Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luân cao học môn chính sách đối ngoại QUAN hệ hợp tác KINH tế VIỆT NAM – lào GIAI đoạn từ năm 1986 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.55 KB, 35 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NA

QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – LÀO GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1986
ĐẾN NAY


MỤC LỤC

CHƯƠNG MỘT: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
VÀ TỔNG QUAN MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – LÀO...................4
1.1.

Chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới.......................................4

1.1.1.

Hồn cảnh lịch sử và q trình hình thành đường lối đối ngoại..........4

1.1.2.

Nội dung chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới..................................8

1.2.

Tổng quan về quan hệ kinh tế Việt Nam – Lào.......................................11

1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành mối quan hệ kinh tế Việt Nam –
Lào …………………………………………………………………………..11
1.2.2.


Mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Lào qua các giai đoạn:..................14

CHƯƠNG HAI: THỰC TRẠNG QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ................18
VIỆT NAM – LÀO TỪ 1986 ĐẾN NAY..............................................................18
2.1. Quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam – Lào............................................18
2.2. Quan hệ hợp tác đầu tư Việt Nam – Lào....................................................21
2.2.1. Đầu tư của Việt Nam vào Lào.............................................................21
2.2.2. Đầu tư của Lào vào Việt Nam.............................................................23
2.3. Về cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu giữa hai nước................23
2.3.1.

Nhập khẩu của Lào từ Việt Nam........................................................23

2.3.2.

Xuất khẩu của Lào sang Việt Nam.....................................................24

CHƯƠNG BA: KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUAN HỆ
KINH TẾ VIỆT NAM – LÀO..............................................................................26
3.1.

Khó khăn và trở ngại khi phát triển quan hệ kinh tế giữa hai nước.........26

3.2.

Giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Lào.....................28


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:

Xu thế lớn của thế giới và khu vực ngày nay là tăng cường hợp tác giữa các
nước, trước hết là giữa các nước láng giềng. Xu thế này bắt nguồn từ những
nguyên nhân khách quan và chủ quan như: trật tự thế giới hai cực của chiến
tranh lạnh với sự đối đầu giữa hai hệ thống đối lập kết thúc đã mở ra cơ hội cho
việc phát triển quan hệ hợp tác giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác
nhau; tồn cầu hóa và nhu cầu khách quan của hợp tác liên kết; cách mạng khoa
học - công nghệ phát triển mạnh mẽ và nhu cầu hợp tác để chia sẻ tri thức nhân
loại; hay các vấn đề toàn cầu nổi lên và nhu cầu hợp tác giữa các nước để giải
quyết. Và đương nhiên Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này. Đại hội VI
của Đảng (tháng 12/1896) đã đánh dấu sự đổi mới của Đảng ta về hoạch định
chính sách đối ngoại, theo hướng hình thành đường lối đối ngoại phù hợp là rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập quốc tế trên tinh thần giữ vững độc
lập, chủ quyền dân tộc. Trong đó, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn
diện, bền vững lâu dài với các nước láng giềng, đặc biệt là Cộng hịa dân chủ
Nhân dân Lào ln là ưu tiên hàng đầu của chính sách đối ngoại nước ta trong
giai đoạn cách mạng hiện nay. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam và Lào đã
chính thức thiết lập ngoại giao được 55 năm (5/9/ 1962 – 5/9/2017). Mối quan hệ
Việt Nam - Lào là mối quan hệ hữu nghị, hợp tác đặc biệt, toàn diện. Đảng và
Nhà nước Việt Nam luôn xác định quan hệ với Lào là tài sản vô giá của hai dân
tộc, cần phải giữ gìn, phát huy và truyền tiếp cho các thế hệ mai sau vì sự phát
triển phồn vinh của mỗi nước, vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội tại khu vực và trên thế giới. Cả 2 nước đã cùng nhau hợp tác phát triển trên
nhiều lĩnh vực từ an ninh quốc phòng, kinh tế, đên văn hóa giáo dục và đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Cùng với quan hệ chính trị tốt đẹp sẵn có, quan hệ hợp
1


tác kinh tế Việt Nam – Lào trong những năm gần đây ngày càng khởi sắc, bước
đầu tạo nền tảng vật chất để liên kết và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa hai
nước. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Lào đã phát triển nhanh chóng kể

