Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phân tích quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật và liên hệ với thực tiễn đổi mới kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.5 KB, 14 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
…...0O0…..

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Đề tài số 4
Phân tích quan điểm tồn diện của Phép biện chứng duy vật và
liên hệ với thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

Đỗ Xuân Sơn – Mã SV: 11216965
Lớp: Triết học Mác - Lênin(221)__24
Khóa: 63 – GĐ: D_304

0

0


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

NỘI DUNG

3

1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN



3

1.1. Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến

3

1.2. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin

5

2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO THỰC
TIỄN ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

6

2.1. Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay

6

2.2. Đại hội XIII vận dụng quan điểm toàn diện vào thực tiễn
đổi mới kinh tế ở Việt Nam

9

KẾT LUẬN

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO

14

MỞ ĐẦU
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập kinh tế
2

0

0


quốc tế, do đó sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đó cũng có
những điểm khác so với trước đây.
Trước những năm 1986, do nhận thức và vận dụng sai lầm lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến những
thất bại to lớn như sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên xô
và các nước Đông Âu.
Trong khi khẳng định tính tồn diện, phạm vi bao qt tất cả các mặt, các
lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
đã đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là
khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế
lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Thực tiễn, hơn 35 năm đổi mới nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác
nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên. Đại hội đại biểu lần thứ VIII
của đảng đã khẳng định xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ
đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chính sách đối
nội đối ngoại. Khơng có sự đổi mới đó thì khơng có sự đổi mới khác.

Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôi đã lựa chọn tiểu luận “Quan
điểm toàn diện của Phép biện chứng duy vật và liên hệ với thực tiễn đổi mới
kinh tế ở Việt Nam hiện nay”.
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thế giới quan duy vật biện chứng, căn
cứ vào quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới
kinh tế hiện nay.
NỘI DUNG
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Theo quan điểm siêu hình, các sự vật hiện tượng tồn tại một cách tách rời
nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng khơng có sự phụ thuộc, khơng có sự
ràng buộc lẫn nhau, những mối liên hệ có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt, bề
ngồi mang tính ngẫu nhiên. Một số người theo quan điểm siêu hình cũng thừa
nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó nhưng laị phủ nhận khả năng chuyển hố
lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Ngược lại, quan điểm biện chứng cho rằng thế giới tồn tại như một chỉnh
thể thống nhất. Các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa
tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.
Về nhân tố quy định sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới,
chủ nghĩa duy tâm cho rằng cơ sở của sự liên hệ, sự tác động qua lại giữa các sự
vật và hiện tượng là các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, ở cảm giác của
con người. Xuất phát từ quan điểm duy tâm chủ quan, Béccơli coi cơ sở của sự
3

0

0



liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là cảm giác. Đứng trên quan điểm duy tâm
khách quan, Hêghen lại cho rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật,
hiện tượng là ở ý niệm tuyệt đối.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định cơ sở của sự liên
hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Theo quan điểm này, các sự vật hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, khác
nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác
nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả ý thức, tư tưởng của
con người vốn là những cái phi vật chất cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết
quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
Quan điểm duy vật biện chứng khơng chỉ khẳng định tính khách quan, tính
phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, các q trình, mà nó cịn nêu
rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại: có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ
bên ngồi, có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ bao
quát một số lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới, có mối liên hệ
trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại được thể hiện
thơng qua một hay một số khâu trung gian, có mối liên hệ bản chất, có mối liên
hệ tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên, có mối liên hệ giữa các sự vật khác nhau và
mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận
động, phát triển qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, giữa các giai đoạn đó
cũng có mối liên hệ với nhau, tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự
vật và các quá trình tương ứng.
Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và
phát triển của chính các sự vận động và phát triển của các sự vật hiện tượng.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật,
nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng khác nhau,

nói chung nó khơng có ý nghĩa quyết định. Hơn nữa, nó thường phải thơng qua
mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động và phát triển
của sự vật. Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là phủ nhận hồn tồn vai trị
của mối liên hệ bên ngồi đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đơi khi có thể giữ vai trị
quyết định.
Mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên
cũng có tính chất tương tự như đã nói ở trên. Ngồi ra chúng cịn có những nét
đặc thù. Chẳng hạn như, cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này lại là
cái tất nhiên khi xem xét trong mối liên hệ khác, ngẫu nhiên lại là hình thức biểu
hiện ra bên ngồi của cái tất yếu, hiện tượng là hình thức biểu hiện ít nhiều đầy
đủ của bản chất. Đó là những hình thức đặc thù của sự biểu hiện những mối liên
hệ tương ứng.

