì trệ, bảo thủ, cản trở sự phát triển và tiến bộ xã hội. Do vậy, với tư cách là
phương thức tổ chức xã hội hiện đại, nguyên tắc dân chủ phải chứa đựng nội

hàm “thiểu số phục tùng quyết định của đa số, đa số tôn trọng và bảo vệ thiểu
số”. Trong nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng sản còn nói rõ: Thiểu
số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, nhưng thiểu số được quyền bảo
lưu ý kiến trong khi vẫn chấp hành quyết định của tổ chức. Khi thực tiễn đã
chứng tỏ có những quyết định của đa số là không đúng, thì phải kịp thời sửa
chữa, điều chỉnh và không bao giờ được định kiến, thành kiến với những người
có ý kiến khác.
Từ sự phân tích trên, có thể kết luận rằng, để hiểu rõ bản chất sâu
rộng, đa diện của phạm trù dân chủ có thể tiếp cận từ hai hướng cơ bản sau đây:
+ Dân chủ như một kiểu quan hệ xã hội, một giá trị xã hội gắn với tự
do, bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội.
+ Dân chủ với tư cách là một thể chế, một thiết chế gắn với quyền lực
và những phương tiện, điều kiện để thực thi quyền lực nhà nước như luật pháp,
chính sách, cơ chế, nhà tù, công nghệ thông tin, đội ngũ cán bộ công chức, các
phương tiện bạo lực để cưỡng chế khi cần thiết...
Tóm lại, phạm trù dân chủ là một phạm trù đa nghĩa, nhiều cấp độ, là
một phạm trù mang bản chất “kép” [40, tr.46]: Dân chủ vừa là một phạm trù
lịch sử, vừa là một phạm trù vĩnh viễn. Là phạm trù lịch sử, dân chủ gắn với
chính trị, giai cấp và nhà nước. Là phạm trù vĩnh viễn, dân chủ gắn với nhân
tính, với khát vọng tự do, sáng tạo của con người. Phạm trù lịch sử của dân chủ
được biểu hiện ra là chế độ dân chủ, nền dân chủ; còn khi là phạm trù vĩnh viễn,
dân chủ được biểu hiện ra là những giá trị nhân văn, văn hoá, là thước đo của
tiến bộ xã hội, là mức độ giải phóng con người và xã hội loài người.


25

1.1.1.3. Quan niệm về dân chủ
Dân chủ là một trong những vấn đề rất quan trọng trong đời sống xã
hội. Tuỳ thuộc vào quan điểm giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tập quán văn hóa và

truyền thống chính trị, cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về
dân chủ. Tựu trung lại, có thể khái quát một số cách nhìn nhận về dân chủ như
sau:
1. Nhân dân được coi là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực nhà
nước.
2. Các cơ quan quyền lực phải được nhân dân bầu hoặc bãi miễn
thông qua bầu cử tự do, bình đẳng và bỏ phiếu kín (có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp).
3. Các thể chế chính trị và nhà nước phải hợp hiến, hợp pháp, quản lý
xã hội bằng luật với sự ngự trị tối cao của pháp luật.
4. Không tập trung, hoặc tuyệt đối hóa quyền lực vào bất kỳ một chủ thể
quyền lực nào, thực hiện nguyên tắc phân quyền, tản quyền.
5. Nhà nước thực thi quyền lực một cách công cộng và công khai.
6. Nhà nước phải phối hợp hoạt động với xã hội công dân, tạo điều
kiện cho công dân tham gia rộng rãi vào quyết định công việc của nhà nước,
giám sát, phê bình hoạt động của nhà nước.
7. Nhân dân dễ dàng tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng.
8. Thiểu số phải phục tùng quyết định của đa số và đa số tôn trọng,
bảo vệ thiểu số [43, tr.30-31].
Tuy nhiên, khi đề cập đến vấn đề dân chủ, cần phải lưu ý thêm những
khía cạnh cơ bản sau đây:
Một là, thực chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nên
chế độ dân chủ là chế độ uỷ quyền. Vấn đề đặt ra ở đây là, phải phân biệt hai
chủ thể - chủ thể uỷ quyền và chủ thể tiếp nhận quyền. Chủ thể uỷ quyền là
nhân dân, nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực. Nhà nước là chủ thể tiếp
nhận quyền lực của nhân dân, nên quyền lực nhà nước phải là hiện thân của


×