từ năm 1962, khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Và kể từ khi
hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác năm 1977, quan hệ kinh tế giữa Việt
Nam và Lào đã không ngừng được đẩy mạnh, góp phần quan trọng thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của hai nước. Đặc biệt trong những năm gần đây, nhiều
hoạt động thương mại, đầu tư trở nên sôi động và đem lại hiệu quả cao hết sức
khả quan. Sự thành công trong hợp tác kinh tế là một trong những động lực để
thúc đẩy quan hệ song phương giữa hai nước tiếp tục phát triển ngày càng bền
vững. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, đó chính là lý do mà tơi chọn
đề tài này để thực hiện bài Tiểu luận của mình để từ đó tìm hiểu sâu hơn về mối
quan hệ kinh tế giữaViệt Nam - Lào, và đưa ra các giải pháp để thúc đẩy và duy
trì mối quan hệ song phương này.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu :
- Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Việt Nam thơng qua mối quan hệ kinh
tế giữa Việt Nam và Lào
- Phân tích thực trạng mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Lào trong giai đoạn
1986 đến nay
- Tìm hiểu những hạn chế cịn tồn tại để từ đó đề xuất các giải pháp thúc
đẩy mối quan hệ kinh tế giữa hai nước.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tập trung làm rõ các nội dung: chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ
đổi mới, cơ sở gây dựng mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Lào, thực trạng
mối quan hệ, những thành tựu đạt được và những mặt còn hạn chế của
quan hệ kinh tế giữa hai nước.

2


- Đi sâu tìm hiểu về hai phần lớn của mối quan hệ kinh tế: quan hệ thương
mại và quan hệ đầu tư giữa hai nước.

3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Phương pháp nghiên cứu:
- Để cho nội dung thêm phong phú, tôi đã kết hợ các phương pháp nghiên
cứu như: phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích, so sánh,

3.2.

Phạm vi nghiên cứu:

- Trong khoảng thời gian từ khi đất nước bắt đầu đổi mới, từ năm 1986 đến
năm 2017.
4. Kết cấu đề tài:
Ngoài những mục Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo thì Tiểu luận
bao gồm 3 chương
Chương 1: Tập trung vào cơ sở lý luận: chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ
đổi mới, sự hình thành mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Lào và tổng quan mối
quan hệ qua các giai đoạn.
Chương 2: Đi sâu vào tìm hiểu thực trạng mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Lào từ
năm 1986 đến nay thông qua mối quan hệ về thương maị và mối quan hệ về đầu
tư giữa 2 nước.
Chương 3: Chỉ ra những hạn chế còn tồn tại và đề xuất các giải pháp thúc đẩy,
duy trì mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Lào.

3


CHƯƠNG MỘT: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI
MỚI VÀ TỔNG QUAN MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – LÀO
1.1.


Chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới
1.1.1. Hồn cảnh lịch sử và q trình hình thành đường lối đối ngoại

1.1.1.1. Hồn cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX:
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát
triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.
Đến đầu những năm 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến
những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế.
Trên thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn,
nhưng xu thế chung của thế giới là hồ bình và hợp tác phát triển. Các quốc gia,
các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế đều thực hiện điều chỉnh chiến lược
đối nội, đối ngoại và phương thức hành động sao cho phù hợp với yêu cầu nhiệm
vụ bên trong và đặc điểm của thế giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát
triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hố, đa dạng
hoá quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cương liên kết, hợp tác với các nước phát
triển đồng thời đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia.
- Xu thế tồn cầu hóa và tác động của nó:
Đại hội lần thứ IX của Đảng (4/2001) chỉ rõ: “Tồn cầu hố kinh tế là một xu thế
khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số
nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều

4


mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu
tranh”.
Những tác động tích cực của tồn cầu hố: trao đổi hàng hoá tăng mạnh đã thúc
đẩy phát triển sản xuất của các nước; nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh

nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư mang lại lợi ích cho các bên tham gia
hợp tác. Mặt khác toàn cầu hố làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự
hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây dựng mơi trường hồ bình,
hữu nghị và hợp tác giữa các nước.
Những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa: tạo nên sự bất bình đẳng trong quan
hệ quốc tế và làm gia tăng sự phân cực giữa các nước giàu và nghèo.
Tình hình khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
Tuy vẫn tồn tại những bất ổn nhưng châu Á - Thái Bình Dương vẫn được đánh
giá là khu vực ổn định. Đây được coi là khu vực có tiềm lực lớn và năng động về
phát triển kinh tế, xu thế hồ bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh.
Ở Việt Nam, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế (do cuộc khủng hoảng kinh tế và
hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại) so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới là một trong những thách thức lớn đối với cách mạng Vì vậy, nhu cầu
chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt. Để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong
nước, cần phải tranh thủ các nguồn lực bên ngồi, trong đó việc mở rộng và tăng
cường hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có
ý nghĩa đặc biêt quan trọng.