4

0

0


Như vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ địi hỏi phải thừa
nhận tính tương đối trong sự phân loại các mối liên hệ. Các loại liên hệ khác
nhau có thể chuyển hố lẫn nhau. Sự chuyển hố như vậy có thể diễn ra hoặc do
thay đổi phạm vi bao quát khi xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan
của chính sự vật và hiện tượng.
Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự
nhiên, trong xã hội và trong tư duy con người, phép biện chứng duy vật, tập
trung nghiên cứu những loại liên hệ chung, mang tính chất phổ biến. Những
hình thức và những kiểu liên hệ riêng biệt trong các bộ phận khác nhau của thế

giới là đơí tượng nghiên cứu của các ngành khoa học khác.
1.2. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin
1.2.1. Cơ sở nguyên tắc
Xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác
nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới
duy nhất, thống nhất là thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng
khơng thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại
chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
Các sự vật, hiện tượng khơng tồn tại ở ngồi liên hệ. Liên hệ bao giờ cũng
là liên hệ của sự vật, hiện tượng, quá trình. Sự vật, hiện tượng thay đổi thì sự
liên hệ của chúng cũng thay đổi và việc thay đổi hồn tồn những mối liên hệ,
mà trong đó sự vật, hiện tượng đang tồn tại có thể dẫn đến sự thay đổi hoàn toàn
sự vật, hiện tượng ấy.
Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình, ở tất
cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy; ngay trong các mặt, các yếu tố, các bộ
phận của một sự vật hiện tượng hay giữa các giai đoạn của nó cũng có liên hệ
lẫn nhau.
Mối liên hệ có tính đa dạng phong phú về phạm vi, vai trị và tính chất.
Sự vật khác nhau có mối liên hệ khác nhau. Trong sự vật có nhiều mối liên hệ
nhưng vai trị và vị trí của các mối liên hệ là không ngang bằng nhau. Một sự vật
phát triển qua các giai đoạn khác nhau thì có các mối liên hệ khác nhau.
1.2.2. Nội dung nguyên tắc toàn diện
Khi xem xét sự vật hiện tượng phải thấy được đầy đủ các mối liên hệ, các
mặt, các yếu tố của sự vật đó.
Do các mối liên hệ bên trong sự vật có vị trí, vai trị khác nhau nên phải
có trọng tâm, trọng điểm, xác định rõ vị trí, vai trị của những mối liên hệ cơ
bản, chủ yếu. Tránh phiến diện, cào bằng.
Trong hoạt động thực tiễn, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải sử dụng
đồng bộ nhiều cách thức, biện pháp, phương tiện khác nhau để tác động làm

5

0

0


thay đổi các mối liên hệ tương ứng, song phải biết sử dụng biện pháp chủ yếu,
quyết định.
Phê phán chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện:
Chủ nghĩa chiết trung, một mặt, tuy tỏ ra chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ khác nhau, nhưng lại kết hợp vô nguyên tắc những cái khác nhau tạo
thành một hình ảnh không đúng về sự vật. Mặt khác, chủ nghĩa chiết trung xem
xét cào bằng các mặt, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ với nhau, cho nên
không biết rút ra mặt cơ bản chất, mối liên hệ căn bản, do đó hồn tồn bất lực
khi cần có quyết sách đúng đắn.
Thuật nguỵ biện cũng giả chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ khác
nhau của sự vật, song lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản
chất thành cái bản chất.
2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO THỰC TIỄN ĐỔI
MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay
Có thể nói, thực chất của tiến trình đổi mới ở nước ta trong 35 năm qua
(tính từ Đại hội VI của Đảng năm 1986) về mặt kinh tế là việc tìm kiếm mơ hình
phát triển kinh tế tối ưu cho đất nước bằng việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp (tồn tại trước năm 1986) sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi kèm với đó là sự chuyển đổi thể chế
kinh tế từ thể chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung dựa trên nền tảng công
hữu sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nền