5


Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
nêu trên là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và hoạch định
chủ trương, chính sách đối ngọai thời kỳ đổi mới.
1.1.1.2. Các giai đoạn hình thành và phát triển
Giai đoạn 1986-1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa
dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.
- Tại Đại hội VI của Đảng (12 /1986) Đảng ta chủ trương phải biết kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra yêu

cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội
chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức và tư nhân
nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
- Triển khai chủ trương của Đảng, tháng 12-1987, luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam được ban hành. Đây là lần đầu tiên Nhà nước ta tạo cơ sở
pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – mở
cửa để thu hút nguồn vốn, thiết bị và kinh nghiệm tổ chức quản lý sản
xuất, kinh doanh và phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
- Tháng 5-1988, Bộ chính trị ra nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình tình mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích
cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giư vững hồ bình để
tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. Nghị quyết số 13 của Bộ
chính trị đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và chuyển hướng
toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta. Sự chuyển hướng này đã đặt
nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,mở rộng, đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.
- Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng và
cùng có lợi với tất cả các nước, khơng phân biệt chế độ chính trị – xã hôi
6


khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hồ bình”, với phương
châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”.
- Các Hội nghị Trung ương (khoá VII) tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của
Đại hội VII về lĩnh vực đối ngoại.
- Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ
và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá và
đa phương hoá quan hệ đối ngoại,
Giai đoạn 1996-2008: Bổ sung và phát triển đương lối đối ngoại theo phương

châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ
quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực
và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở và “đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
+ Đại hội IX của Đảng (4/2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, và đây là
lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Chủ
trương xây dựng quan hệ đối tác được đề ra ở Đại hội IX đánh dấu bước phát
triển về chất tiến trình quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4-2006) nêu quan điểm: thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hồ bình hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế.
Đồng thời đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
1.1.2. Nội dung chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới
1.1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
7


- Mục tiêu nhiệm vụ đối ngoại: Lấy việc giữ vững mơi trường hồ bình, ổn
định, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, để phát
triển kinh tế – xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Mở rộng đối ngoại
và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo
thành nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá,
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh; phát
huy vai trị và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế; góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Tư tưởng chỉ đạo: Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải

quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm:
Một là: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành cơng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo
khả năng của Việt Nam.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Ba là: Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng
thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích
hợp với từng đối tác; đấu tranh để hợp tác
Bốn là: Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, khơng
phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hồ bình, hợp tác với khu
vực; chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực toàn cầu.

8


Năm là: Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân
dân. Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là cơng việc của tồn dân.
Sáu là: Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế – xã hội; giữ gìn bản sắc văn hố dân
tộc; bảo vệ mơi trường sinh thái trong q trình hội nhập kinh tê quốc tế.
Bảy là: Phát huy tối đa nội lực đi đơi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có
hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Tám là: Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải
cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của
Đảng và Nhà nước.
Chín là: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai
trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết tồn dân

trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2.2. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ
đối ngoại, hội nhập kinh kế quốc tế
Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 khoá X (2/2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn
như:
- Đưa ra các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định,
bền vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ
có địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch

9


định chính sách thương mại tồn cầu, thiết lập một trận tự kinh tế mới
cơng bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi doanh
nghiệp Việt Nam trong các cuộc tranh chấp thương mại với các nước khác,
hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực cho bộ máy
nhà nước: Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính khơng cịn phù
hợp; đẩy mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra,
giám sát; thực hiện cơng khai, minh mạch mọi chính sách, cơ chế quản lý.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong
hội nhập kinh tế quốc tê: Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích
cực thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế;
các doanh nghiệp điều chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác
định đúng đắn chiến lược sản phẩm và thị trường; điều chỉnh quy hoạch
phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của một số
sản phẩm.
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước
đối với các hoạt động đối ngoại. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập

trung xây dựng cơ sở đảng trong các doanh nghiệp và xây dựng giai cấp
công nhân trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách hành chính.
- Giữ vững và tăng cường quốc phịng, an ninh trong q trình hội nhập:
Xây dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có
các phương án chống lại âm mưu “diễn biến hồ bình” của cá thế lực thù
địch.
1.2.

Tổng quan về quan hệ kinh tế Việt Nam – Lào

Là hai nước láng giềng núi sông liền một dải, quan hệ gắn kết anh em giữa hai
dân tộc đã được hình thành và hun đúc trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước
10


và giữ nước và đặc biệt trong hơn bảy thập kỷ qua, mối quan hệ truyền thống tốt
đẹp, sự gắn bó thủy chung giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Lào được Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phom-vi-hẳn đặt nền móng, được các thế
hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dày công
vun đắp đã trở thành tài sản vô giá của cả hai dân tộc và là quy luật phát triển
chung của hai nước trên con đường phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân ấm
no, hạnh phúc.
1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành mối quan hệ kinh tế
Việt Nam – Lào
1.2.1.1. Cơ sở lý luận
Quan hệ thân thiện lâu đời giữa hai dân tộc Việt Nam, Lào đã phát triển
thành quan hệ đặc biệt vào năm 1930, khi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc của Việt Nam và Lào được tiến hành theo con đường cách mạng do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc vạch ra, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Mácxít - Lenin chân

chính.
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam không giống bất cứ mối
quan hệ nào trong lịch sử thế giới đương đại, được xây đắp, nuôi dưỡng bằng
công sức, của cải, xương máu của nhiều thế hệ cách mạng người Việt Nam và
Lào. Trải qua rất nhiều gian nan, thử thách khắc nghiệt, quan hệ đó vẫn vẹn
ngun, khơng hề bị rạn nứt và phá vỡ cho dù các thế lực thù địch dùng nhiều
thủ đoạn chống phá, chia rẽ.
Bản chất của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, được ni
dưỡng, phát triển bằng sức cảm hóa sâu sắc của quan điểm “giúp bạn là mình tự
giúp mình” do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn. Đây là câu nói cơ đọng, giàu ý