tảng đa sở hữu. Tiến trình đổi mới tất yếu được thực hiện bằng sự dân chủ hóa
mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng ta đã chính thức xác định mơ
hình kinh tế tổng qt của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ” do nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa quản lý. Tinh thần đó được chính thức ghi nhận trong
Hiến pháp khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001. Chủ
trương có tính chiến lược này cũng được kế thừa nhất quán trong Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII và XIII của Đảng cũng như trong Hiến
pháp năm 2013.
Riêng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
kể từ năm 1986 đến nay, Trung ương Đảng đã hai lần ban hành Nghị quyết
chuyên đề về chủ đề này, đó là Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/1/2008 của Hội
nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về “tiếp tục hồn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và Nghị quyết số
11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành trung ương
6

0

0


Đảng khóa XII về “Hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Theo tinh thần các Nghị quyết này, nội dung cốt lõi của thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là các quy định pháp luật về sở hữu,
quyền tài sản, pháp luật về đầu tư, kinh doanh (nhằm phát triển các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp), pháp luật về các loại thị trường (hàng hóa,

dịch vụ, lao động, bất động sản, khoa học và công nghệ, tài chính v.v.), pháp luật
về bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường (nhằm gắn kết tăng trưởng kinh
tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và cơng bằng xã hội, quốc phịng, an
ninh, bảo vệ mơi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu), pháp luật về giải quyết
tranh chấp và xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh tế.
Theo đúng định hướng của Đảng, trong suốt 35 năm qua, trên cơ sở vừa tìm
tịi từ thực tiễn cải cách, đổi mới, phát triển kinh tế, tham khảo kinh nghiệm lập
pháp của các quốc gia có nền kinh tế thị trường trên thế giới, nhất là các quốc
gia phát triển, Việt Nam đã rất coi trọng công tác xây dựng thể chế phục vụ phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho tới nay, đúng như
đánh giá của Đại hội XIII của Đảng, “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội
nhập. Đã hình thành hệ thống pháp luật về kinh tế khá đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý
cho các doanh nhiệp thuộc mọi loại hình sở hữu hoạt động. Vai trò của Nhà
nước đã được điều chỉnh phù hợp với cơ chế thị trường, về cơ bản, đã thiết lập
được khung pháp lý và bộ máy thực thi hiệu quả hơn” 1. Bản thân các chỉ số về
tăng trưởng kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu, lượng vốn đầu tư nước ngoài
được thu hút hàng năm, cùng mỗi năm khoảng trên 100 ngàn doanh nghiệp được
thành lập mới là những con số biết nói minh chứng cho những thành tựu của
việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
thời gian qua. Trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể, có thể thấy, các đạo luật
điều chỉnh những quan hệ kinh tế, dân sự cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã được ban hành, trong số đó, phải kể tới các đạo
luật sau: Các đạo luật quy định về bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản của người
dân, doanh nghiệp, các đạo luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng, bảo đảm quyền tự
do hợp đồng của người dân, doanh nghiệp như Bộ luật dân sự, Luật Đất
đai, Luật Nhà ở, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại v.v; Các đạo luật quy
định điều chỉnh các hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế như Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư v.v; Các đạo luật về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng như Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,

Luật An toàn thực phẩm, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa…; Các đạo luật
về một số loại thị trường quan trọng như thị trường lao động, thị trường đất đai,
thị trường bất động sản, thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường vốn, thị trường
tín dụng như Bộ luật lao động, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất
động sản, Luật Thương mại, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Chứng khốn…;
Các đạo luật về an sinh xã hội và bảo vệ môi trường như Luật Bảo hiểm xã hội,
Luật Bảo vệ môi trường…; Các đạo luật về giải quyết tranh chấp và phá sản đã
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, H 2021, tập 2, tr. 31.

7

0

0


được ban hành, trong đó phải kể tới Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật
Trọng tài thương mại năm 2010, Luật Phá sản năm 2014. Bên cạnh đó, các đạo
luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh tế cũng được ban hành trong đó phải
kể tới Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Điều đặc biệt là, tư
duy xây dựng pháp luật có sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, trong đó có
những thay đổi mang tính đột phá. Chẳng hạn, chuyển từ “tự do kinh doanh theo
quy định của pháp luật” (và chỉ dành riêng quyền tự do kinh doanh đó cho cơng
dân) sang “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không
cấm” (và dành cho tất cả mọi người). Điều này cũng đồng nghĩa với việc, không
gian hoạt động kinh doanh, đầu tư của người dân, doanh nghiệp từ “trong khuôn
khổ do pháp luật quy định” sang không gian rộng lớn hơn nhiều, thỏa sức sáng

tạo, chỉ ngoại trừ những ngành, lĩnh vực pháp luật cấm. Đi kèm với đó là việc
Nhà nước khơng cố gắng tìm ra các ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh để “cho
phép” người dân, doanh nghiệp tiến hành đầu tư, kinh doanh, điều vừa bó buộc
tiến trình giải phóng lực lượng sản xuất vốn cịn non trẻ ở Việt Nam lại vừa
không khả thi về mặt lập pháp, không thực sự phù hợp với bản chất của Nhân
dân, do Nhân dân và vì Nhân dân của Nhà nước, không thực sự với quan điểm,
tư tưởng, giá trị nền tảng, cốt lõi trong chỉ đạo cách mạng của Đảng ta là cội
nguồn mọi sức mạnh của Đảng, Nhà nước ta, chính quyền của ta là từ Nhân dân.
Chúng ta cũng cần lưu ý tới một thực tế là khơng một nhà nước nào, dù có trình
độ hiện đại đến đâu có thể giỏi hơn trí tuệ của tồn thể nhân dân - người chủ
đích thực của Nhà nước.
Các nỗ lực trong cắt giảm thủ tục hành chính, cắt giảm các điều kiện kinh
doanh bất hợp lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh trong những năm qua,
nhất là kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014
về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia thu được kết quả rất đáng ghi nhận. Theo đó,
các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp đã nhận thức đầy đủ tầm
quan trọng của cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
và ngày càng chủ động, tích cực triển khai các giải pháp trong phạm vi trách
nhiệm của mình. Nhờ đó, hàng nghìn rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh
doanh đã được dỡ bỏ; nhiều yếu tố, vấn đề về xã hội, quản lý, quản trị liên quan
tới chất lượng môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia được chú
trọng chỉ đạo giải quyết. Thứ hạng của Việt Nam trong tất cả các bảng xếp hạng
quan trọng của quốc tế đều được cải thiện. Mặc dù là nước đang phát triển có
mức thu nhập trung bình thấp (thứ 127), nhưng nước ta vẫn đạt vị trí 70 về mơi
trường kinh doanh năm 2019 (tăng 20 bậc so với năm 2015) và thứ 67 về Năng
lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (tăng 10 bậc so với năm 2018). Trong 5 năm qua,
Năng lực cạnh tranh du lịch tăng 12 bậc, xếp thứ 63; Hiệu quả logistics tăng 25
bậc, xếp thứ 39; Đổi mới sáng tạo toàn cầu tăng 17 bậc, xếp thứ 42. Đặc biệt,
xếp hạng về phát triển bền vững tăng 34 bậc, từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm

2020. Ngoài ra, khơng ít chỉ số, tiêu chí cụ thể của nước ta được ghi nhận tiến bộ
8

0

0


vượt bậc như: Tiếp cận điện năng tăng 81 bậc, xếp thứ 27; Ứng dụng công nghệ
thông tin tăng 54 bậc, xếp thứ 41, v.v... Năm 2020, cùng với nỗ lực phịng
chống, kiểm sốt tốt đại dịch COVID-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã
chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ
doanh nghiệp khắc phục tác động tiêu cực nhiều mặt của dịch bệnh, tạo môi
trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh,
thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Mặc dù vậy, khách quan mà nói, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa cần tiếp tục được cải cách và
hồn tồn có thể được cải cách. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đánh
giá: “Hoàn thiện thể chế; đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế;
cơng nghiệp hố, hiện đại hố chậm, chưa tạo được chuyển biến văn bản về mơ
hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế chưa cao2. “Năng lực xây dựng thể chế cịn hạn chế; chất lượng luật pháp và
chính sách trên một số lĩnh vực cịn thấp. Mơi trường đầu tư, kinh doanh chưa
thực sự thơng thống, minh bạch”3. Thực tế cho thấy, nhiều quy định về đất đai,
đăng ký tài sản, giao dịch điện tử, thương mại điện tử, bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng, bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ dữ liệu cá nhân, các quy định
điều chỉnh các mơ hình kinh doanh mới trước tác động của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, quy định về giải quyết tranh chấp thương mại v.v. đang
rất cần được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới.
2.2. Đại hội XIII vận dụng quan điểm toàn diện vào thực tiễn đổi mới