11


nghĩa chính trị, nhân văn, mở ra phương hướng xử lý hài hịa lợi ích của hai dân
tộc; là vũ khí sắc bén chống tư tưởng dân tộc hẹp hịi, ban ơn.
Dựa trên luận điểm về quyền dân tộc tự quyết, cơ quan lãnh đạo cấp cao Việt
Nam, Lào đã nhất trí tiến hành liên minh, hợp tác theo nguyên tắc tôn trọng độc
lập tự chủ của bạn như Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Cán bộ Việt Nam sang
cơng tác ở Lào phải hồn tồn ở dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Trung ương
Lào, nhất là của Thủ tướng Xuphanuvông. Tuyệt đối không được tự cao, tự đại,
khơng được bao biện...”
Về phía Lào, Chủ tịch Cayxỏn Phơmvihản nhấn mạnh : “Sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta phải do nhân dân ta tự làm lấy. Đảng ta là một Đảng lãnh đạo
cách mạng thực sự, do đó phải giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ”.
Quan hệ truyền thống thân thiết của nhân dân hai nước Việt Nam - Lào được chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ hướng, soi đường đi tới độc lập tự
do, đã biến thành quan hệ đặc biệt và sức mạnh vĩ đại, đưa tới nhiều thắng lợi
lịch sử của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến
chống đế quốc Pháp, Mỹ xâm lược và tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới

đưa hai nước cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người vạch đường, cho sự nghiệp
giải phóng và phát triển của hai dân tộc Việt Nam, Lào, cũng là người trực tiếp
chỉ đạo xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam và
tự mình nêu tấm gương sáng về đạo đức cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư
trong xử lý mối quan hệ quốc gia, quốc tế Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân, dân hai nước do thấm nhuần và
thực hiện lời dạy của Người mà vượt qua mọi gian nguy để giành nhiều thắng
12


lợi, kết thúc vẻ vang các chặng đường cách mạng và đang vươn tới những thắng
lợi mới.
1.2.1.2. Cơ sở thực tiễn
Sau Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào, ngày tháng 9 năm 1962, Chính phủ nước
Việt Nam dân chủ cộng hịa và Chính phủ Vương quốc Lào chính thức thiệt lập
quan hệ ngoại giao. Trải qua các giai đoạn lịch sử, Hội nghi Ban thường vụ
Trung ương Đảng Nhân dân Lào (25/6/1970) đã xác định các nhiệm vụ trong 2
năm tới, đồng thời nhấn mạnh cần phải tăng cường đoàn kết hơn nữa với nhân
dân Việt Nam và Campuchia trong cuộc chiến chống kẻ thù chung là Đế quốc
Mỹ xâm lược. Thực hiện chủ trương trên, 2 nước Việt Nam – Lào càng tích cực
đẩy mạnh các hoạt động phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt, trong đó có
kinh tế. Và đó là khởi điểm trong việc thiết lập quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và
Lào. Vào thời điểm đó, các bộ, ngành của Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định
hợp tác, giúp đỡ với các bộ ngành của Lào như: lâm nghiệp, công nghiệp nhẹ,
thủ công và địa chất (2 – 1972), giao thông vận tải (4 - 1972), thủy lợi (5 –
1972), nhằm nâng cao tốc độ phát triển kinh tế trong vùng giải phóng Lào.
Những năm 1974, các chuyên gia Việt Nam đã phối hợp tích cực, cùng với cán
bộ và nhân dân Lào đẩy mạnh sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần giải quyết
những yêu cầu cấp bách về đời sống của nhân dân và chuẩn bị các mặt cho việc

phát triển kinh tế của vùng giải phóng trong những năm tiếp theo.
Sau năm 1975, kể từ khi 2 nước hoàn tồn giải phóng, quan hệ Việt nam và Lào
đã bước sang một trang hoàn toàn mới: Từ liên minh chiến đấu chung một chiến
hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền.

13


Đặc biệt, vào ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết Hiệp ước:
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Hiệp ước này là Hiệp ước tồn diện, mang tính
chiến lược lâu dài, tạo cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng
cường lâu dài tình đoàn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt
Nam, trong đó bao gồm cả mối quan hệ về kinh tế, thương mại. Đây là dấu mốc
lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ kinh tế giữa hai nước.
Kể từ đó đến nay, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Lào đã khơng ngừng được
đẩy mạnh, góp phần quan trọng trong thúc đảy dự phát triển kinh tế - xã hội của
hai nước.
1.2.2. Mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Lào qua các giai đoạn:
1.2.2.1. Giai đoạn từ 1976 đến 1985
Đây là giai đoạn Lào từng bước thử nghiệm cơ chế quản lý kinh tế mới ở một số
cơ sở quốc doanh, chuyển từ nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sang kinh tế
sản xuất hàng hoá, khuyến khích sản xuất, lưu thơng, xây dựng kinh tế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước. Việt Nam cũng đang trong quá trình từng bước
nghiên cứu, khảo nghiệm để đổi mới cơ chế quản lý từ quan liêu bao cấp sang
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; thực hiện khốn trong nơng nghiệp; giao
quyền tự chủ cho doanh nghiệp cơng nghiệp... nhằm giải quyết những khó khăn
về kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, tiếp tục tìm con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của dân tộc Việt Nam và xu thế chung của thế
giới.

Ngay từ năm 1983, khi tình hình chính trị, kinh tế - xã hội hai nước bước đầu ổn
định, công cuộc khôi phục kinh tế căn bản hoàn thành, hai nước chuyển sang
nhiệm vụ trọng tâm là phát triển sản xuất và kinh tế. Quan hệ hợp tác kinh tế,
14


văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa hai nước dần thay đổi: từ viện trợ khơng hồn
lại và cho vay là chủ yếu sang giảm dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh
hợp tác sản xuất kinh doanh bình đẳng cùng có lợi. Thời gian này, Lào đề ra
công thức hợp tác: Tài nguyên Lào, lao động kỹ thuật Việt Nam, vốn hợp tác
hoặc vay của nước thứ ba. Trong hợp tác đã chuyển dần từ hợp tác từng vụ việc
theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước Lào sang hợp tác theo chương trình, kế
hoạch được ký kết giữa hai Chính phủ. Đồng thời, hai bên giúp nhau phát huy
khả năng và tiềm năng, thế mạnh của mỗi nước để giải quyết những nhu cầu cấp
bách về đời sống và sản xuất. Đây là những định hướng phù hợp với điều kiện
hai nước trong những năm đầu chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Về quan hệ hợp tác thương mại: Trước năm 1975, Việt Nam và Lào có hiệp định
trao đổi thương mại nhưng mới chỉ dừng lại ở quy định một số nguyên tắc, thể lệ
và danh mục chung, không quy định kim ngạch. Trao đổi chủ yếu diễn ra giữa
các địa phương và các tỉnh của Việt Nam với vùng giải phóng Lào. Từ 1976 –
1981, trao đổi hàng hố chính ngạch được bắt đầu theo phương thức bao cấp
bằng ngân sách nhà nước mỗi bên. Từ năm 1981 –1985, kim ngạch tăng nhanh
hơn do Thái Lan bao vây cấm vận Lào 273 mặt hàng, nên Lào chuyển hướng
sang phía Đơng. Hiệp định thương mại Việt Nam - Lào 5 năm (1981 – 1985)
được ký kết, kèm theo nghị định thư thương mại hàng năm, đã tạo hành lang
pháp lý cho việc trao đổi bn bán giữa hai nước... Ngồi ra, Việt Nam cịn hỗ
trợ Lào sử dụng các nguồn viện trợ chủ yếu từ các nước xã hội chủ nghĩa và các
tổ chức quốc tế. Từ năm 1976 đến 1985, các nước và các tổ chức này đã viện trợ
khơng hồn lại cho Lào 547,89 triệu rúp, 126,57 triệu USD và cho vay 594,583
triệu rúp.


15


Trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quan hệ hợp tác toàn diện giữa
hai nước đã từng bước thay đổi cả nội dung và phương thức hợp tác cho phù hợp
với tình hình mới. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác giai đoạn này cơ bản dựa trên cơ
sở tinh thần quốc tế vô sản, với phương thức chủ yếu là viện trợ và cho vay theo
cơ chế tập trung bao cấp, chưa tương xứng với yêu cầu của nhân dân hai nước và
tầm cao của quan hệ chính trị giữa hai Đảng và hai Nhà nước Việt Nam và Lào.
1.2.2.2. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Trước những khó khăn gay gắt của khủng hoảng kinh tế - xã hội ở cả Việt Nam
và Lào cuối thập kỷ 70 và thập kỷ 80 thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã nhìn thẳng vào sự thật, nhận ra những sai lầm
chủ quan duy ý chí, nóng vội muốn đi nhanh lên CNXH theo mơ hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam (12-1986) và Đại hội IV của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (11-1986), hai
Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện ở cả hai nước, trước hết là đổi mới
kinh tế.
Hai bên cũng chấp hành ngun tắc hợp tác là bình đẳng, tơn trọng chủ quyền
quốc gia, cùng có lợi và hết lịng giúp đỡ nhau; mặt khác cịn căn cứ vào tình
hình cụ thể của mỗi nước mà dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau.
Phương thức hợp tác ngày càng được mở rộng và nâng cao về quy mô, chất
lượng và hiệu quả. Có thể thấy điều đó qua các cuộc hội đàm và gặp gỡ giữa
lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước về những quan điểm kinh tế xoay quanh
chủ đề chính yếu nhất là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam,
Lào và kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện tại hai nước. Trên thực tế, sự hợp tác của
hai nước diễn ra từ Trung ương đến tỉnh, thành phố và các doanh nghiệp sản