kinh tế ở Việt Nam
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất của sự vật chỉ được
hình thành, biến đổi và bộc lộ thơng qua các mối liên hệ. Vận dụng quan điểm
toàn diện trong việc xác định các định hướng chiến lược phát triển đất nước giai
đoạn 2021 - 2030, Đảng ta đã đề cập đến tất cả các lĩnh vực của đời sống chính
trị, xã hội. Thông qua định hướng phát triển trong từng lĩnh vực ấy cũng đã cho
chúng ta thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu trong chỉnh thể văn
kiện của Đảng; khẳng định bản chất tốt đẹp của Đảng và Nhà nước ta, hướng
đến xây dựng xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh. Những định hướng đó thể hiện quan điểm tồn diện sâu sắc, thể hiện tính
nhân văn, khát vọng đem lại sự phồn vinh cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Quan điểm toàn diện trong văn kiện Đại hội XIII tiếp tục thể hiện ở việc
nhận thức, đề ra yêu cầu nhận thức và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đây là sự phản ánh các quy luật
mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của
Đảng. Các mối quan hệ lớn trong văn kiện Đại hội XIII tiếp tục có sự bổ sung,
phát triển tồn diện hơn so với các kỳ Đại hội trước, gồm 10 mối quan hệ: quan
hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa;
2
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 80.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 80.

9

0

0



giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ
cương xã hội.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về phát triển kinh tế, bổ sung, nhấn mạnh
xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị
trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa
các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất và công
nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số… “Đổi
mới mạnh mẽ mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, năng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”4
Các nghị quyết đã xác định việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột
phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững; xác định kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền
kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập quốc tế. Xác định mục tiêu quan
trọng là phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nhằm "Bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưỏng kinh tế với
phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững.
Văn kiện Đại hội XIII trong bối cảnh mới đã chỉ rõ: Chiến lược phát triển
tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc Đổi mới,
phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai
đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung

tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo
đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
Trong điều kiện mới, dưới tác động của quá trình tồn cầu hóa và sự phát
triển nhanh, mạnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, văn kiện Đại hội XIII
của Đảng đã chỉ rõ những nội dung mới. Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ
yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyên đổi số. “Tiếp tục đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố trên nền tảng của tiến bộ khoa học, cong
nghệ và đổi mới sáng tạo”5. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm
bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển
kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất lao
động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát huy tối đa lợi thế của các
vùng, miền; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ mơi
4
5

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 120
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 122.

10

0

0


trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho
các đối tượng chính sách, người có cơng, người nghèo, người yếu thế, đồng bào
dân tộc thiểu số. “Nâng cao chất lượng quy hoạch vùng, đổi mới, hồn thiện thể
chế quản lý vùng có hiệu quả, phát huy tốt tiềm năng, lợi thế của từng vùng,

tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng”6.
Trước những yêu cầu đòi hỏi mới của thực tiễn, Đại hội XIII bổ sung
nhiều nhận thức, định hướng mới trong quan điểm về thể chế phát triển, nhấn
mạnh yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, hình thành các mơ hình kinh tế
mới, phát triển các khu vực kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân. Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội mười năm (2021 - 2030) đã xác định: Với cải cách nâng
cao chất lượng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ,
hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả, là điều kiện tiên
quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy
động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực sản xuất, nhất là đất đai. Hệ
thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các
sản phẩm, dịch vụ, mơ hình kinh tế mới. Phải coi trọng hơn quản lý phát triển xã
hội; mở rộng dân chủ phải gắn với giữ vững kỷ luật kỷ cương. Phát triển nhanh,
hài hòa các khu vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; phát triển kinh tế tư
nhân thực sự là một động lực của nền kinh tế. “Phát triển nhanh, hài hoà các khu
vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; phát triển kinh tế tư nhân thực sự là
một động lực quan trọng của nền kinh tế”7.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm đặt con người vào vị
trí trung tâm của chiến lược phát triển, con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực phát triển, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển, xác định một trong những mối quan hệ lớn cần tiếp tục quán triệt
và xử lý tốt là quan hệ giữa “Xây dựng và phát triển đồng bộ thể chế, chính sách
phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hoà”8.
Văn kiện Đại hội XIII cũng khẳng định và làm rõ hơn những nét đặc thù
quan trọng trong mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là:
Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước… Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc

gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng,
hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết
chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó, phát triển kinh tế - xã hội
là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
“Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn
6
7
8

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 127.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 215.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 148.