16



xuất, kinh doanh, dịch vụ… trên các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, cơng
thương, nơng nghiệp…
Nội dung hợp tác kinh tế được chuyển dần theo cấp độ từ thấp lên cao: ban đầu
là viện trợ, cho vay, tiến đến hợp tác sản xuất kinh doanh phù hợp công thức: Tài
nguyên Lào, lao động kỹ thuật Việt Nam, vốn hợp tác hoặc vay của nước thứ ba.
Tiếp đó, từ năm 1996 trở đi, một công thức hợp tác mới được áp dụng, đó là hợp
tác hai bên cùng có lợi theo thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau.
Điều đặc sắc nổi bật trong quan hệ hợp tác kinh tế Lào - Việt Nam, là tinh thần
giúp đỡ nhau mỗi khi nước bạn gặp khó khăn không thể tự giải quyết được.
Hành động Việt Nam cùng hợp tác chặt chẽ với Lào nghiên cứu chống lạm phát
và ổn định kinh tế vĩ mô năm 1999 đạt được kết quả tốt đẹp, là một mẫu hình
tiêu biểu.
Kể từ đó đến nay, hai nước ln song hành và hỗ trợ lẫn nhau trên con đường đổi
mới. Sự hợp tác toàn diện đã mang lại nhiều kết quả tích cực cho cả hai nước,
đóng góp to lớn vào công cuộc bảo vệ đất nước và xây dựng nền tảng ban đầu
cho nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không ngừng nâng
cao đời sống cho người dân, đưa Việt Nam vào nhóm nước có thu nhập quốc dân
theo đầu người ở mức trung bình của thế giới và sớm đưa Lào thốt khỏi nhóm
nước chậm phát triển; cả hai nước đã cùng đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc
tế, từng bước nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.

17


CHƯƠNG HAI: THỰC TRẠNG QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ
VIỆT NAM – LÀO TỪ 1986 ĐẾN NAY

Trong quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt

Nam, hợp tác kinh tế trong thời kỳ đổi mới ln chiếm vị trí quan trọng hàng
đầu, với mong muốn là động lực thúc đẩy sự phát triển của quan hệ hợp tác khác.
Bước vào thời kỳ đổi mới, quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước dần có sự thay
đổi theo hướng phát triển từ viện trợ khơng hồn lại, cho vay là chủ yếu sang
giảm dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp tác sản xuất kinh doanh
bình đẳng cùng có lợi. Đồng thời, trong hợp tác đã chuyển dần từ hợp tác từng
vụ việc theo yêu cầu của phía Lào sang hợp tác theo chương trình, kế hoạch
được ký kết giữa hai Chính phủ.
2.1. Quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam – Lào
Tháng 2-1991, Hiệp định thương mại thời kỳ 1991-1995 được ký kết. Hai bên
thỏa thuận chấm dứt hình thức ký Nghị định thư trao đổi hàng hóa hằng năm,
xóa bỏ tình trạng bao cấp của Nhà nước, mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ
thương mại hai nước Việt Nam - Lào. Theo đó, đối tượng tham gia trao đổi
thương mại được mở rộng, không hạn chế về thành phần tham gia cũng như
danh mục hàng hóa, trừ các mặt hàng cấm xuất và cấm nhập. Cơ chế mới phù
hợp yêu cầu thực tiễn đã giúp cho quan hệ thương mại giữa hai nước đạt được
những bước tiến mới. Năm 1991, kim ngạch xuất, nhập khẩu hai chiều giữa hai
nước đạt 45 triệu USD và năm 1995 đạt 80 triệu USD.
Từ năm 1996-2000, phát huy những thành tựu đã đạt được và bằng những biện
pháp tích cực như mở rộng các mặt hàng nhập khẩu từ Lào trong kế hoạch hàng
18


đổi hàng, xây dựng các cửa hàng, siêu thị giới thiệu sản phẩm hàng hóa của mỗi
bên, tổ chức các cuộc hội chợ, triển lãm hàng hóa của hai nước. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp Việt Nam cịn tiến hành đầu tư sang Lào, một số liên doanh Việt
Nam - Lào đã đi vào hoạt động mang lại hiệu quả như: Liên doanh sản xuất mì
ăn liền của TOCONTAP, Liên doanh sản xuất thép VILEXIM, Liên doanh sản
xuất nhựa của SAPLAST-VIENTIANE, Liên doanh chế biến gỗ của SAVIMEX,
Liên doanh khai thác muối ka-li của VINACHEM... Các địa phương có chung

biên giới, khơng những trao đổi mua bán, mà cịn tăng cường quan hệ đồn kết,
hợp tác truyền thống gắn bó, góp phần bảo đảm an ninh xã hội vùng biên, xây
dựng đường biên hịa bình, ổn định và phát triển. Kim ngạch thương mại thời kỳ
này đã tăng từ 188 triệu USD năm 1996 lên 295 triệu USD trong năm 1999.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, quan hệ thương mại Việt Nam - Lào
ngày càng đi vào thực chất. Hai bên đã cùng nhau rà soát lại những mặt hàng là
thế mạnh của mỗi bên và tìm biện pháp dành cho nhau những ưu đãi. Năm 2005,
Ủy ban Liên Chính phủ đã xem xét giảm thuế xuất, thuế nhập khẩu cho hàng hóa
có xuất xứ từ hai nước. Sau thỏa thuận của Bộ Công thương hai nước (7-2005),
danh mục hàng hóa được giảm thuế từ 50% đến 0% đã được thơng qua. Việc
giảm chi phí dịch vụ lao động, cấp thẻ theo thời hạn hợp đồng và cư trú của
người lao động Việt Nam tại Lào đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thúc đẩy đầu tư, thương mại giữa hai nước.
Hợp tác thương mại Lào và Việt Nam đã cải thiện dần qua các năm, tuy nhiên do
chịu sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nên kết quả thực sự vẫn chưa
có nhiều đột phá.
Giai đoạn từ năm 2006 đến 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới
nên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tuy vẫn tăng nhưng không
19


tăng mạnh và khơng có sự đột biến đáng kể. Năm 2006, tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu là 260 triệu USD, sang đến năm 2008 tăng lên 423 triệu USD, đạt
62,6%. Năm 2009, thậm chí cịn hầu như khơng tăng, chỉ đạt 428 triệu USD,
tăng 1,2% so với năm 2008.
Để giải quyết tình hình đó, vào tháng 1/2009, hai bên đã thống nhất ký kết bản
thỏa thuận về ưu đãi thuế suất thuế nhập khẩu Việt - Lào, tiếp tục thực hiện miễn
giảm thuế từ 0 - 50% đối với các mặt hàng có xuất xứ từ hai nước. Hoạt động
đầu tư diễn ra sôi nổi hơn, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm tới thị
trường Lào. Kết quả là sang năm 2010, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng

14,5% đạt 490 triệu USD và thực sự tốc độ tăng trưởng này đã tăng vào năm
2012 với tổng kim ngạch song phương lên đến 866 triệu USD tăng gần gấp đôi
so với cùng kỳ năm 2010.
Con số này tiếp tục tăng nhanh từ sau khi Lào gia nhập WTO vào năm 2012.
Kim ngạch xuất nhập khẩu lên cao nhất là 1.285 triệu USD vào năm 2014.
Tuy nhiên đến năm 2015, kim ngạch thương mại song phương bắt đầu có dấu
hiệu chững lại, chỉ đạt mức 1.122 triệu USD giảm 13% so với năm 2014. Lý do
là giá cả trên thị trường thế giới giảm, Lào cấm xuất khẩu gỗ bán thành phẩm và
chỉ cho xuất khẩu gỗ thành phẩm. Trong khi đó, kim ngạch mặt hàng gỗ chiếm
tới trên 60% kim ngạch xuất khẩu của Lào sang Việt Nam.

20


2.2. Quan hệ hợp tác đầu tư Việt Nam – Lào
2.2.1. Đầu tư của Việt Nam vào Lào
Đầu tư trực tiếp của Việt Nam vào Lào mới bắt đầu khởi sắc từ năm 2005 khi
một số dự án trồng cây công nghiệp được cấp phép và triển khai. Kể từ đó, hợp
tác đầu tư giữa Việt Nam và Lào được lãnh đạo hai nước quan tâm và khuyến
khích. Giai đoạn 2006 – 2010 có 190 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 2,6
tỷ USD, tăng 21 lần so với giai đoạn 2001 – 2005, riêng năm 2011, đạt 480 triệu
USD, cao hơn năm 2010.
Trước khủng khoảng, FDI của Việt Nam vào Lào năm 2007 có số vốn đăng ký là
616,4 triệu USD. Năm 2008 tác động xấu của kinh tế thế giới và khu vực đã kéo
giá trị vốn đăng kí FDI của Việt Nam tại Lào xuống còn 448,6 triệu USD, giảm
37,4% so với năm 2007. Tuy nhiên, ngay trong năm sau đó số vốn đăng kí đã trở
lại rất ấn tượng đạt 1,5 tỷ USD, gấp gần 2,5 lần so với thời trước khủng hoảng.
Cũng trong năm 2008, FDI của Việt Nam vào Lào tuy giảm về số vốn đăng kí
nhưng số dự án vẫn đạt 51 dự án, tăng 54,5% so với năm 2007 là 33 dự án. Đến
21