11

0

0


định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã
hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. … Kinh tế tập thể, kinh tế
hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có phạm vi hoạt động rộng lớn … Kinh tế tư
nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật
không cấm … Kinh tế có vốn đầu từ nước ngồi là một bộ phận quan trọng của
nền kinh tế quốc dân, có vai trị to lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công
nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường phát triển”9.
Đặc biệt, việc tái khẳng định mục tiêu cao nhất của công cuộc đổi mới và
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vì một Việt Nam

“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điều này một lần nữa
cho thấy: Xây dựng mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phù hợp với xu hướng và yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế thị trường trên thế
giới, bởi lẽ, thực tế đã, đang và sẽ ngày càng cho thấy, dù ở đâu và thời đại nào,
dù đa dạng và khác nhau về chế độ và thể chế chính trị, song mọi mơ hình kinh
tế thị trường muốn thành công đều phải ngày càng hội tụ vào mục tiêu cao nhất
và xuyên suốt là vì phát triển đất nước bền vững và đáp ứng ngày càng tốt hơn
khát vọng hạnh phúc cho người dân của quốc gia mình.
Sự khẳng định dứt khốt: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cũng là điểm mới quan trọng mang tầm chiến lược và mang thông
điệp mới, coi xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
quá trình dài và việc nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước là cần thiết, tạo sự linh hoạt
và vận dụng hiệu quả nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong chỉ đạo, điều
hành thực tiễn của Đảng trước mọi biến động nhanh, khó lường của thế giới.
Đây cũng là thông điệp khẳng định sự nhất quán trong nhận thức chính trị nói
chung của Đảng ta về định hướng nội dung và mục tiêu con đường đổi mới, hội
nhập của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, phù hợp với thực tiễn trong
nước và xu hướng chung trên thế giới.
Vị trí, vai trị của các thành phần kinh tế cũng được cụ thể hóa và minh
bạch hơn, theo đó, Đảng xác định:
Kinh tế nhà nước là cơng cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển
kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Các nguồn lực
kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp
nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an
ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế;
lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước phải hoạt
động theo cơ chế thị trường, áp dụng quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế,
9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 129-130.

12

0

0


lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu chủ yếu và cạnh tranh bình đẳng với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Cần nhấn mạnh rằng, các nguyên tắc và kết
quả triển khai là cần thiết để Việt Nam được các thành viên WTO và các đối tác
thế giới công nhận là nền kinh tế thị trường trong q trình hội nhập quốc tế, nhất
là trong khn khổ các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trị cung
cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ
lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất
kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình
thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực
mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ,
được hỗ trợ phát triển thành các cơng ty, tập đồn kinh tế tư nhân mạnh, có sức
cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh
nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự
tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế

quốc dân, có vai trị lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương
thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
KẾT LUẬN
Vận dụng, quán triệt quan điểm toàn diện yêu cầu phải đi vào trọng điểm
từng vấn đề, từng nội dung trong chiến lược phát triển đất nước về các lĩnh vực
cụ thể như kinh tế, giáo dục, đào tạo, khoa học - cơng nghệ, văn hóa, con người,
mơi trường, xây dựng đảng, phát huy dân chủ, hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đã chứng minh tính cách
mạng, khoa học, sức sống mãnh liệt, giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân. Chúng ta rất tự hào rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tiếp tục trên con đường
đổi mới đất nước, mỗi sinh viên cần ra sức học tập, vận dụng, phát triển và bảo
vệ những giá trị cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo đúng đắn, toàn diện của Đảng, từng
bước hiện thực hóa khát vọng phồn vinh, hạnh phúc./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

13

0

0


1. Giáo trình Triết học (dùng cho đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sĩ các
ngành xã hội và nhân văn không chuyên ngành Triết học), Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2014.
2. Giáo trình Triết học lý luận và vận dụng, Nxb Chính trị quốc gia - Sự

thật, Hà Nội, 2013.
3. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
4. Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.
5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, 2021.
6. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, 2021.

14

0

0



×