năm 2009 số dự án giảm 34,2% còn 38 dự án. Điều này chứng tỏ trong năm
2009, chất lượng vốn của các dự án FDI của Việt Nam đã được cải thiện.
Từ năm 2010 đến năm 2015, nguồn vốn đầu tư của các chủ đầu tư vào Lào của
Việt Nam liên tiếp tăng mạnh. Năm 2011 đã có 203 dự án đầu tư tại Lào, đạt trên
3,3 tỷ USD và đã tăng lên 4,2 tỷ USD vào năm 2012. Đến năm 2014 có 253 dự
án với tổng số vốn FDI đạt hơn 5,1 tỷ USD. Đến tháng 8/2015, đã có 261 dự án
đầu tư với tổng số vốn 5,2 tỷ USD của doanh nghiệp Việt Nam rót vào Lào.
Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào tập trung chủ yếu vào các lĩnh
vực:
- Dịch vụ, với số vốn đầu tư hơn 1,07 tỷ USD. Trong đó, dự án đầu tư lớn
nhất của Việt Nam tại Lào là đầu tư Sân gôn Viêng Chăn - Long Thành và
bất động sản khu vực Ðông Phô Xỉ với vốn đầu tư 1 tỷ USD
- Thủy điện với tổng vốn đầu tư gần 900 triệu USD
- Nông và lâm nghiệp (trồng cây cơng nghiệp và chế biến lâm sản, nơng
sản; khai khống) với tổng vốn đầu tư khoảng 800 triệu USD. Nhìn chung
các dự án trong lĩnh vực này, nhất là các dự án trồng cây công nghiệp,
được các doanh nghiệp Việt Nam triển khai đúng tiến độ; một số dự án
trồng cây cao-su đã bắt đầu cho dòng sản phẩm đầu tiên như các dự án của
Công ty cổ phần Cao-su Việt - Lào, Cơng ty Cao-su Dầu Tiếng, Tập đồn
Hồng Anh - Gia Lai,...
- Khai thác khoáng sản, một số dự án đầu tư quy mô tương đối lớn đã hồn
thành giai đoạn thăm dị, khảo sát và đang chuẩn bị tiến hành khai thác,
chế biến. Hiện nay đã có 46 dự án của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư
thăm dị, khai thác khống sản với tổng vốn đầu tư là 118 triệu USD, quy
mơ bình qn một dự án là 2,5 triệu USD. Các dự án đầu tư khai thác
khống sản tại Lào nhìn chung đã triển khai hoạt động. Đây là lĩnh vực có
22



nhiều doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào nhất so với các lĩnh vực
khác.
2.2.2.

Đầu tư của Lào vào Việt Nam

Tính đến hết năm 2015, Lào có 10 dự án với tổng số vốn đăng ký hơn 75 triệu
USD. Xếp thứ 49 trong hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt
Nam và xếp thứ 7 trong tổng số các nước ASEAN. Riêng trong năm 2014, Lào
khơng có đầu tư vào Việt Nam.
Nguồn vốn FDI của Lào vào Việt Nam đầu tư cho các ngành: Công nghiệp chế
biến, chế tạo, vận tải kho bãi, tài chính ngân hàng, buôn bán lẻ và dịch vụ lưu
trú. Trong đó, ngành cơng nghiệp chế biến chế tạo đứng đầu với 3 dự án, trị giá
tổng vốn đầu tư lên tới 50 triệu USD, chiếm 75% vốn đầu tư của Lào và Việt
Nam. Đứng thứ hai về số dự án là ngành vận tải kho bãi và tài chính ngân hàng
bảo hiểm với 2 dự án. Đầu tư của Lào vào Việt Nam đã từng bước đa dạng hóa
về lĩnh vực, tuy nhiên số lượng cũng như vốn đầu tư còn thấp.
2.3. Về cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu giữa hai nước
2.3.1.

Nhập khẩu của Lào từ Việt Nam

Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường Lào bao gồm: sắt thép
và sản phẩm từ sắt thép, phương tiện vận tải, cờ-lanh-ke (clanke) và xi-măng,
sản phẩm từ chất dẻo, dây và cáp điện, rau, củ, quả... Thông qua hoạt động
thương mại biên giới, Việt Nam và Lào đã trao đổi được một khối lượng lớn các
mặt hàng nông, lâm sản, thực phẩm, hàng tiêu dùng cơng nghiệp và khống sản.
Nếu như năm 2011, Việt Nam có 10 nhóm hàng xuất khẩu sang Lào thì đến năm
2016 con số này tăng lên 17 nhóm hàng. Trong đó, có 7 nhóm hàng đạt trị giá


23


×